Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Luận văn: " Văn hóa trong kinh doanh" potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.11 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐỀ TÀI:
Văn hóa trong kinh doanh
1
Mục lục
Phần I. Lời mở đầu 1
Phần II. Nội dung của đề tài 3
Chương I. Cơ sở lý luận của văn hóa trong kinh doanh 3
I. Khái niệm văn hóa trong kinh doanh 3
1. Khái niệm văn hóa 3
2. Khái niệm kinh doanh 5
3. Khái niệm văn hóa trong kinh doanh 6
II. Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế 7
III. Vai trò của văn hóa trong hoạt động sản xuất – kinh doanh 9
1. Văn hóa với tư cách là tri thức, kiến thức tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất – kinh
doanh phát triển 9
2. Các yếu tố văn hóa với tư cách là những biểu hiện của trình độ cao trong sinh
hoạt xã hội 10
3. Các di sản văn hóa của một nền văn mình cổ xưa có vai trò tạo ra động lực tinh
thần trong hoạt động sản xuất kinh doanh 10
4. Các yếu văn hóa trong kinh doanh tạo ra sự phát triển hài hòa, lành mạnh của mỗi
quốc gia, tạo ra sức sống của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, tạo ra
sức mạnh cộng đồng cho phát triển, tạo điều kiện cho tái sản xuất lao động, góp
phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh 10
Chương II. Tình hình và thực trạng về văn hóa trong kinh doanh ở các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay 12
I. Văn hóa trong kinh doanh trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay 12
II. Những kết quả đạt được trong việc đưa văn hóa vào trong hoạt động sản xuất
kinh doanh 15
III. Đưa nhân tố văn hóa vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn hiện
nay 16


1. Đưa nhân tố văn hóa vào quá trình khôi phục và phát triển lực lượng sản xuất xã
hội 17
2. Đề cao thang giá trị trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và biến đổi cơ cấu
xã hội – dân cư 17
3. Từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nâng cao tầm vóc
và hiệu quả của nó 18
4. áp dụng hệ thống ISO trong sản xuất kinh doanh ở tất cả các doanh nghiệp
18
Chương III. Nguyên nhân, phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để đưa văn
hóa vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta hiện nay 19
I. Nguyên nhân 19
1. Chưa nhận thức được vai trò của văn hóa trong kinh doanh 19
2
2. Dư luận xã hội còn có quá nhiều áp lực về văn hóa và kinh doanh 19
II. Một số định hướng trong xây dựng văn hóa kinh doanh ở các doanh nghiệp Việt
Nam 21
1. Xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi 21
2. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp 21
3. Xây dựng một đội ngũ doanh nhân văn hóa 22
4. Nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hóa kinh doanh 23
III. Một số giải pháp tạo sắc thái văn hóa kinh doanh ở Việt Nam 23
1. Nhóm giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng 24
2. Nhóm giải pháp về tăng cường và nâng cao quản lý nhà nước 24
3. Nhóm giải pháp xây dựng môi trường văn hóa, xã hội 25
4. Nhóm giải pháp chuyên môn, nghiệp vụ 26
Phần III. Kết luận 27
Tài liệu tham khảo
3
Phần I: Lời mở đầu
Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước Đảng ta luôn luôn coi trọng yếu tố văn

hoá là nền tảng tinh thần của xã hội là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong
quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Văn hoá vừa là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và là mục tiêu của chúng ta. Trong quá trình
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự định
hướng của nhà nước. Văn hoá ngày càng đóng góp vai trò điều tiết tinh thần, góp
phần đắc lực vào việc khai thác những nhân tố tích cực hạn chế nhân tố tiêu cực của
mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong xã hội, văn hoá giữ vai trò góp phần hình thành
một con đường phát triển phù hợp với đặc điểm của dân tộc và xu hướng phát triển
của thế giới. Gần đây các học giả quốc tế nói nhiều, nghiên cứu nhiều về các yếu tố
thành công của các nước có nền công nghiệp mới (Wics) trong phát triển trong khu
vực Đông á - Đông Nam á (là những con rồng – con hổ trong phát triển kinh tế). Sự
thành công và năng động đó được xác nhận là sự bắt nguồn từ các yếu tố văn hoá
truyền thống, trong đó tính cộng đồng, tính ý thức dân tộc thể hiện rất cao trong
quan hệ kinh doanh: sự ham học hỏi, sáng tạo, tính nghiêm túc, kỷ luật cao trong
công việc đã được nhấn mạnh và được coi là những nhân tố thúc đẩy quá trình tăng
kinh tế bền vững, cân đối của các nước này. Và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam với rất nhiều các quan hệ kinh tế đan xen nhau bên
cạnh mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều mặt tiêu cực làm nảy sinh các hành vi kinh
doanh thiếu đạo đức – phi văn hoá, chayjt heo lợi nhuận ảnh hưởng đến văn hoá
kinh doanh, đến các giá trị kinh doanh nền tảng của nền kinh tế thị trường – làm cho
các giá trị đó bị đảo lộn, đe doạ sự bất ổn cho hoạt động kinh tế, chính vì tính cấp
thiết của sự xuống cấp thang giá trị đó. Ngoài mục đích đưa ra những nhận thức
chung về văn hoá kinh doanh. Còn lý do thứ hai là em muốn nhấn mạnh hơn xây
dựng văn hoá kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đó là lý do vì sao
em lựa chọn đề tài:
Tuy nhiên, văn hoá kinh doanh là những phạm trù rộng lớn có nhiều mối quan hệ
tác động qua lại hết sức đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải được tiếp tục đi sâu
nghiên cứu, thảo luận trong thời gian tới. Cho nên đề án có thể có nhiều hạn chế
nhất định. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng quý báu của các
bạn, cùng các thầy cô có quan tâm.

Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Nguyễn Văn Diễn

4
Phần II: Nội dung của đề tài
Chương I: Cơ sở lý luận của văn hoá trong kinh doanh
I. Khái niệm văn hoá trong kinh doanh
Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh, làm thế nào để sử dụng mối quan hệ đó,
đưa văn hoá vào kinh doanh, sử dụng những đặc trưng của nền văn hoá vào kinh
doanh để đạt tốc độ tăng trưởng cao và hiệu quả là những vấn đề đang đặt ra nóng
hổi. Những vấn đề đó đã thoát ra khỏi lĩnh vực xã hội đơn thuần mà còn trở thành
mối quan tâm của chính khách, các nhà quản lý và các nhà kinh doanh.
1. Khái niệm văn hoá.
Cho tới nay, đã có khoảng 400 – 500 định nghĩa về văn hoá. Một con số rất lớn và
không xác định như vậy nói lên sự phong phú của khái niệm văn hoá.
Từ thế kỷ XIX (năm 1871) Edward Burrwett Tylor đã đưa ra một định nghĩa cổ
điển, theo đó văn hoá bao gồm mọi năng lực và thói quen, tập quán của con người
với tư cách là thành viên của xã hội. Với định nghĩa đó, văn hoá bao gồm ngôn ngữ,
tư tưởng, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, nghi thức, qui tắc, thể chế, chuẩn mực,
công cụ, kỹ thuật, công trình nghệ thuật (hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc) và những
yếu tố khác có liên quan đến con người.
Theo triết học Mác – Lênin: văn hoá là tổng hoà những giá trị vật chất và tinh thần
cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ
của loài người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hình
thức khởi đầu và nguồn gốc đầu tiên làm hình thành và phát triển văn hoá là lao
động của con người, phương thức hiện lao động và kết quả của lao động và kết quả
lao động.
Còn theo giáo trình quản lý xã hội khái niệm văn hoá: là một thiết chế xã hội cơ
bản, là một phức thể, tổng thể các đặc trưng – diện mạo về tinh thần, vật chất, tri
thức, tình cảm khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng

miền quốc gia, xã hội văn hoá có thể là hữu thể, có thể là vô hình.
Như vậy, dù theo định nghĩa, mọi định nghĩa văn hoá đều chứa một nét chung là
“con người” đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn hoá với
con người. Văn hoá và con người là hai khái niệm không tách rời nhau. Con người
là chủ thể sáng tạo ra văn hoá. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình,
con người luôn sáng tạo không ngừng để làm nên giá trị văn hoá. Một trong số
những giá trị văn hoá được con người sáng tạo ra ấy chính là bản thân con người –
con người có văn hoá. Con người sáng tạo ra văn hoá, đồng thời chính con người
cũng là sản phẩm của văn hoá.
5
Trong sơ đồ 1 chỉ rõ: văn hoá là toàn bộ của cải vật chất, tinh thần do con người
sáng tạo ra trong lịch sử để vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái tốt, cái hợp lý và sự phát
triển bền vững an toàn cho cộng đồng, xã hội và nhân loại.
Sơ đồ 1: Cấu trúc văn hoá
- Văn hoá vật chất: là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được thể hiện
trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra kể từ các tư liệu sản xuất cho đến các tư
liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn khác nhau của xã hội thì các sản
phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, phản ánh các giai đoạn phát triển khác nhau
của văn hoá.
- Văn hoá tinh thần: là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần, bao gồm khoa
học ở mức độ áp dụng của thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh hoạt, trình độ
học vấn, tình trạng, giáo dục y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức trong hành vi của
các thành viên trong xã hội, trình độ phát triển nhu cầu con người văn hoá còn bao
gồm những phong tục tập quán, những phương thức giao tiếp ngôn ngữ.
Ranh giới giữa văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần chỉ có tính chất tương đối.
- Văn hoá mang tính giai cấp, nó phục vụ cho giai cấp nhất định. Tính giai cấp đó
biểu hiện ở chỗ văn hoá do ai sáng tạo ra, phản ánh và phục vụ cho lợi ích của giai
cấp nào, những cơ sở vật chất của văn hoá (các phương tiện thông tin, tuyên truyền,
các rạp hat ) do ai làm chủ. Tính giai cấp của văn hoá còn thể hiện ở chức năng
của văn hoá.

Nó giáo dục, xây dựng con người theo một lý tưởng – chính trị – xã hội, đạo đức,
thẩm mỹ của một giai cấp nhất định.
6
- Văn hoá mang tính dân tộc, mang tính cộng đồng, tổ chức và được kế thừa qua
nhiều thế hệ. Mỗi dân tộc có lịch sử phát triển riêng, có điều kiện tự nhiên, các sinh
hoạt riêng, có phong tục tập quán, những thói quen tâm lý riêng. Điều đó qui định
đặc điểm riêng của văn hoá dân tộc.
2. Khái niệm kinh doanh.
Giải thích nghĩa của từ “kinh doanh” trong một số từ điểm do các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ Việt Nam biên soạn cơ chế là giống nhau.
Theo đại từ điển Tiếng Việt, thì kinh doanh có nghĩa là “tổ chức buôn bán để thu lỗ
lãi”.
Có từ điển từ và ngữ Việt Nam thì kinh doanh là “tổ chức hoạt động về mặt kinh tế
để sinh lời”.
Lãi hay lỗ ở đây được hiểu là: khi người ta bỏ vốn để buôn bán hoạt động kinh tế thì
giá trị thu về phải cao hơn số vốn ban đầu cùng với việc bảo đảm thực hiện các
trách nhiệm khác theo pháp luật.
Kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do
sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn đề là ở chỗ kinh doanh như thế nào, nó
đem lại lợi ích và giá trị cho ai? đó chính là vấn đề của văn hoá trong kinh doanh.
Như vậy, kinh doanh có thể hiểu như luật doanh nghiệp, xem đó là việc thực hiện
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
3. Khái niệm văn hoá trong kinh doanh.
Từ hai khái niệm văn hoá và kinh doanh ta đi đến khái niệm văn hoá kinh doanh là
gì?
Văn hoá trong kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh
doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình
kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ.
Việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh doanh sẽ đem lạij cho kinh

doanh và chủ thể kinh doanh một sử mạng cao cả. Đó là sứ mệnh phát triển con
người, đem lại sự giàu có, hạnh phúc cho mọi người, sự phồn vinh và vững mạnh
của đất nước, sự vẻ vang của dân tộc. Nhận thức được sứ mệnh ấy con người sẽ hay
say lao động, không ngại khó khăn gian khổ, thậm chí hy sinh cả lợi ích riêng của
mình đóng góp vào lợi ích chung vì xã hội. Do đó, văn hoá trong kinh doanh là bộ
phận cấu thành của nền văn hoá dân tộc, phản ánh trình độ của con người trong lĩnh
vực kinh doanh. Bản chất của văn hoá trong kinh doanh đó là làm cho cái lợi gắn
chặt chẽ với cái đúng cái tốt, cái đẹp. Cái lợi đó tuân theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp.
Ngược lại cái đúng, cái tốt, cái đẹp là cơ sở bền vững cho hoạt động sinh ra cái lợi.
Văn hoá kinh doanh cuả các nhà kinh doanh, của doanh nghiệp được nhận biết qua
hai phương diện chính.
Một là: các nhân tố văn hoá (hệ giá trị, triết lý sống, tâm lý) được vận dụng vào quá
trình kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hoá về dịch vụ phù hợp với nhu cầu
7
và thị hiếu của khách hàng có văn hoá. Đó chính là kiểu kinh doanh có văn hoá,
kiểu kinh doanh phù hợp với nét đẹp của văn hoá dân tộc.
Hai là: cái giá trị, sản phẩm văn hoá như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng, nghệ thuật
kinhdoanh mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt động và làm nghề
kinh doanh của họ, có tác dụng cổ vũ biểu dương đối với kiểu kinh doanh có văn
hoá mà họ đang theo đuổi. Đó chính là lối sống có văn hoá của các chủ thể kinh
doanh.
Đề cao cái lợi của hoạt động kinh doanh gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái đẹp,
nhằm thoả mãn có chất lượng nhu cầu và thị hiếu của đời sống xã hội, mỗi xã hội
cần định hình ra thành các truyền thống văn hoá kinh doanh trong nền văn hoá
chung của dân tộc.
II. Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế.
Văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực có tác động qua lại với nhau. Không thể có văn
hoá suy đồi mà kinh tế phát triển. Văn hoá bao giờ cũng là động lực quan trọng cho
sự phát triển kinh tế, mặt khác, kinh tế phát triển là mảnh đất thuận lợi cho sự phát
triển văn hoá của cộng đồng. Lịch sử thế giới cũng như nước Việt Nam đã chứng

minh nguyên lý đó. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra, trong quá trình phát triển của
nhân loại, một số nước lãnh thổ đã từng có nền văn hoá cao, được xem là cái nôi
của nền văn minh nhân loại, thì ngày nay các nước đó không phải là những nước có
nền kinh tế phát triển, thậm chí chỉ là những nước đang phát triển. Ví dụ, thời
thượng cổ, lưu vực sông Vệ và sông Hoàng Hà của Trung Quốc đã hình thành đời
sống đô thị khoảng 3000 năm trước công nguyên, khu vực Lưỡng Hà có một nền
văn hoá liên tục hơn 3000 năm trước công nguyên, lưu vực sông Nil, với đất đai phì
nhiêu, là nơi định cư của người Ai Cập là 3000 năm trước công nguyên khi hạ Ai
Cập thống nhất với thượng Ai Cập, thuộc triều đại các vua Pharaon với việc xây
dựng các Kim Tự Tháp.
Như vậy, từ việc khu xét sự phát triển của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
khu vực Châu á - Thái Bình Dương, người ta tìm thấy những dấu ấn và đặc trưng
văn hoá của các quốc gia đó trong phát triển kinh tế. Thực tế đó đã bắt buộc người
ta không chỉ thừa nhận sự tác động của các yếu tố văn hoá vào quá trình phát triển
triển kinh tế, mà còn đi sâu xem xét vai trò của văn hoá cũng như tầm quan trọng
của việc đưa các yếu tố văn hoá vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế có thể hiểu.
- Văn hoá và kinh tế có sự gắn bó tác động biện chứng với nhau. Kinh tế phải đảm
bảo cho nhu cầu sống tối thiểu của con người, sau đó mới đảm bảo điều kiện cho
văn hoá phát triển kinh tế không thể phát triển nếu không có một nền tảng văn hoá,
đồng thời văn hoá không chỉ phản ánh kinh tế mà còn là nhân tố tác động đến phát
triển kinh tế. Với mối quan hệ đó, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể
năng động hiệu quả, có tốc độ cao chừng nào quốc gia đó đạt được sự phát triển kết
hợp hài hoà giữa kinh tế với văn hoá.
8
- Văn hoá mang tính đặc thù của từng quốc gia, từng khu vực được coi là những di
sản quý báu bán tích lũy được qua nhiều thế hệ, mang đậm bản sắc dân tộc. Nhưng
đồng thời, với quá trình phát triển, kế thừa và giữa gìn bản sắc riêng, nó còn tiếp thu
những tinh hoa văn hoá của quốc gia, dân tộc khác, làm cho văn hoá đậm đà bản sắc
dân tộc vừa có tính hiện đại phù hợp với sự phát triển kinh tế trong điều kiện cách

khoa học – kỹ thuật, làm cho vai trò của văn hoá trong hoạt động kinh tế càng được
nâng cao và thiết thực khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, đem lại sự
phát triển cao với tốc độ cao và hài hoà trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.

III. Vai trò của văn hoá trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Theo luật doanh nghiệp, Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhàm mục đích sinh lợi (Điều 3, Chương I, Luật doanh nghiệp).
Văn hoá, với tư cách là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra,
đương nhiên nó trở thành di sản, thành tiền đề cho bất kỳ quá trình phát triển và tiếp
theo. Những giá trị vật chất đã sáng tạo ra đương nhiên là cơ sở không thể thiếu
được của sự phát triển ở các giai đoạn kế tiếp. Những giá trị văn hoá tinh thần phục
vụ cho một nhu cầu không thể thiếu của con người, nó đảm bảo chất lượng của yếu
tố con người – yếu tố cơ bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả của con người trong sản xuất kinh doanh.
1. Văn hoá với tư cách là tri thức, kiến thức tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất – kinh
doanh phát triển.
Sản xuất kinh doanh chính là quá trình con người sử dụng các tri thức, kiến thức
tích luỹ được để tạo ra các giá trị vật chất mới. Các tri thức này có thể biểu hiện
dưới hình thái ý thức, gắn liền với tư liệu sản xuất và người lao động. Khối lượng
các tri thức, kiến thức đó bản thân nó đã là các giá trị văn hoá, đồng thời nó cũng
được huy động và sử dụng vào sản xuất – kinh doanh trong môi trường văn hoá.
Nếu không có môi trường văn hoá trong sản xuất – kinh doanh thì không thể sử
dụng được các tri thức, kiến thức đó, và đương nhiên không thể tạo ra hiệu quả sản
xuất, không thể phát triển sản xuất – kinh doanh.
Với quan hệ giữa tri thức và kinh doanh như vậy, bắt buộc các giá trị văn hoá dưới
dạng tri thức, kiến thức phải được đảm bảo vào sản xuất kinh doanh thì mới đảm
bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được phát triển.
2. Các yếu tố văn hoá với tư cách là những biểu hiện của trình độ cao trong sinh

hoạt xã hội.
Sản xuất kinh doanh không chỉ là quá trình con người sử dụng các tư liệu sản xuất
và chiếm hữu vật chất mà con là các mối quan hệ giữa con người với con người.
Sản xuất kinh doanh là sự hiệp tác và phân công lao động, đây là quan hệ cơ bản ở
cả phạm vi hẹp và phạm vi rộng. Giải quyết tốt mối quan hệ đó là đảm bảo điều
9
kiện thành công của quá trình sản xuất kinh doanh. Nhưng bản thân con người trogn
các mối quan hệ đó có những đặc điểm tâm lý khác nhau, nguyện vọng lợi ích khác
nhau, khác nhau cả về tuổi tác, về những đặc thù mang tính dân tộc, tôn giáo sự
khác nhau đó dẫn đến sự khác nhau trong sinh hoạt xã hội. Trong quá trình sản xuất
kinh doanh, những sự khác biệt về sinh hoạt trong xã hội tuy không phải là yếu tố
của quá trình đó, nhưng luôn thường trực ở mỗi con ngời, mới chỉ lộ ra qua quá
trình giao tiếp. Nếu quá trình giao tiếp không nắm bắt được sự khác biệt đó sẽ dẫn
đến những điều biểu hiện, hoặc xung đột về suy nghĩ và hành động. Mỗi người
trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu có trình độ am hiểu sâu sắc về sinh hoạt xã
hội sẽ tạo ra được các ấn tượng, các mối quan hệ tốt đẹp với người khác, tạo được
bầu không khí thoả mái tin tưởng lẫn nhau trong tập thể lao động, đảm bảo quan hệ
kinh doanh dễ dàng.
3. Các di sản văn hoá của một nền văn minh cổ xưa có vai trò tạo ra động lực tinh
thần trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phân tích so sánh các quá trình phát triển và tồn tại của một nền văn minh giúp cho
con người hiện đại nhìn lại từ quá khứ, biết được khả năng của chính dân tộc mình,
từ đó xem xét hiện tượng và hướng tới tương lai.
4. Các yếu tố văn hoá trong kinh doanh tạo sự phát triển hài hoà, lành mạnh của mỗi
quốc gia, tạo ra sức sống của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, tạo ra
sức mạnh cộng đồng cho phát triển, tạo điều kiện cho tái sản xuất lao động, góp
phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh
Mọi nền sản xuất, suy cho cùng đều nhằm thoả mãn ngày càng cao các lợi ích vật
chất và tinh thần của con người. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động cơ thúc đẩy hành
động của con người. Nếu quá trình kinh doanh chỉ vì lợi nhuận đơn thuần như vậy

thì về mặt kinh tế, quốc gia đó sẽ phát triển lệch lạch những ngành và lĩnh vực ít lợi
nhuận sẽ không phát triển được và do vậy không thể đáp ứng được mọi nhu cầu của
con người. Về mặt xã hội, con người sẽ mất nhân cách đạo đức xã hội xuống cấp,
tội ác gia tăng.
Nói đến kinh doanh, là nói đến việc sử dụng tri thức và kiến thức. Sử dụng tri thức
đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa cá nhân, các cộng đồng người để khai
thác hết kho tàng tri thức đó phục vụ cho sản xuất kinh doanh, trí tuệ của mỗi người
sẽ bổ sung cho nhau tạo ra trí tuệ tập thể ở một trình độ cao và hoàn thiện hơn. Sự
kết hợp đó là nét đẹp văn hoá trong kinh doanh và chính nó tạo ra sức mạnh của tập
thể, của cộng đồng.
Phục vụ đáp ứng những nhu cầu cụ thể của con người về sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ. Những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đó ngoài yêu cầu về số lượng và chất
lượng nhất định còn đòi hỏi những yêu cầu về thẩm mỹ, tính tiện lợi khi sử dụng.
Có thể coi đó là những đòi hỏi của văn hoá tiêu dùng, các sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ nào đáp ứng được những đòi hỏi đó là đáp ứng văn minh tiêu dùng và sẽ có
sức sống trên thị trường. Để đạt được điều đó, sản xuất kinh doanh phải gắn liền với
10
các yếu tố văn hoá, thông qua việc tiếp cận các yếu tố văn hoá mà chọn lọc và vật
chất hoá chúng trong sản phẩm của mình cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng.
Các yếu tố văn hoà là món ăn tinh thần không thể thiếu của đời sống con người, như
những nhu cầu vật chất khác. Trong quá trình hoạt động lao động, sự căng thẳng về
cơ bắp và thần kinh diễn ra thường xuyên, gây ra mệt mỏi và căng thẳng về tâm lý.
Đưa các yếu tố văn hoá vào sản xuất kinh doanh từ việc thiết kế nơi làm việc, các
thiết bị và dụng cụ làm việc sẽ giảm bớt được trầm uất của những căng thẳng đó.
Đặc biệt đưa các hình thức hoạt động văn hoá vào trước giờ làm việc có thể tạo ra
hứng phấn lao động, vào thời gian nghỉ ngơi và cuối giờ làm việc có thể nhanh
chóng xoá đi sự căng thẳng và mệt mỏi về tâm lý giúp con người nhanh chóng phục
hồi sức lực hơn.

Chương II: Tình hình và thực trạng về văn hoá trong kinh doanh ở các doanh

nghiệp Việt Nam hiện nay
I. Văn hoá trong kinh doanh trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Kể từ khi ban hành Luật doanh nghiệp đầu năm 2000, khu vực kinh tế tư nhân phát
triển mạnh với trên 100.000 doanh nghiệp, thu hút hơn 100.000 tỷ đồng (tương
đương với khoảng 6,7 tỷ USD) vốn đầu tư, tạo ra hơn 1,3 triệu chỗ việc làm, còn
doanh nghiệp dãn doanh đóng góp đáng kể cho nền kinh tế năm 2000 có 14413
doanh nghiệp với đăng ký với số vốn 13700 tỷ đồng, năm 2001 ước tính có trên
1800 doanh nghiệp mới đăng ký với số vốn khoảng 22.000 tỷ đồng, chưa kể vốn
đăng ký bổ sung. Tổng cộng cả hai năm, có 32413 doanh nghiệp mới đăng ký, gần
bằng tổng số doanh nghiệp mới đăng ký trong chín năm, từ 1991 đến 1999 (45005
doanh nghiệp). Theo báo nhân dân số ra ngày 25 – 11 – 2002 thì đến cuối năm 2002
ngoài khoảng 5.000 doanh nghiệp Nhà nước đã có gần 80.000 doanh nghiệp hoạt
động theo Luật doanh nghiệp, cùng hơn 2,1 triệu cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể
trong toàn quốc. Các doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc thu hút
nguồn lao động tại chỗ, đầu tư vốn ít, thu hồi vốn nhanh, linh hoạt, nhanh nhậy, đổi
mới công nghệ dễ dàng chuyển đổi thích ứng với yên cầu của thị trường.
Bên cạnh sự phát triển không ngừng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, cùng
sự đóng góp to lớn trong phát triển. Thì mặt trái của nó tác động nên nền kinh tế là
rất lớn. Mặt trái ở đây có thể hiểu là những tiêu cực hay cách khác đó là những biểu
hiện kém văn hoá trong kinh doanh.
Từ thực tế thấy rằng, các doanh nghiệp ở nước ta vẫn chưa chú ý tới sự cần thiết tất
yếu của văn hoá kinh doanh trong hoạt động của mình. Những áp lực kinh tế, nhất
là áp lực chạy theo lợi nhuận, hiện không làm cho các doanh nghiệp chú ý tới vấn
đề văn hoá kinh doanh hoặc coi đó là yếu tố phụ trợ.
11
Nạn sản xuất hàng giả, hàng nhái nhãn mác, hàng kém chất lượng, kém phẩm chất,
nấp bóng lợi dụng những nhãn hiệu có uy tín trên thị trường và tìm cách trà trộn với
hàng thật, hàng có chất lượng tốt để tiêu thụ, lừa bịp người tiêu dùng. Do kinh
doanh quản lý kém, tổ chức sản phẩm không cạnh tranh được trên thị trường đưa
đến thua lỗ phá sản, nhập hàng lậu vào trong nước để trốn thuế, gây thiệt hại cho

nguồn thu ngân sách nhà nước.
Theo số liệu thống kê trong 4 năm (1999 – 2003) cả nước xảy ra trên 1000 vụ ngộ
độc thực phẩm với số người mắc lên hàng nghìn, trong đó có nhiều người tử vong
1999 có 327 vụ, số người mắc là 7576 người, đến năm 2003 là 204 vụ với 5924
người mắc. Ngoài ra số vụ ngộ độc thực phẩm do ăn phải thực phẩm ô nhiễm hoá
chất độc hại có chiều hướng tăng lên: Năm 1999 là 11%, năm 2000 là 17%, năm
2002 là 25,2%, năm 2003 là 23%, còn 3 tháng đầu năm 2004 cục quản lý thị trường
(Bộ thương mại) bắt và xử lý 1865 vụ hàng giả, hàng kém chất lượng. Các mặt hàng
chủ yếu làm giả là rươu, bia, nước giải khát, bánh kẹo. Những con số trên là những
minh chứng cho sự làm ăn chộp giật, lừa đảo vì theo đuổi lợi nhuận sản xuất ra các
sản phẩm kém chất lượng làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, cũng như lợi ích của người
tiêu dùng.
Sự kinh doanh không có văn hoá không chỉ xảy ra đối với các doanh nghiệp tư
nhân, mà còn xảy ra ngay với các doanh nghiệp Nhà nước. Còn nhiều doanh nghiệp
trốn lậu thuế, nợ đọng vốn, khai gian thu nhập để chiếm đoạt thuế VAT. Thiếu quan
tâm đến đời sống của công nhân viên như nợ lương, không đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế vì lợi nhuận không chú ý tới tính an toàn trong lao động, sức khoẻ
của đời sống nhân dân lao động, để ngày càng nhiều người mắc các căn bệnh độc
hại.
Để thấy rõ sự tác động của những doanh nghiệp kinh doanh có văn hoá đối với nền
kinh tế. Những kết quả nghiên cứu thực tế ở nhiều nước về doanh nghiệp mới thành
lập đã đi đến kết luận rằng doanh nghiệp càng trẻ càng dễ thất bại, doanh nghiệp
càng nhỏ càng dễ thất bại và 90% nguyên nhân thất bại của các doanh nghiệp trẻ là
do quản lý tồi.
Tuy nhiên, thực tế này không phải dễ dàng được các nhà quản lý doanh nghiệp nhận
ra hay chấp nhận. Những kết quả điều tra ở 570 doanh nghiệp trình bày trong bảng
sau là một minh chứng.
Theo chủ doanh nghiệp Theo chủ nợ
Suy thoái kinh tế 68 29
Người quản lý kém năng lực 28 59

Thiếu vốn 48 33
Nợ khó đòi 30 18
Cạnh tranh 40 9
Thiết bị lạc hậu 32 6
12
Địa điểm bất lợi 15 3
Lãi suất cao 11 2
Thay đổi bất thường 11 2
Bảng 1: Nguyên nhân thất bại của doanh nghiệp mới, theo đối tượng quan sát.
Vậy quản lý tồi là như thế nào? Đây là một phạm trù khá rộng đã được bàn nhiều
đến trong các nghiên cứu về quản trị kinh doanh. Cách tiếp cận mới nhằm giúp
những người quản lý hiểu thêm một khía cạnh còn chưa được quan tâm đúng mức
của quản lý hiện đại, vấn đề hiện nay của các công ty thành đạt sử dụng như một vũ
khí cạnh tranh có sức mạnh tuyệt đối. Đó là “bản sắc” hay văn hoá doanh nghiệp.
Để được xã hội chấp nhận, doanh nghiệp cần chú trọng tới việc xây dựng hình ảnh
của mình thành những biểu tượng bằng chính những viên gạch đạo đức trong kinh
doanh chính vì tính quan trọng của văn hoá trong kinh doanh, mà các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay chưa xây dựng được hình ảnh cho mình, đổi lại tạo ra tác động
xấu đối với nền kinh tế. Biểu hiện tác động xấu này, làm cho nhiều doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay không được người tiêu dùng thừa nhận. Tạo ra sự phát triển bấp
bênh của nhiều doanh nghiệp. Cộng hưởng tới nền kinh tế, làm cho nền kinh tế ta bị
ảnh hưởng. Làm sự tác động ngược trở lại đối với các doanh nghiệp, kìm hãm sự
phát triển của các doanh nghiệp. Để phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam cần đi
đúng với quy luật của nền KTTT. Cần coi trọng “đạo đức kinh doanh”, biến nó là
vũ khí cho sự tồn tại cạnh tranh và phát triển.
II. Những kết quả đạt được trong việc đưa văn hoá vào trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, các lĩnh vực sản xuất
kinh doanh dần dần xoá đi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung và đã vươn lên
phát huy mạnh mẽ các tiềm lực của mình. Về mặt nông nghiệp, nước ta đạt được

nhiều thành tựu nổi bất với các thời kỳ trước. Sản lượng lương thực phát triển tốt
bảo đảm giữ vững an ninh lương thực quốc gia, tạo nguồn xuất khẩu gạo lớn thứ hai
thế giới Về công nghiệp, nhìn chung các sản phẩm quan trọng có tác động đến các
ngành kinh tế đều tăng khá như điện, sắt thép, phân bón chất lượng sản phẩm ngày
càng cao, giành được sự tín nhiệm của người tiêu dùng, gần 100 mặt hàng được
bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao, có chỗ đứng trên thị trường. Có thể nói
hàng Việt Nam chất lượng cao đã đáp ứng được phần nào nhu cầu, thịhiếu và sở
thích của người tiêu dùng ở hai khía cạnh: sản phẩm tiêu dùng và vật phẩm văn hoá.
ở đây, các nhà doanh nghiệp Việt Nam đã đưa các nhân tố văn hoá, bản sắc dân tộc
vào hoạt động kinh doanh, họ đã biết gắn chặt chẽ và hài hoà giữa cái lợi với cái
đúng, cái tốt, cái đẹp. Đó chính là biểu hiện nền kinh doanh có văn hoá và lối sống
có văn hoá của các doanh nghiệp Việt Nam dần dần được hình thành. Đó cũng
chính là lợi thế cạnh tranh của giới doanh nhân Việt Nam trên thương trường. Để
13
thấy được số doanh nghiệp biết xây dựng cho mình “đạo đức kinh doanh” thông
qua hàng Việt Nam chất lượng cao, ta có thể quan sát biểu đồ sau:

Số lượng doanh nghiệp đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao (phụ trương
Sài Gòn tiếp thị, thời báo kinh tế Sài Gòn số 4, tháng 1- 2003).
Trong lĩnh vực dịch vụ, ngành thương mại đã đạt có sự tăng trưởng vượt bậc. Xuất
khẩu năm 2000 tăng gấp 6 lần so với năm 1990, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh
thu dịch vụ ở thị trường trong nước tăng 6 lần so với cùng kỳ
Qua đó, thấy được nét văn hoá trong kinh doanh được thể hiện rõ ở các điểm: kinh
doanh đạt năng suất cao, giá thành hạ, tạo ra nhiều sản phẩm (giá trị) và giá trị
thặng dư cho xã hội, sản phẩm đạt chất lượng cao, được xã hội và người tiêu dùng
trong và ngoài nước chấp nhận, hoạt động kinh doanh đảm bảo chính sách, tuân thủ
pháp luật, làm tròn nghĩa vụ với nhà nước (thuế) tạo ra lòng tin (chữ tín) vững chắc,
ổn định đối với khách hàng trong và ngoài nước. Các đơn vị như nông trường Sông
Hậu ở Cần Thơ Công ty mía đường Lam Sơn (Thanh Hoá). Công ty sữa Việt Nam
Vinamilk là những điển hình về văn hoá kinh doanh.

III. Đưa nhân tố văn hoá vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn hiện
nay.
Xu thế tiến bộ của thế giới chỉ trở thành nguồn lực nội sinh khi nhận biết và dám
hành động theo quy luật phát triển. Chỉ dừng lại ở nhận thức tư tưởng cũng chẳng
có ích gì cho nhân dân, nếu không chuyển từ nhận thức sang hoạt động tổ chức thực
tiễn.
14
Các giải pháp dưới đây thuộc lĩnh vực tổ chức thực tiễn.
1. Đưa nhân tố văn hoá vào quá trình khôi phục và phát triển lực lượng sản xuất xã
hội.
Muốn đưa nhân tố văn hoá vào bồi dưỡng và khai thác các lực lượng sản xuất của
đất nước cần có một số giải pháp thiết thực như:
- Lựa chọn và đổi mới công nghệ sản xuất phù hợp với điều kiện nước ta chuẩn bị
tiến vào giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Đổi mới tổ chức phương thức và phương pháp, quản lý nhà nước và quản lý kinh
doanh theo hướng vận dụng “động lực kép” bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích văn
hoá đối với người lao động. Động lực đó bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá
đối với người lao động. Động lực đó bao gồm lợi ích cá nhân, lợi ích bộ phận lợi
ích quốc gia.
- Tiến hành cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo trên cơ sở mạnh dạn làm thí điểm
đổi mới đồng bộ về giáo trình, giáo viên và phương thức đào tạo. Đồng thời sớm
khắc phục tình trạng “thương mại hoá’ lan tràn trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
- Xây dựng kế hoạch hợp tác quốc tế về đào tạo, trước hết đối với đội ngũ giáo viên,
đội ngũ quản lý, dần dần hình thành đội ngũ có trình độ cao với tấm lòng vì dân, vì
nước.
2. Đề cao thang giá trị trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và biến đổi cơ cấu
xã hội – dân cư.
Hiện nay nước ta đang ở thời kỳ hình thành các quan hệ kinh tế mới và quan hệ xã
hội mới trong quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ sang kinh tế thị trường. Các quan hệ
mới đang hình thành phải được đặt trong xu thế kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn

hoá thì nước ta mới có thể đi đến mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng
và văn minh”.
Muốn vậy, trong các chiến lược và chính sách cũng như tổ chức thực hiện phải phản
ánh được yêu cầu của thang gíatrị mới.
Từ yêu cầu này, cần đổi mới quan điểm và phương pháp đánh giá, các tiêu chuẩn
đánh giá về hiệu quả của hoạt động kinh tế, về con người lao động, người lãnh đạo,
quản lý kinh tế – xã hội. Muốn xây dựng quan điểm, phương pháp và tiêu chuẩn
đánh giá theo thang giá trị mới, cần phải xuất phát từ việc phân tích thực tiễn nước
ta và thế giới.
Sự áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá này trước hết phải bắt đầu từ trên xuống bắt đầu
từ cấp trưởng trong các đơn vị, có như vậy mới tránh khỏi được tình trạng biến các
tư tưởng tốt đẹp thành khẩu hiệu hô hào suông.
3. Từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao tầm
vóc và hiệu quả của nó.
Đối với mỗi nước, hệ thống chính trị là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp sự
phát triển của đất nước. Ngày nay vấn đề “văn hoá với chính trị” trở thành vấn đề
cốt lõi trong xu thế vận động kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hoá.
15
4. áp dụng hệ thống ISO trong sản xuất kinh doanh ở tất cả các doanh nghiệp.
Việc áp dụng này, tạo ra sự kiểm tra các giai đoạn sản xuất, từ đó tạo ra sản phẩm
đầu ra chất lượng tốt, tạo ra sự quan tâm tới người lao động trong chính các giai
đoạn sản xuất đó. Sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao, giá thành hạ rễ được
khách hàng chấp nhận hơn. Giúp cho sản phẩm có thể cạnh tranh được với các sản
phẩm khác trên thị trường, tạo ra sự thuận lợi kinh doanh cho doanh nghiệp. Doanh
nghiệp không phải chộp giật, tìm cách tồn tại mà dành nhiều thời gian, chi phí đầu
tư cho công nghệ, cho phát triển. Tạo ra các sản phẩm có chất lượng đảm bảo ở các
giai đoạn sản xuất trong tương lai.

Chương III: Nguyên nhân, phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để đưa văn
hoá vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta hiện nay.

I. Nguyên nhân
1. Chưa nhận thức được vai trò của văn hoá trong kinh doanh.
Do các doanh nghiệp chưa nhận thức được mối quan hệ giữa văn hoá về kinh
doanh. Cho nên chưa có cái nhìn đúng đắn về kinh doanh có đạo đức. Họ chỉ nghĩ
đơn thuần kinh doanh là vì lợi nhuận, theo đuổi lợi nhuận la cách thức sống còn tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của văn hoá
đối với sản xuất kinh doanh. Vẫn mường tượng văn hoá và kinh doanh là hai phạm
trù khác hẳn nhau. Chưa thấy hết được kinh doanh có văn hoá sẽ tạo ra sự phát triển
ổn định và vững chắc cho doanh nghiệp. Giúp doanh nghiệp sớm đi đầu trong lĩnh
vực mới của thị trường. Vẫn còn sự duy cố hữu bảo thủ hay chưa nhìn nhận hết
được sức mạnh to lớn của văn hoá, không chỉ đối với kinh doanh mà cả với các lĩnh
vực khác.
2. Dư luận xã hội còn có quá nhiều áp lực về văn hoá và kinh doanh.
Từ khi bước sang nền kinh tế thị trường, nước ta thoát khỏi nền kinh tế tập trung
bao cấp lạc hậu, tự túc tự cấp. Những nhà kinh doanh xuất thân từ nông dân, người
lính, người thợ. Chính vì vậy kiến thức kinh doanh trong họ chưa có nhiều lắm. Họ
vào thương trường kinh doanh với sự mò mẫm, được chăng hay chỗ. Có người
thành công, có người thì thất bại. Cho nên mỗi người một vẻ, chưa tạo nên nét
truyền thống trong kinh doanh. Việc kinh doanh mang nặng tính kinh nghiệm, coi
kinh doanh là phải có lãi theo đuổi lợi nhuận bằng bất cứ giá nào. Xem thừa đạo
đức kinh doanh, vì lợi nhuận họ tìm mọi cách kinh doanh theo kiểu chộp giật, cơ
hội miễn sao mình có lợi, không hề coi trọng nét đẹp truyền thống kinh doanh có
văn hoá, là gắn cái lợi với cái đẹp, cái hợp lý, cái chân thiện mỹ. Vẫn còn coi trọng
tính kinh tế cao hơn tính văn hoá, đạt được kinh tế rồi thì kinh tế sẽ bù lấp văn hoá.
ý nghĩ này không chỉ nằm ở đại đa số những người kinh doanh mà còn tồn tại trong
phần lớn tầng lớp của xã hội. Vẫn cho nhân tố văn hoá là thứ yếu xếp sau kinh tế,
16
việc đạt được kinh tế rồi mới nghĩ đến văn hoá, thậm chí còn nghĩ rằng kinh doanh
chi phối và bao trùm cả văn hoá.
Chính vì sự coi nhẹ văn hoá, nghĩ rằng kinh doanh chi phối và bao trùm cả văn hoá.

Cho nên các doanh nhân nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, vẫn cứ theo đuổi
hành vi kinh doanh bất chấp đạo đức, bất chấp sự tồn tại đến người tiêu dùng. Theo
đuổi cái lợi vì lợi nhuận, quên đi công tác xây dựng cho mình một hình ảnh, một
bản sắc văn hoá doanh nghiệp. Mà tương lai không xa xu thế cạnh tranh trong sản
xuất, kinh doanh là kinh doanh có văn hoá. Các nhà nghiên cứu đã tổng kết rằng
trong quá trình vận động và phát triển của kinh tế thị trường, phương thức cạnh
tranh là văn hoá kinh doanh, tức là sắc thái kinh doanh đặc sắc dựa trên nền tảng
phương thức tác động tổng hợp với hành vi ứng xử, tôi quyết định lựa chọn người
tiêu dùng.
Mặt khác, do môi trường kinh doanh có văn hoá còn khá mới mẻ trong nhận thức.
Kèm theo sự chưa chú ý của nhà nước cũng như các cơ quan quản lý tới vấn đề văn
hoá trong kinh doanh nên chưa có sự chỉ đạo kịp thời, cũng như điều chỉnh để tạo ra
một môi trường văn hoá kinh doanh thuận lợi. Biểu hiện ở đây là nhà nước và các
cơ quan quản lý đề ra các chính sách và cơ chế quản lý kinh doanh hiện hành cũng
mới chỉ chú ý tới các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường của kinh doanh. Sự
thiếu vắng hoặc mờ nhạt của khía cạnh văn hoá trong các chính sách và cơ chế quản
lý kinh doanh hiện hành có nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ sự thiếu hụt rõ ràng
trong nhận thức của các nhà hoạch định chính sách.
Còn thiếu định hướng xã hội nhằm vào tạo dựng văn hoá kinh doanh, văn hoá tiêu
dùng, tạo nên bầu không khí và áp lực dư luận xã hội về vấn đề này. Sự chú ý của
các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ ở nước ta cho đến nay hầu như còn
vắng trên lĩnh vực này.
Sự hạn chế trong việc tìm ra các số liệu hay tiêu chuẩn để xác định sự ảnh hưởng
của văn hoá đến kinh doanh hay kết quả thu được từ sự áp dụng văn hoá trong kinh
doanh, không áp dụng văn hoá trong kinh doanh cụ thể ra sao? Cho nên không có
đủ các thông số để đánh giá sự trực tiếp hay gián tiếp đến kết quả sản xuất kinh
doanh. Chính sự mập mờ này càng làm cho doanh nghiệp coi nhẹ, và chưa đánh giá
hết được mức độ ảnh hưởng của nhân tố văn hoá tới kinh doanh. Càng tạo ra tính
thiếu áp dụng trong thực tiểu kinh doanh ở các doanh nghiệp. Làm cho môi trường
kinh doanh ngày càng mất đi tính cân bằng, ổn định cho sự phát triển.

II. Một số định hướng trong xây dựng văn hoá kinh doanh ở các doanh nghiệp Việt
Nam.
1.Xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi.
Thực tế môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa thuận lợi cho việc xâydựng văn
hoá kinh doanh. Bộ máy nhà nước còn nhiều biểu hiện quan liêu, giấy tờ, nhiều loại
thuế cao và pháp luật không rõ ràng, chưa có một sân chơi bình đẳng cho các doanh
17
nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước thường được ưu đãi hơn về vốn,
tín dụng, đất đai Hay như Luật thuế giá trị gia tăng sau khi được ban hành, có thêm
200 văn hoá dưới luật để hướng dẫn, điều chỉnh. Trong hệ thống luật và văn bản
dưới luật không ít các trường hợp mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho người thực
hiện chức trách của mình và nhiều khi gây thiệt hại cho người kinh doanh.
2. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp.
Xây dựng mối quan hệ ứng xử tốt đẹp giữa các thành viên trong cộng đồng là yếu tố
nền tảng để đạt tới sự thống nhất sức mạnh trong công việc kinh doanh. Chẳng hạn
như tổ chức hiếu, hỉ, thăm hỏi và giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, cùng nhau quan
tâm tới lợi ích chung của toàn doanh nghiệp. Đồng thời phải xây dựng mối giao lưu
cởi mở, rộng rãi và tin cậy với các đối tác bên ngoài doanh nghiệp. Ví dụ quan hệ
giữa doanh nghiệp với nhà nước, ý thứ tuân thủ pháp luật, bảo tồn vốn của nhà nước
và làm nghĩa vụ nộp ngân sách, giữa doanh nghiệp với các nhà cung cấp ( cung cấp
thiết bị điện, nước, tài chính, nguyên liệu, vật liệu ) giữa doanh nghiệp với khách
hàng, giữa doanh nghiệp với các đối tác cạnh tranh hay bạn hàng Ngay từ khâu
tuyển dụng, cần đặt ra yêu cầu cao đối với nhân sự, buộc các thành viên mới tham
gia doanh nghiệp phải phát huy trí lực, tính năng động, sáng tạo trong việc tạo ra
hiệu quả của công việc. Tạo dựng không khí thi đua, phấn đấu của toàn đơn vị.
Trong kinh doanh hiện đại, xây dựng nền văn hoá doanh nghiệp còn tổ chức ký đi
tham quan, nghỉ mát, tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hoá thể thao để
tạo ra bầu không khí lành mạnh thoả mái sau những ngày làm việc căng thẳng. Tất
cả những yếu tố đó góp phần tạo một “bầu không khí” riêng, một bản sắc tinh thần
đặc trưng riêng của từng doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác.

3. Xây dựng một đội ngũ doanh nhân văn hoá.
Văn hoà là một thước đo, bên cạnh thước đo về kỹ năng chuyên môn để đánh giá
cán bộ xí nghiệp, nhất là cán bộ chỉ huy, quản lý. Nếu các nhà kinh doanh có trình
độ văn hoá (không phải chỉ là bằng cấp chuyên môn), họ sẽ có nhiều cơ hội đóng
góp vào sự nghiệp phát triển có văn hoá, hạn chế rất nhiều sự phát triển kinh tế
không văn hoá, tức là hạn chế những kiểu kinh doanh bất chính, phi nhân bản. Phải
bằng các biện pháp giáo dục, giáo dục kiến thức văn hoá cho các nhà doanh nghiệp
để giúp họ nâng cao nhận thức và hành động. Phải thông qua các chương trình văn
học nghệ thuật, thông tin nghe nhìn, giải trí, du lịch, câu lạc bộ để giáo dục những
người làm kinh tế, kinh doanh nhất là những người chủ chốt, cũng như những người
tiêu dùng.
Doanh nhân văn hoá đòi hỏi phải có những phẩm chất như chủ nghĩa yêu nước và ý
thức công dân, cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng khách hàng và thực hiện tốt trách
nhiệm xã hội, tham mưu cho nhà nước về đường lối, chiến lược và chính sách kinh
tế, đề xuất các giải pháp và là cầu nối cho nhà nước trong các quan hệ đối ngoại, có
các kiến thức, kỹ năng kinh doanh và tinh thần sáng tạo, có khả năng hợp tác và có
tính năng động.
18

4. Nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hoá kinh doanh.
Nhận thức bao giờ cũng là khởi điểm cho mọi hành động. Cầu phải bắt đầu từ nâng
cao nhận thức cộng đồng về văn hoá kinh doanh. Điều này dựa trên những cơ sở
sau:
Một là, hiện tại các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa chú ý tới sự cần thiết tất yếu
của văn hoá kinh doanh trong hoạt động của mình. Những áp lực kinh tế, nhất là áp
lực chạy theo lợi nhuận làm cho các doanh nghiệp không chú ý tới vấn đề văn hoá
kinh doanh hoặc coi đó là yếu tố phụ trợ.
Hai là, các chính sách và cơ chế quản lý kinh doanh hiện hành cũng mới chỉ chú ý
tới các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường của kinh doanh. Sự thiếu vắng hoặc
mờ nhạt khía cạnh văn hoá trong các chính sách và cơ chế quản lý kinh doanh hiện

hành có nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ sự thiếu hụt rõ ràng trong nhận thức của
các nhà hoạch định chính sách.
Ba là, định hướng xã hội nhằm vào tạo dựng văn hoá kinh doanh còn thiếu, văn hoá
tiêu dùng tạo nên bầu không khí và áp lực dư luận xã hội, việc nâng cao nhận thức
cộng đồng về văn hóa kinh doanh cần phải được bắt đầu ngay. Sự phối hợp giữa
Chính phủ – doanh nghiệp – tổ chức xã hội phi chính phủ là yếu tố rất quan trọng
trong công việc này. Phải làm cho toàn bộ xã hội nhận thức và nhận dạng đúng vai
trò, vị trí của doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong đổi mới.
III. Một số giải pháp tạo sắc thái văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
Văn hóa trong kinh doanh đã trở thành một yếu tố quan trọng ngày càng trở nên
quan trọng đối với không chỉ là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn ở
quyết định của người tiêu dùng. Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập nền kinh tế tri
thức như hiện nay, văn hóa trong kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng trở thành
mối quan tâm, chú ý đặc biệt của doanh nghiệp. ở nước ta, để đưa văn hóa vào trong
kinh doanh cần chú ý một số giải pháp sau:

1. Nhóm giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Về lãnh đạo thì trước hết và quan trọng nhất là Đảng phải lãnh đạo công cuộc đẩy
mạnh cải cách thể chế kinh tế, tạo lập môi trường nhằm khơi dậy và phát huy tinh
thần doanh nghiệp, cùng văn hoá kinh doanh Việt Nam. Một thể chế kinh tế hợp
lòng dân, phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đất nước và quy luật phát triển của
thời đại sẽ có tác dụng vô cùng to lớn đối với sự phát triển của đất nước, thúc đẩy
hình thành một lớp các nhà doanh nghiệp thực thụ. Nếu thể chế kinh tế không phù
hợp cũng có thể kéo dài sự phát triển của xã hội, kìm hãm sản xuất – kinh doanh và
từ đó không thể có những nhà doanh nghiệp đích thực.
2. Nhóm giải pháp về tăng cường và nâng cao quản lý nhà nước.
19
- Hoàn thiện khung khổ pháp luật: Khung khổ pháp luật là một công cụ quan trọng
có tác động đến toàn bộ nền kinh tế chung, cũng như việc xây dựng văn hoá kinh
doanh ở Việt Nam.

Để hoàn thiện khung khổ pháp luật cần giải quyết.
+ Thể chế kinh tế phải tiếp tục cụ thể hóa những quan điểm, đường lối của Đảng
thành luật, chính sách của nhà nước.
+ Sửa đổi bổ sung và hoàn thiện hệ thống các chính sách như: Chính sách đầu tư,
chính sách thuế, chính sách tài chính và tín dụng, chính sách hỗ trợ về thông tin,
xúc tiến thương mại, chính sách phát triển doanh nghiệp, chính sách lao động – tiền
lương, chính sách đất đai, chính sách khoa học – công nghệ, chính sách phát triển
giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực
+ Các văn bản cụ thể hóa thể chế kinh tế cần phải được đội ngũ những nhà doanh
nghiệp và quần chúng nhân dân tham gia đóng góp tuỳ theo nội dung và yêu cầu.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh gia
nhập thị trường như tiếp tục rà soát để bãi bỏ các giấy phép con, bảo đảm tự do kinh
doanh theo pháp luật, không gây trở ngại cho việc bỏ vốn đầu tư vào sản xuất –
kinh doanh của người dân.
+ Tiếp tục thi hành luật doanh nghiệp, đồng thời với đòi hỏi đổi mới mạnh mẽ của
thể chế kinh tế, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường.
- Cải cách thủ tục hành chính.
+ Tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện việc thi hành luật doanh nghiệp, đưa luật doanh
nghiệp đi vào cuộc sống hơn nữa để thực sự tạo ra bước chuyển biến mới. Trong
đời sống kinh tế nước ta.
Loại bỏ các rào cản đang gây phiền hà và làm tăng chi phí đầu tư kinh doanh.
+ Cần đổi mới nhận thức theo hướng nhà nước các cấp cũng như các cơ quan chức
năng của nó phải được coi là những pháp nhân chịu trách nhiệm trước pháp luật như
người dân và doanh nghiệp.
+ Đổi mới nhận thức về văn hoá trong doanh nghiệp của các cán bộ công chức của
các cơ quan chức năng liên quan tới quản lý các loại hình doanh nghiệp.
- Nâng cao vai trò của nhà nước
+ Những vấn đề về thuế
+ Tạo ra triển vọng phát triển
+ Các vấn đề thương hiệu và bảo vệ sở hữu trí tuệ.

+ Đầu tư mạnh vào kết cấu hạ tầng.
+ Đào tạo nguồn nhân lực.
+ Đối xứ bình đẳng đối với các thành phần kinh tế.
+ Giải quyết đồng bộ các vấn đề liên quan đến giảm chi phí kinh doanh.
+ Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu và tham nhũng.
+ Các vấn đề thực thi luật và chính sách.
3. Nhóm giải pháp xây dựng môi trường văn hóa, xã hội.
20
Một môi trường văn hóa, xã hội không thuận lợi sẽ hạn chế rất lớn đến quá trình
hình thành những giá trị văn hóa mới rất cần thiết cho thời kỳ mới.
+ Cần đổi mới những quan điểm về kinh doanh, về “bóc lột”, về đảng viên có được
làm kinh tế tư nhân, cũng như những nhận thức mới về các nhà doanh nghiệp trong
điều kiện hiện nay.
+ Cần hướng cho xã hội một cách nhìn nhận mới về hoạt động của các nhà doanh
nghiệp không phải đơn thuần vì mục tiêu lợi nhuận, mà còn phải thấy ở đấy là sự
phát huy truyền thống yêu nước, tính cộng đồng một sách sáng tạo.
+ Khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp, khuyến khích các hoạt động sản
xuất – kinh doanh trong xã hội.
+ Các phương tiện thông tin đại chúng, các sáng tác văn học nghệ thuật với chức
năng tư tưởng của mình cần đi đầu trong việc chuyển tải đến công chúng về văn hoá
và kinh doanh.
+ Cầu hướng cho xã hội một cách nhìn nhận mới về hoạt động của các nhà doanh
nghiệp.
Trên cơ sở các hội xã hội – nghề nghệp hiện nay, cần tổ chức lại và bổ sung vào
điều lệ về trách nhiệm xây dựng văn hoá kinh doanh Việt Nam.
+ Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ
hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến cơ sở. Tạo dư luận xã hội
tôn vinh sự làm giàu chính đáng bằng tài năng, kiên quyết chống lại sự làm giàu bất
chính.
4. Nhóm giải pháp chuyên môn, nghiệp vụ.

+ Cần tổ chức chương trình nghiên cứu đề tài khoa học cấp nhà nước để làm rõ lý
luận và thực tiễn xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam.
+ Cần nhanh chóng đưa vào chương trình giáo dục, đào tạo các trường đại học, nhất
là các trường kinh tế để cho sinh viên - những nhà kinh doanh tương lại nắm được
văn hóa kinh doanh.
+ Cần có các huân chương, huy chương và cúp thưởng cho các doanh nghiệp được
tuyển chọn hàng năm.
+ Các phương tiện thông tin đại chúng cần quảng bá rộng rãi và mạnh mẽ hơn nữa
văn hóa kinh doanh.
+ Củng cố, hoàn thiện hội doanh nghiệp, phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam trở thành một trong những mắt khâu quan trọng của thiết chế văn hóa kinh
doanh Việt Nam. Xây dựng và củng cố các thiết chế văn hóa kinh doanh ở cơ sở
làm nền tảng cho văn hóa kinh doanh Việt Nam là các doanh nghiệp.

Phần III. Kết luận
Không lúc nào hết chúng ta thấy được tầm quan trọng của văn hóa trong kinh doanh
như lúc này. Trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu hóa để đứng vững và tồn tại,
không còn cách nào khác là các doanh nghiệp tự khẳng định mình, tự xây dựng cho
21
mình những thang giá trị đạo đức được người tiêu dùng và thị trường chấp nhận. Bỏ
lề lối kinh doanh chột giựt, lừa đảo, cơ hội đạt lợi nhuận bằng bất cứ giá nào.
Thay vào đó, là cách thức kinh doanh hiện đại phù hợp, là sự kết hợp giữa cái lợi,
cái đẹp, cái chân thiện mỹ giao thoa nhau. Tạo ra sự thăng hoa, là nấc tháng đưa
doanh nghiệp tạo cho mình thương hiệu, giá trị kết tinh trong sản phẩm của mình,
qua chất lượng và công nghệ của mình.
Tuy là muộn so với môi trường kinh doanh thế giới, nhưng nó không bao giờ là
muộn, nếu các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, tự khẳng định mình và
vươn xa thị trường thế giới. Câu trả lời là việc kinh doanh của doanh nghiệp cần kết
hợp giữa văn hóa và kinh doanh. Bằng cách chọn cho mình sự kết hợp giữa lợi ích
của doanh nghiệp, gắn với lợi ích của xã hội, của người tiêu dùng. Làm được điều

đó, tức là giúp doanh nghiệp có một vũ khí cạnh tranh hiệu quả, đó là cạnh tranh
bằng thương hiệu. Bằng chính gía trị của mình.
Để khép lại vấn đề văn hóa trong kinh doanh, chúng ta cần khẳng định lại vai trò
hết sức to lớn của kinh doanh có văn hoá. Chính vai trò to lớn đó là động lực sự tìm
tòi nghiên cứu đề tài này. Tuy chưa đầy đủ, nhưng là những đóng góp cho sự phát
triển của môi trường văn hóa kinh doanh ở Việt Nam. Để thực sự tạo ra môi trường
kinh doanh có văn hóa các doanh nghiệp cần thực sự có thái độ cầu tiến, cần coi văn
hóa kinh doanh thực sự là vũ khí là sự sống còn trong cạnh tranh hội nhập.
Do vấn đề còn là mới mẻ ở Việt Nam, cho nên bài viết còn cần có sự hoàn thiện,
còn cần sửa chữa và bàn bạc. Mọi đóng góp tạo thêm sự hoàn chỉnh cho vấn đề. Để
tương lai không xa văn hoá và kinh doanh phát huy hiệu quả to lớn ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Văn hoá tiêu dùng (Lê Như Hoa) – NXBVH Thông tin
2. Văn hoá và kinh doanh (GS Phạm Xuân Nam) – NXB KHXH
3. Tinh thần doanh nghiệp giá trị định hướng của văn hoá kinh doanh Việt Nam.
4. Văn hoá và kinh doanh – NXB – lao động 2001
5. Giáo trình triết học – Lênin – Trường ĐHKTQD, NXBGD2001
6. Tạp chí cộng sản năm 2001,2002.
7. Giáo trình Quản lý xã hội – Trường ĐHKTQC – NXB KHKT
8. Tạp trí kinh tế và phát triển số 80 tháng 2 (2004), số 83 tháng 5(2004)
9. Báo thời báo KTVN số 149 (thứ sáu 17/9/2004)
10. Tạp chí tiêu chuẩn đo lường chất lượng số (5,6)/2004 và số (7,8) năm 2004.
11.J.C Vsunier: Con meree eutre cultures. Tomel, 1992.

22

×