Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Bài dự thi 80 năm xây dụng Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.85 KB, 20 trang )

1."Những mốc lịch sử của Ngành Xây dựng Đảng kể từ khi
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đến nay"?
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu "một
bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử của cách mạng Việt Nam", là
dấu ấn lịch sử đối với sự hình thành và phát triển công tác tổ chức của
Đảng. Từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng ta đã nhận thức: công tác
tổ chức, xây dựng Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, là một bộ phận chủ
yếu hợp thành và có tính chất quyết định thắng lợi trong toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất họp
từ ngày 14/10/1930 đến cuối tháng 10/1930 tại Hương Cảng - Trung
Quốc, Trung ương đã cử ra các Bộ, trong đó có Bộ Tổ chức kiêm Giao
thông (tiền thân của Ban Tổ chức Trung ương Đảng). Việc hình thành Bộ
Tổ chức kiêm Giao thông đánh dấu sự chuyển biến mới trong công tác tổ
chức của Đảng. Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã quyết định lấy
ngày 14/10 hàng năm là ngày truyền thống của ngành tổ chức xây dựng
Đảng và cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp.
Khi mới thành lập, năm 1930, toàn Đảng có 310 đảng viên và đến
tháng 8/1945, Đảng vừa tròn 15 tuổi với 5.000 đảng viên đã lãnh đạo nhân
dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa, lập ra Nhà nước công nông đầu tiên
tại Đông Nam châu Á. Chín năm trường kỳ kháng chiến, Đảng ta luôn
quan tâm đến công tác xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức cơ sở Đảng,
đội ngũ đảng viên, góp phần động viên, tập hợp sức mạnh của cả dân tộc
làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ. Năm 1954, đất nước tạm thời bị chia
cắt, miền Bắc đi lên xây dựng CNXH, làm hậu phương vững chắc cho
miền Nam tiếp tục đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Công tác tổ chức ở miền Bắc lúc này tập trung vào kiện toàn tổ
chức các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể; thực hiện “Bốn tốt” ở các
chi, Đảng bộ cơ sở gắn với cuộc vận động “Ba xây, ba chống”; đào tạo
cán bộ, nhất là cán bộ xuất thân từ công, nông, học sinh miền Nam tập kết.
Ở miền Nam, công tác tổ chức tập trung xây dựng tổ chức và đội ngũ cán


Tổng bí thư Nông Đức Mạnh Trong lễ kỷ niệm 80 năm ngày
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
bộ, đảng viên trung kiên để lãnh đạo và đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, công
tác tổ chức tập trung vào xây dựng, củng cố hệ thống chính trị thống nhất
trong cả nước; điều động hàng vạn cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên môn
cho miền Nam.
Những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, đất nước lâm vào
tình trạng khủng hoảng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, niềm tin
của nhân dân suy giảm. Ngành tổ chức xây dựng Đảng đã cùng toàn Đảng
tiến hành công cuộc đổi mới, đổi mới về tổ chức và cán bộ, tạo cơ sở cho
việc tiến hành đổi mới toàn diện, từng bước khắc phục khủng hoảng kinh
tế - xã hội, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị. Trong thời kỳ đổi mới,
công tác tổ chức xây dựng Đảng bám sát thực tiễn, thực hiện cuộc vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh kiện toàn, sắp xếp tổ chức, bộ
máy hệ thống chính trị; thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ CNH-HĐH
đất nước.
Trải qua 79 năm, công tác tổ chức đã góp phần to lớn, quan trọng
vào thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc,
góp phần xây dựng Đảng thực sự là một chính đảng cách mạng, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, hết lòng, hết sức, tận tụy phục vụ nhân dân. Hệ
thống tổ chức không ngừng được củng cố và đổi mới; đội ngũ cán bộ làm
công tác tổ chức của Đảng được giáo dục, trưởng thành, không ngừng phát
triển cả về số lượng và chất lượng, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, của dân tộc.
Trong suốt chặng đường lịch sử vẻ vang của ngành, chúng ta
thấm nhuần sâu sắc ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm quý báu trong
công tác tổ chức xây dựng Đảng. Đó là, phải giữ vững bản chất giai cấp
công nhân và tăng cường tính tiên phong của Đảng là yêu cầu cơ bản, có
tính nguyên tắc đối với công tác xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức.

Công tác xây dựng Đảng về tổ chức phải kết hợp chặt chẽ với các
mặt công tác xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng; nhận thức và thực
hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê
bình, chăm lo xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng; nâng cao
chất lượng công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn,
đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng; bảo đảm tính kế thừa và
phát triển; củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; bồi
dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng, quyền
làm chủ và lợi ích thiết thực của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng. Bên cạnh đó, thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố các cơ quan
và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, của công tác xây dựng Đảng và
xây dựng hệ thống chính trị.

Đồng chí Hồ Đức Việt, ủy viên Bộ chính trị, trưởng ban tổ chức
trung ương đến thăm và làm việc tại học viện chính trị - hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh
2.Những bài học kinh nghiệm chủ yếu về công tác Tổ chức
xây dựng Đảng trong 80 năm qua của Đảng cộng sản Việt Nam ?
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đã thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam,
mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc và
phát triển đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
Bài học quan trọng của công tác tư tưởng của Đảng ta trong Cách
mạng tháng Tám là tạo nên sự thống nhất nhận thức và hành động của
toàn Đảng và toàn dân, động viên và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
trên cơ sở một đường lối chính trị đúng đắn và tinh thần tự lực, tự cường,
độc lập, tự chủ và sáng tạo. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam

phải tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược kéo dài 30 năm mới giành được độc lập hoàn toàn và thống nhất
Một hội nghị tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2009
đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kết thúc một
trong hai chiến lược cách mạng mà Cương lĩnh của Đảng năm 1930 đề ra
và Cách mạng tháng Tám là một thắng lợi vĩ đại.
Từ thành quả và kinh nghiệm thực tiễn của hơn 20 năm tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc
(1954-1975), thực tiễn của hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả
nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12-1986) đã hoạch định đường lối và khởi xướng công cuộc đổi mới ở
nước ta. Đường lối đổi mới của Đại hội VI (12- 1986) là sự đổi mới căn
bản, toàn diện nhưng trước hết hướng vào đổi mới chủ trương, chính sách
kinh tế. Đại hội VI cũng nhấn mạnh yêu cầu đổi mới nội dung lãnh đạo và
phong cách làm việc của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Trong các nội đung đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, Đại hội
VI đặt lên hàng đầu, coi đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng
của cán bộ, đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng.
Cách mạng tháng tám thành công Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập
khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa

Năm 1945, nước ta có hơn 20 triệu dân, Đảng Cộng sản với gần
5000 đảng viên. Bằng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn
và năng lực tổ chức thực tiễn tuyệt vời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã lãnh đạo toàn dân làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Ngày
nay, nước ta với hơn 80 triệu dân, Đảng có hơn 2 triệu đảng viên, với
đường lối đổi mới đúng đắn và sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn điện, có hiệu quả
đã và đang đưa sự nghiệp đổi mới phát triển và giành được những thành
tựu ngày càng to lớn.

Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
IX) (1-2004)
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
IX) (1-2004) đã kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX. Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, ý
chí tự lực tự cường của Cách mạng tháng Tám và của các thời kỳ cách
mạng trước đây, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp đổi mới
trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Cùng với nhiệm vụ tiếp tục xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hoàn thiện Nhà nước, đẩy mạnh cải cách
hành chính; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tăng cường quốc phòng an
ninh, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững sự ổn định chính trị, gần
ba năm qua, Đảng và Nhà nước đã tập trung lãnh đạo nhiệm vụ trung tâm
là phát triển kinh tế, đạt được những kết quả quan trọng: nền kinh tế đã
vượt qua giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng khá
cao; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản
phẩm có chuyển biến; thể chế kinh tế tiếp tục được đổi mới, đang tiếp tục
hình thành và phát triển các loại thị trường. Thị trường hàng hoá sôi động
và phát triển với tốc độ nhanh; thị trường lao động có bước phát triển; thị
trường tài chính-tiền tệ đạt được một số kết quả bước đầu
Đồng chí Trương Tấn Sang, ủy viên bộ chính trị, thường trực ban bí thư
phát biểu về công tác đổi mới trong xây dựng đội ngũ cán bộ năm 2009
tại Hà Nội
3.Để xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, tài góp phần xây dựng
Đảng,công tác cán bộ cần được đổi mới như thế nào?
Cán bộ là người công tác, có chức vụ trong một cơ quan của
Đảng, Nhà nước hoặc đoàn thể. Do đó, người cán bộ, nhất là các cán bộ
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân càng phải có những phẩm
chất và năng lực tốt đẹp ở mức độ cao. Họ cần phải có đầy đủ tài năng và
đạo đức. Đức và tài thống nhất, trong đó đức là gốc. Trong giai đoạn hiện
nay, cần xây dựng cán bộ đáp ứng theo tiêu chuẩn :

- Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp
công nhân. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực
tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật, thuyết phục và tổ
chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Gương mẫu trong thực hiện đạo đức cách mạng và lối sống:
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng, không cơ hội. Có trình độ hiểu biết cao về lí
luận chính trị, văn hoá, chuyên môn. Có kiến thức về khoa học lãnh đạo và
quản lí, có năng lực hoạt động thực tiễn. Có sức khỏe để làm việc có hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ được giao.
Để những tư tưởng cao đẹp đó trở thành hiện thực, đương nhiên
cần sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên. Các tổ chức
Đảng, Nhà nước, đoàn thể phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục, rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và quản lí, kiểm
tra quá trình đó. Đảng và Nhà nước cũng cần dựa vào nhân dân trong quá
trình quản lí, kiểm tra, giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉnh đốn đảng là công việc
thường xuyên, nhưng phải đặc biệt chú ý khi hoàn thành từng chặng
đường, từng nhiệm vụ và buớc sang một chặng đường, nhiệm vụ mới.
Chỉnh đốn đảng là nhằm bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh,
xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp, dân tộc, là tổ chức tiền phong
chiến đấu vì lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc; không phải là một tổ chức
làm quan, phát tài, sinh ra quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán. Đảng phải
trong sạch, phải loại bỏ mọi phần tử cơ hội, thoái hoá; làm cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên luôn giữ vững đạo đức cách mạng. Và Bác nhấn mạnh:
chỉnh đốn đảng là công việc rất hệ trọng, liên quan đến toàn bộ xã hội. Vì
vậy, phải làm từng bước, phải có trọng tâm; chỉnh huấn về mặt tư tưởng
phải gắn với chỉnh đốn về tổ chức; chỉnh huấn cán bộ cao cấp là mấu chốt

của chỉnh huấn đảng; Trung ương phải tập trung làm trước và trực tiếp chỉ
đạo; chỉnh đốn đảng không phải là ''chỉnh'' và “đốn”, mà làm cho mỗi cán
bộ, đảng viên thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình.
Trong mối quan hệ giữa xây dựng và chỉnh đốn đảng, Bác yêu
cầu phải trên cơ sở xây dựng mà chỉnh đốn, chỉnh đốn để nhằm xây dựng
đảng vững mạnh hơn, trong sạch hơn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội
dung chỉnh đốn đảng là: học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý
luận, chấn chỉnh tổ chức. Tức là, Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; phải tuân thủ và vận dụng linh
hoạt các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; xây dựng và rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Về sự cần thiết phải xây dựng và chỉnh đốn đảng, Bác
đưa ra luận điểm: ''Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm
qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng
nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là
thái độ của người cách mạng''.
Tuân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn đảng, toàn
dân, toàn quân ta đang ra sức thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh
đốn đảng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho
Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đó là nhiệm vụ then chốt, là cội
nguồn thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Tình hình nhiệm vụ
cách mạng trong từng thời kỳ có sự thay đổi, song những lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về công tác xây dựng đảng vẫn là những giáo huấn quan
trọng đối với các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Việc học tập, quán triệt và vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh
vào thực tiễn cuộc sống là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo.

Lễ khai giảng tại trường SQCB
4. Một tDm gương tiêu biểu trong công tác tổ chức xây dựng
Đảng.
Từ năm 2006 – 2009 là thời gian tôi học tập và công tác tại
trường SQCB. Đây là quãng thời gian quan trọng, là bước ngoặt đánh dấu
sự trưởng thành của bản than tôi. Quãng thời gian ba năm với nhiều kỷ
niệm vui, buồn của thời học viên qua nhanh với nhiều kỷ niệm, ấn tượng
sâu sắc, những kỷ niệm đó sẽ mãi theo lớp học viên chúng tôi đi khắp mọi
miền tổ quốc. Với tôi và nhiều đồng chí khác nữa hình ảnh về người
Chính trị viên, bí thư Đảng ủy tiểu đoàn, thượng tá Lê Văn Thuyết là hình
ảnh để lại những dấu ấn sâu đậm, những kỷ niệm sâu sắc nhất.
Sau khi nhập trường dối tượng học chính trị chúng tôi gồm 87
đồng chí được biên chế vào hai lớp học viên thuộc tiểu đoàn 5, một tiểu
đoàn chuyên đào tạo cán bộ đến cấp trung lữ đoàn, về tổ chức đảng mỗi
lớp là một Chi bộ trực thuộc đảng bộ tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng là đồng
chí thượng tá Nguyễn Công Hợi, sau là Đại tá tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn
2. Chính trị viên là đồng chí thượng tá Lê Văn Thuyết, người gốc Khoái
Châu – Hưng Yên, một vùng quê giàu truyền thống cách mạng. Vì chúng
tôi là khóa 1 đào tạo cán bộ chính trị từ nguồn trung đội trưởng 801 nên
được sự quan tâm rất lớn về nhiều mặt của Ban giám hiệu cùng các phòng
khoa, cơ quan chức năng của Nhà trường và đặc biệt là của Đảng ủy, Chỉ
huy tiểu đoàn, đó là những thuận lợi rất lớn với chúng tôi nhưng bên cạnh
đó đối tượng chúng tôi vẫn gặp phải nhiều khó khăn như trình độ nhận
thức chưa đồng đều, nhiều đồng chí lớn tuổi nên việc theo kịp chưng trình
học rất khó khăn, nhiều đồng chí có gia đình riêng, hoàn cảnh khó khăn
nay ở xa gia đình,nên ít nhiều ảnh hưởng tới việc học tập, công tác. Với
100% học viên là đảng viên, cán bộ kiêm chức đảm nhiệm lớp trưởng, lớp
phó, bí thư, phó bí thư chi bộ nên chúng tôi gặp một khó khăn nữa là chưa
đồng chí nào đã từng đảm nhiệm cương vị bí thư, hoặc phó bí thư chi bộ.
Do vậy Đảng ủy, chỉ huy tiểu đoàn mà trực tiếp là đ/c Lê Văn Thuyết đã

thường xuyên sâu sát chỉ đạo, hướng dẫn động viên chúng tôi trong tiến
hành các công tác của Chi bộ, làm mô hình để toàn bộ lớp học viên chúng
tôi học tập. Đồng chí thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, bồi dững
thong qua sinh hoạt, hội họp về nội dung cách thức tiến hành, điều hành
duy trì các hoạt động của Chi bộ và luôn nhắc nhở chúng tôi đây là nội
dung học tập quan trọng của người làm công tác chính trị. Chính vì vậy
chúng tôi thường xuyên được nâng cao kiến thức về chức năng, nhiệm vụ,
phương thức lãnh đạo của từng tổ chức Đảng nhất là ở cấp Chi bộ cùng
với đó đồng chí thuyết còn thường xuyên bồi dưỡng cho chúng tôi về
phương pháp, tác phong công tác, phương pháp cụ thể hóa nghị quyết của
tổ chức đảng cấp trên, kinh nghiệm trong nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Tôi còn nhớ, khi mới được thành
lập chi bộ lớp 54A chúng tôi hoạt động hoạt động còn nhiều điểm thiếu
xót do vậy đồng chí Thuyết đã trực tiếp tham gia một số hội nghị chi bộ và
chỉ ra cho toàn chi bộ rất nhiều nội dung cần hoàn thiện như về mối quan
hệ, lề lối làm việc giữa cấp ủy chi bộ và giữa chi bộ với các tổ chức khác,
về quy chế làm việc, cách thức, quy trình ban hành nghị quyết, việc phân
Cán bộ, học viên trường SQCB trong lễ khai giảng
công cấp ủy viên phụ trách từng lĩnh vực, từng mảng công tác, gắn trách
nhiệm của mỗi cá nhân trong thực hiên nghị quyết. Mục đích, yêu cầu nội
dung tiến hành công tác kiểm tra, giám sát theo chương trình và chuyên
đề, chính vì vậy mà trong một thời gian ngắn tập thể đảng viên trong chi
bộ, nhất là các đồng chí nắm giữ cương vị bí thư, phó bí thư đã nắm vững
được nội dung chức trách, nhiệm vụ của mình. Tập thể đảng viên luôn nêu
cao tinh thần đoàn kết, dân chủ được phát huy rộng rãi, tự phê bình và phê
bình được đề cao, trong 3 năm liền chi bộ đều đạt TSVM, 100% đảng viên
đều hoàn thành tốt nhiệm vụ nhiều đồng chí hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ. Trong cuộc sống đời thường đồng chí Thuyết luôn là một con người
giản dị, gần gũi với mọi người, luôn là một tấm gương sáng cho chúng tôi
về đạo đức, phương pháp và tác phong công tác. Trên cương vị bí thư

đảng ủy tiểu đoàn đồng chí luôn quan tâm đến công tác rèn luyện, xây
dựng đội ngũ đảng viên trong đảng bộ, chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình
độ mọi mặt cho đội ngũ đảng viên về bản lĩnh chính trị về thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn khối đoàn kết trong Đảng, phát huy
tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên trong công tác, đặc biệt là
nhận thức và thực hiện cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh ” trong đội ngũ đảng viên ở đảng bộ.
“ Trong những năm qua Đảng ta luôn xác định xây dựng Đảng là
then chốt , thực hiện công tác này là trách nhiệm của mọi cán bộ đảng viên
trong Đảng và của các tổ chức, đoàn thể trong đó có chúng ta. Những nội
dung về công tác tổ chức xây dựng Đang rất rộng do vậy các đồng chí cần
phải luôn tự học tập nghiên cứu để làm tốt công tác này trên cương vị
chức trách của mình ” là câu nói mà đồng chí Thuyết thường xuyên nói
với chúng tôi. Hiện nay trên cương vị chính trị viên, bí thư chi bộ một đại
đội tôi ngày càng nhận thấy những bài học, những kinh nghiệm của đồng
chí Thuyết truyền đạt cho chúng tôi quý báu như thế nào trong thực tiễn
thực hiện nhiệm vụ của bản thân. Giờ đây dù đi đâu, ở đâu tôi cũng luôn
nhớ về người chính trị viên, bí thư đảng ủy ngày ấy của mình với tất cả sự
quý mến và kính trọng.
5. Tiêu chuẩn người cán bộ làm công tác tổ chức

Công tác tổ chức, cán bộ giữ vị trí trọng yếu trong toàn bộ hoạt
động của Đảng. Đội ngũ cán bộ tổ chức, cán bộ là chỗ dựa tin cậy của cấp
uỷ đảng, trực tiếp tham mưu cho các cấp uỷ đảng về tổ chức bộ máy và
xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ.
Bởi vậy, để nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị, xây dựng
đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới
nhất thiết phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ nâng cao phẩm chất, năng lực
đội ngũ cán bộ tổ chức xây dựng Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã nhấn mạnh: “Việc bố trí và sử

dụng cán bộ đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường. Đề bạt cán bộ phải
đúng lúc, đúng người, đúng việc”. Bố trí đúng người, đúng việc, đúng sở
trường là tìm được cán bộ đúng tiêu chuẩn, có phẩm chất và năng lực đáp
ứng cương vị công tác được giao xứng đáng với tài năng của họ. Bố trí, bổ
nhiệm, phân công cán bộ còn phải đúng chỗ, đúng nơi công tác. Nhiều khi
cán bộ không phát huy được năng lực, không gây được uy tín lại có
nguyên nhân từ vị trí, môi trường công tác chưa phù hợp. Bố trí cán bộ còn
đòi hỏi phải đúng lúc, khi cán bộ đang độ sung sức, phát triển phù hợp với
chức danh đảm nhiệm, lúc cán bộ có khả năng làm việc, khả năng cống
hiến tốt nhất. Hết sức tránh bố trí khi cán bộ đã bắt đầu chững lại, có dấu
hiệu “xuống dốc”, không đảm đương được nhiệm vụ ở nơi này sang nhận
nhiệm vụ tương đương hoặc cao hơn ở nơi khác.
Người làm công tác tổ chức cán bộ ngoài những tiêu chuẩn cán bộ
theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII, cần nhấn mạnh vào
một số điểm sau:
Một là, có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước
những khó khăn, thử thách, luôn kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững bản chất cách mạng và thực hiện tốt vai trò
của mình trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo;
trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động mở
cửa và hội nhập kinh tế quốc tế; có quan điểm, chính kiến rõ ràng, không
mơ hồ, lẫn lộn trước những biến đổi xã hội; có tính quyết đoán đối với
công việc; có bản lĩnh chống tham nhũng và bản thân không tham nhũng,
không nhận hối lộ; có ý chí khắc phục khó khăn, đứng vững trước những
cám dỗ, sức ép trong công việc, bảo vệ cái đúng, bảo vệ được cán bộ tốt;
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và mạnh dạn đổi mới, không trì
trệ, bảo thủ.
Hai là, trung thực, khách quan, công tâm, công bằng, dân chủ,
không thiên tư, thiên vị. Người cán bộ tổ chức, cán bộ không báo cáo, phản
ánh tình hình sai sự thật, không lựa chiều theo lối “dĩ hoà vi quý”. Khi

nhận xét, đánh giá cán bộ, người cán bộ tổ chức không được nói khác
những điều mình biết, mình nghĩ và cho là đúng. Những nhận xét, đánh giá
về cán bộ phải luôn dựa trên những căn cứ pháp lý, theo tiêu chuẩn cán bộ
của Đảng, Nhà nước và căn cứ vào việc làm, hiệu quả công tác. Người cán
bộ tổ chức làm việc phải công tâm, công khai, công bằng, dân chủ, không
phân biệt thân sơ, sang hèn, không địa phương cục bộ, không giấu giếm,
bao che hay thổi phồng khuyết điểm, ưu điểm; không xen tình cảm riêng
tư, động cơ cá nhân “Yêu nên tốt, ghét nên xấu” mà phải xem xét con
người với đúng bản chất, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể một cách biện
chứng.
Ba là, nhân ái, bao dung và gần gũi với mọi người, giải quyết
công việc trên cơ sở có lý, có tình. Lý là luôn dựa vào những quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước làm thước đo, làm căn cứ để giải quyết mọi
công việc. Tình là giải quyết công việc dựa trên cơ sở tình cảm giai cấp,
giữa những người đồng chí với nhau, luôn có lòng nhân ái, vị tha, bao
dung, không hẹp hòi, thành kiến. Lý không làm mất tình và tình không làm
mờ lý. Người cán bộ tổ chức phải có khả năng thuyết phục, quy tụ được
mọi người, là trung tâm của sự đoàn kết trong cơ quan, đơn vị.
Bốn là, phải luôn luôn tỉnh táo, sáng suốt, biết phân biệt người tốt,
kẻ xấu; phải trái phân minh, không khuất tất, mờ ám. Nếu không tỉnh táo,
sáng suốt phân biệt rõ phải - trái, đúng - sai, vàng - thau, tốt - xấu… thì
không những xa cách cán bộ tốt, mà còn để cho bọn cơ hội chui vào hàng
ngũ lãnh đạo hoặc không loại bỏ được những phần tử thoái hóa, biến chất
ra khỏi Đảng. Muốn vậy, người cán bộ tổ chức phải có sự nhạy cảm nghề
nghiệp, có tư duy độc lập, khả năng phân tích, tổng hợp, có vốn sống và
kinh nghiệm ứng xử phong phú, tinh tế; kiên trì rèn rũa đức tính thận
trọng, tỉ mỉ, chính xác. Phải có tâm và có tài. “Tâm” ở người cán bộ tổ
chức chính là đạo đức cách mạng “chí công, vô tư”, ít lòng ham muốn tiền
bạc và danh lợi, toan tính cá nhân thiệt hơn. “Tài” ở người cán bộ tổ chức
chính là trí tuệ, tầm nhìn xa trông rộng, toàn diện và cụ thể, chu đáo, chọn

được người tài, sắp xếp đúng người, đúng việc.
Năm là, có phương pháp làm việc khoa học. Người cán bộ tổ chức
phải có tác phong sâu sát, không làm việc theo kiểu bàn giấy, phải đi sâu
điều tra, khảo sát, phân tích một cách khoa học mọi vấn đề liên quan đến
công tác tổ chức, cán bộ. Phải có nhiều phương án để xây dựng bộ máy và
nhân sự một cách tích cực, chủ động, chính xác. Thẩm tra, xác minh, tìm
hiểu kỹ cán bộ trước khi đề bạt, bổ nhiệm và trong quá trình quản lý, sử
dụng. Phải tránh cách làm việc quan liêu, chú trọng vào các thủ tục hành
chính, hồ sơ mà ít tiếp xúc, tìm hiểu cặn kẽ hoàn cảnh, điều kiện làm việc,
khả năng, nguyện vọng và tâm tư tình cảm của cán bộ. Tránh nghe thông
tin một chiều, không chú ý lắng nghe và tiếp thu dư luận quần chúng đánh
giá về cán bộ. Phải có thói quen phân tích, so sánh, kiểm tra các thông tin
nhận được để tránh nhận xét, đánh giá một cách chủ quan, giản đơn, không
phù hợp với thực tế dẫn tới bỏ sót người tốt, để lọt kẻ cơ hội, bố trí, sử
dụng không đúng người, vận dụng tiêu chuẩn cán bộ một cách chủ quan,
tùy tiện, lúc này, với người này thì cứng nhắc, với người khác lại châm
chước, xuê xoa.
Sáu là, có trình độ, kiến thức về khoa học tổ chức, nắm vững
nguyên tắc, đồng thời có kinh nghiệm, kỹ năng, thực hiện các quy trình
công tác cán bộ. Công tác tổ chức, cán bộ là một khoa học và là một nghệ
thuật ứng xử đối với con người, đòi hỏi người cán bộ tổ chức phải được
đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ công tác tổ chức, những kiến
thức về tâm lý học, kỹ năng hiểu biết, đánh giá, sử dụng con người, kiến
thức quản lý nhà nước.
Bảy là, biết người và dùng người đúng chỗ. Phải có cách xem xét
cán bộ đúng đắn, quyết không nên chấp nhất mà phải biến hoá. Sự biến
hóa không phải là một sự tuỳ tiện, vô nguyên tắc, do lòng yêu, ghét của
mình, mà phải dựa trên cơ sở khoa học, hiểu biết con người trong những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Khéo dùng cán bộ là phải khéo nâng cao chỗ tốt,
khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ, làm cho cán bộ vui vẻ, thoải mái, yên tâm

làm tốt mọi công việc, cống hiến được nhiều nhất cho sự nghiệp chung.
Tìm người tài, hiểu được người tài đã khó, dám dùng, biết dùng người tài
còn khó hơn nhiều, vì người tài thường có cá tính. Vì vậy, người cán bộ tổ
chức phải rộng lượng, bao dung và cũng phải là người có tài dùng người.
Phải biết xem xét, xử lý đúng mối quan hệ giữa tài và tật, biết làm cho cái
tài được phát huy tối đa và hạn chế thấp nhất cái tật trong cán bộ.
Không ngừng tu dưỡng về đạo đức và lối sống, yêu cái thiện, ghét
cái ác; phải “dĩ công vi thượng” luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc,
của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; trung thực và tận tụy với công việc
chung; nói đi đôi với làm, không nói nhiều, làm ít, nói một đằng, làm một
nẻo. Bởi hơn bất cứ nghề nghiệp nào, công tác tổ chức, cán bộ là một nghề
khó khăn, phức tạp vì đối tượng tác động tới chính là con người, mỗi
người có hoàn cảnh gia đình, môi trường giáo dục, văn hoá khác nhau với
các mối quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp. Phải thường xuyên tự phê
bình và phê bình, coi đó “như cơm ăn, nước uống và rửa mặt hằng ngày”.
Làm công tác tổ chức là công việc liên quan trực tiếp tới những lợi ích của
một tập thể, của mỗi cá nhân và do vậy dễ va chạm, khó tránh khỏi mắc
khuyết điểm, sai lầm. Hơn ai hết, những người cán bộ tổ chức phải thực sự
tự phê bình và phê bình thẳng thắn, thân ái và xây dựng. Phê bình là để
mọi người học lẫn nhau và giúp nhau sửa chữa. Có phương pháp phê bình
đúng, cụ thể, thiết thực, thân ái, phải xuất phát từ tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau, thật sự khách quan, không nghi kỵ, định kiến, cố chấp hoặc sử
dụng phê bình như những thủ đoạn để làm mất uy tín của nhau. Thông qua
tự phê bình và tiếp thu phê bình thường xuyên từ trên xuống, từ cán bộ và
nhân dân sẽ giúp cho người cán bộ tổ chức ngày càng bớt đi khuyết điểm,
ưu điểm tăng dần để không ngừng tiến bộ. Người cán bộ, đặc biệt là người
cán bộ làm công tác tổ chức phải luôn giữ cho mình được cái tâm trong
sáng trong bất kỳ hoàn cảnh, tình huống nào.


×