Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

BỆNH HỌC THỰC HÀNH - NHỒI MÁU CƠ TIM (Myocardial infarction - Infarctus du myocarde) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.61 KB, 11 trang )

BỆNH HỌC THỰC HÀNH
NHỒI MÁU CƠ TIM
(Myocardial infarction - Infarctus du myocarde)
Đại Cương
Nhồi máu cơ tiâm là do động mạch vành tắc nghẽn, một vùng cơ tim
(tối thiểu cũng 2cm) thiếu máu cục bộ liên tục và nghiêm trọng gây hoại tử
cấp tính, thường gặp ở bệnh nhân trên 40 tuổi nam giới. Y học cổ truyền gọi
là ‘Chân Tâm Thống’.
Nhồi máu cơ tim cấp là cao điểm tai biến của bệnh tim thiếu máu cục
bộ dễ gây tử vong đột ngột cần được cấp cứu và chăm sóc tại khoa hồi sức
cấp cứu có trang bị hiện đại.
Chứng Nhồi Máu Cơ Tim và Đau Thắt Động Mạch Vành, tuy tên gọi
khác nhau nhưng về cơ bản theo Đông y cách chữa gần giống như nhau.


Triệu Chứng Lâm Sàng
Khoảng 50% trường hợp nhồi máu cơ tim xảy ra đột ngột, trước đó
bệnh nhân khỏùe mạnh. Trong 50% trường hợp khác, bệnh xảy ra trên người
đã có cơn đau thắt ngực hoặùc nhồi máu cơ tim.
Trên một số bệnh nhân có các yếu tố kích động như: Xúc động mạnh,
chấn thương tinh thần, chấn thương do tai nạn hay phẫu thuật, sốc, máu
đông nhanh, ăn no quá, dùng sức quá nhiều, thời tiết lạnh đột ngột
Cơn đau: Đau thắt tim là một triệu chứng gặp nhiều nhất khoảng trong
80% bệnh nhân, vị trí thường ở phía sau xương ức và vùng trước tim. Đau
kiểu cơn đau thắt ngực nhưng dữ dội hơn, kéo dài hơn, dùng loại Trinitrin
nhưng không giảm, lan tỏa. Bệnh nhân bồn chồn, vã mồ hôi, hoảng hốt, khó
thở, sắc mặt tái nhợït, chân tay lạnh, mạch Trầm Tế, khó bắt. Cũng có một
số bệnh nhân đau rất nhẹ, cảm giác căng tức ở cổ hoặc không đau mà chỉ
khó thở, buồn nôn, nôn, nấc cục, vùng bụng trên đầy, đau cần được cảnh
giác.
Tụt huyết áp: Xảy ra vài giờ sau khi có cơn đau. Huyết áp tối đa tụt


nhanh hay từ từ, huyết áp kẹp. Sốt: Xuất hiện khoảng 10-12 giờ sau cơn đau,
có thể lên tới 38-390C sốt càng cao và kéo dài, nhồi máu cơ tim càng nặng.
Nghe tim: Thường chỉ thấy nhịp nhanh đều, một số trường hợp tiếng
tim mờ, tiếng ngựa phi, tiếng cọ ngoài màng tim.
Chẩn Đoán
Chủ yếu dựa vào Những triệu chứng lâm sàng, tiền sử bệnh cao huyết
áp, tiểu đường, tăng lipit huyết.
Điều Trị Bằng Y Học Cổ Truyền
Nhồi máu cơ tim lâm sàng thường biểu hiện cơn đau cấp và thời kỳ ổn
định (không có cơn đau cấp).
1) Thời kỳ cơn đau cấp: Chủ yếu xứ trí theo Tây y như nhanh chóng
cho thở oxy.
Ngoài ra có thể dùng:
Châm: Huyệt Tâm thống (cách Chiên trung 1 thốn trên đường thẳng
nối 2 núm vú), Nội quan (2 bên), kim hướng lên, vê cho đến khi bệnh nhân
nuốt nước miếng hoặc có cảm giác dị vật ở gốc lưỡi. Có thể châm các huyệt
Gian sử, Hợp cốc, Cưu vĩ, Chiên trung, châm ngang), Quan tâm huyệt (2cm
trên đường thẳng dùng nối khóe mắt trong với chân tóc), vê kim nhanh,
hướng kim từ trên xuống.
Có tài liệu nước ngoài báo cáo dùng Dolantin 10mg pha loãng với
5ml nước cất, chích vào huyệt Nội quan 2 bên mỗi bên 0,5ml có tác dụng
giảm đau nhanh (Trung Hoa Bí Thuật Châm Trị).
Thời kỳ ổn định: Chủ yếu biện chứng luận trị theo các thể bệnh sau:
+ Khí hư huyết ứ: Thỉnh thoảng có cơn đau thắt ngực, nặng tức trước
ngực tăng thêm lúc bệnh nhân hoạt động nhiều, kèm mệt mỏi, hơi thở ngắn,
ra mồ hôi, hồi hộp, thân lưỡi bệu có dấu răng, điểm hoặc ban ứ huyết hoặc
lưỡi xám nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Huyền, Tế vô lực.
Điều trị: Ích khí, hoạt huyết. Dùng bài ‘Bổ Dương Hoàn Ngũ
Thang’gia giảm: Sinh Hoàng kỳ 20-30g, Đương qui 16g: Bạch thược l6g,
Xích thược 12g, Đảng sâm 12g, Xuyên khung 8-10g, Đan sâm 12g, Uất kim

8-12g.
Hoặc dùng các bài thuốc kinh nghiệm như:
. Ích Khí Hoạt Huyết Thang (Bệnh viện tim mạch Phụ Ngoại (Bắc
Kinh) gồm: Hoàng kỳ, Đương qui, Xích thược, Xuyên khung, Đơn sâm.
. Kháng Tâm Ngạnh Hợp Tễ (Bệnh viện Tây Uyển thuộc Viện nghiên
cứu trung y Bắc Kinh) gồm: Đảng sâm, Sinh hoàng kỳ, Hoàng tinh, Đan
sâm, Uất kim, Xích thược.
Nói chung, các thuốc bổ khí thường dùng là: Đảng sâm, Nhân sâm,
Hoàng kỳ, Chích thảo, Đại táo, Hoàng tinh với liều cao. Những thuốc hoạt
huyết thường dùng là: Đương qui, Đan sâm, Xuyên khung, Xích thược, Sơn
tra, Tang ký sinh, Đào nhân, Hồng hoa, Tô mộc, Thủy điệt, Tam thất, với
liều thấp hơn. Ngoài ra vì bệnh nhân đau, có thể dùng thuốc an thần như:
Phục thần, Táo nhân, Trân châu bột (hòa uống), Long nhãn, Viễn chí, Long
cốt, Mẫu lệ.
Trường hợp dương hư dùng Quế chi, Phụ tử, Dâm dương hoắc; Ngực
đầy tức có đờm thêm Xương bồ, Viễn chí, Toàn Qua lâu, Phỉ bạch để tuyên
tý, thông dương.
+ Khí âm lưỡng hư: Ngoài cơn đau thắt ngực thỉnh thoảng tái phát,
bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, thiếu hơi, bứt rứt, miệng khô, họng khô, táo
bón, hơi sốt, mồ hôi trộm, lưỡi thon đỏ, mạch Tế Sác vô lực hoặc mạch Kết
Đại.
Điều trị: Bổ khí âm, kèm hóa ứ. Dùng bài Sinh Mạch Tán Gia Vị:
Nhân sâm (hoặc Tây dương sâm) 8-12g, Mạch môn 12-16 g, Ngũ vị tử 4-6g,
Sinh Hoàng kỳ 20g, Huyền sâm, Sinh địa, Ngọc trúc, Bạch thược đều 12g,
Xích thược l2g, Đan sâm 12g, Toàn qua lâu 12g, Chích thảo 4g, Đào nhân
10g.
c) Âm Hư Dương Thịnh: Váng đầu, hoa mắt, mặt đỏ, bứt rứt, dễ tức
giâän, lòng bàn chân tay nóng, táo bón, mạch Huyền, Hoạt, Sác, lưỡi đỏ, rêu
lưỡi mỏng vàng, khô. Huyết áp thường cao.
Điều trị: Tư âm, tiềm dương. Dùng bài 'Thiên Ma Câu Đằng Ẩm gia

giảm: Thiêm ma 10g, Câu đằng 12-16, Thạch quyết minh 20g (sắc trước),
Chi tử 12g, Cúc hoa 12g, Tế sinh địa 16g, Huyền sâm 12g, Mạch môn, Hạ
khô thảo, Bạch thược, Xuyên Ngưu tất đều 12g, Đại giả thạch 16g, Trân
châu mẫu 8-12g (bột hòa uống), Đan sâm 12g.
d- Đàm Ứ Uất Kết: Đau ngực, mặt đỏ, bứt rứt, suyễn tức khó thở,
nhiều đờm, bụng đầy, táo bón, lưỡi tím thâm, rêu vàng nhớt, mạch Huyền,
Hoạt, Sác.
Điều trị: Hóa đờm, hoạt huyết, thanh nhiệt, kiêm bổ Tỳ khí. Dùng bài
Nhị Trần Tiêu Dao Tán gia giảm: Trần bì 8-12g, Bạch linh 12g, Bán hạ (chế
Gừng) 8-10g, Chích thảo 6g, Đương qui l2g, Bạch thược 12g, Bạch truật
12g, Xích thược 12g, Đan sâm 12g, Đơn bì 12g, Trạch tả 12g, Qua lâu nhân
12g, Bôi mẫu 10g, Đảng sâm 12g, Đại hoàng (sao rượu, cho sau) 4-6g, Chỉ
thực 8g, Sài hồ 12g.
e) Khí Trệ Huyết Ứ : Ngực sườn đầy tức, đau cố định, cảm thấy như
nghẹt thở, bứt rứt, dễ cáu gắt, lưỡi thâm, có điểm hoặc vết ban xuất huyết,
mạch Huyền, Sáp.
Điều trị: Lý khí, hoạt huyết. Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang gia
giảm: Đan sâm, Đương qui, Bạch thược đều 12g, Chế hương phụ, Uất kim,
Xuyên khung đều 8g, Hồng hoa, Đào nhân đều l0g, Qua lâu nhân 12g, bột
Tam thất 6g (hòa uống), Sài hồ l2g, Chỉ thực 8g.
Kinh nghiệm của Nhật Bản (Theo ‘ Chinese Herbal Medicine and The
Problem Of Aging’):
+ Đại Sài Hồ Thang: có tác dụng đối với bệnh nhân béo phì, cơ căng.
Bài này dùng lâu dài cải thiện được tình trạng cơ thể nói chung và tuần hoàn
máu do sự điều chỉnh chuyển hoá gan và thận. Nó vận chuyển những chất
cặn bã trong máu cũng như Cholesterol qua đường tiêu, tiểu. Các triệu
chứng nặng đầu, đau đầu, cứng vai và huyêt áp cao cũng đồng thời biến đi.
Vì thế bài này cũng có thể dùng để phòng và trị xơ vữa động mạch.
+ Bát Vị Thận Khí Hoàn: Điều chỉnh chức năng Thận và cải thiện
tuần hoàn.

+ Tam Hoàng Tả Tâm Thang và Hoàng Liên Giải Độc Thang dùng
cho bệnh nhân xơ vữa động mạch có các triệu chứng mất ngủ và táo bón,
đầy ở dưới tim.
Bệnh Án Đau Thắt Động Mạch Vành
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Trương XX, nam, 56 tuổi, xã viên, sơ chẩn ngày 21-3-1975. Người
bệnh thường vẫn phát sinh hoảng hốt, thở gấp, đau thắt tim ngực không chịu
nổi, thường nằm mơ giật mình dậy, đã hơn nửa năm. Đã từng chẩn đoán là
đau thắt động mạch vành, dùng không ít các thuốc đông thuốc tây mà không
kiến hiệu. Khám thấy dinh dưỡng trung bình, vẻ người buồn khổ, da mềm -
ớt, mặt xanh bệt, nghe phổi bình thường, tiếng tim yếu mà nhanh, tim đập
156 lần/phút, mạch kết đại, rêu lưỡi mỏng trắng. Dùng một thang Phức
Phương Đan Sâm Ẩm (Đan sâm 15g, Giáng hương 15g, Mộc thông 12g, V-
ương bất lưu hành 12g, Tam thất 6g, Thông thảo 3g), thấy các triệu chứng
đỡ, bớt hẳn đau ngực, tiếng tim vẫn yếu, tim đập 142 lần/phút, mạch Trầm
mà Đại, lại cho uống tiếp 2 thang. Ngày 28 tháng 3 khám lại đã hết đau
ngực, không có cảm giác đè nén. Còn hơi thấy tay chân bải hỏai. Đại tiện kết
táo, tim còn đập 110 lần/phút, vẫn uống bài trên bỏ Tam thất, Vương bất lưu
hành, uống 4 thang. Cảm thấy các chứng đều hết, đã như lúc thường. Theo
dõi hỏi lại chưa thấy tái phát, người khỏe mạnh, có thể làm mọi vịêc lao
động chân tay ở nông thôn.
Bệnh Án Đau Thắt Động Mạch Vành
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Uông X, nữ, 59 tuổi, bệnh động mạch vành đã 3 năm, một tháng nay
trong ngực bực bội, thở dốc ngày một nặng hơn. Vùng ngực có cảm giác
căng thẳng, ngực đầy tức, phiền muộn, mỗi ngày hai ba lần như thế, mỗi lần
kéo dài từ 1 đến 10 phút. Ăn uống bài tiết đều bình thường. Có tiền sử tăng
huyết áp đã 25 năm. Ngày 22-10-1977 vào điều trị ở một bệnh viện, điện
tâm đồ sóng T I, II, aVL, aVF, V3-V6 đều ngược rõ, đoạn ST thì V3-V6 đều
xuống thấp, xuống thấp nhất là 0,14mm. Điện tâm đồ cho thấy thiếu máu cơ

tim rõ rệt. Kết hợp triệu chứng bệnh sử, điện tâm đồ, chẩn đoán là co thắt
động mạch vành và cơ tim dưới màng trong tim cứng tắc. Đã từng uống viên
Nitrglycerin tác dụng kéo dài và nhiều thuốc khác vẫn không thấy cải thiện
các triệu chứng và điện tâm đồ. Ngày 26-10 uống Manh Trùng Gia Vị
Thang, đến ngày 9 tháng 11 các triệu chứng ngực bực bội, vùng trước tim
căng thẳng, cảm giác đầy trướng đều giảm nhẹ rõ rệt. Điện tâm đồ đoạn ST
đi xuống và sóng T đảo ngược đều chuyển lên, cho là cung cấp máu cho cơ
tim có được cải thiện. Tiếp tục dùng thuốc cho đến ngày 20 tháng 12, đoạn
ST V2 3,5 xuống thấp 0,2-0,5mm, V4 về đến đường đẳng điện, V2,3,5,6 của
sóng T trở thành thẳng đứng, V4 do đảo ngược trở thành thấp bằng, điện tâm
đồ lúc đó cơ bản tương tự điện tâm đồ của bệnh nhân này làm tháng 4- 1977.
Xét tình hình bệnh nhân đau động mạch vành đã 3 năm, tăng huyết áp đã 25
năm, động mạch vành cung cấp thiếu đã lâu dài nên không thể có khả năng
khôi phục hoàn toàn.
Bàn luận: Manh trùng vị đắng hơi hàn, có tác dụng trục ứ, phá tích,
thông lợi huyết mạch. Trên lâm sàng ngoài Manh Trùng Gia Vị Thang ra
còn dùng Manh trùng và Huyết Phủ Trục Ứ Thang sử dụng liên hoàn để trị
bệnh đau thắt động mạch vành cho 40 ca và dùng độc vị Manh trùng chữa
cho 10 ca đau thắt động mạch vành đều có tác dụng làm giảm cơn đau thắt
tim, hiệu quả nhanh chóng, đối với những người đã từng dùng các thuốc
đông thuốc tây mà chưa thấy tác dụng rõ rệt thì cũng có tác dụng giảm bệnh
ở mức độ khác nhau. Người bệnh dùng Manh trùng liên tục lâu nhất tới hơn
1 năm, chức năng gan thận, ăn uống, bài tiết đều không thấy có phản ứng
xấu nào rõ rệt cả.

×