Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

THỦ PHÁP CHÂM Phần 1 - THỨ TỰ LẤY HUYỆT TRƯỚC SAU pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.82 KB, 21 trang )

THỦ PHÁP CHÂM
Phần 1
THỨ TỰ LẤY HUYỆT TRƯỚC SAU
Đối với điểm đau, châm ở điểm đau nhất trước rồi đến điểm đối chiếu
bên lành, sau đó đến các huyệt ở gần, xa
Tuy nhiên, nếu đau dữ dội thì nên dùng các huyệt ở xa theo tính cách
“Dụ Đạo” trước, khi đã bớt đau mới châm lại ở điểm đau nhiều.
Thí dụ: Cơn đau dạ dầy cấp, đau dữ dội. Châm huyệt Túc Tam Lý ở
xa trước, sau khi đỡ đau mới châm huyệt Trung Quản (tại vùng đau).
Cách châm, nên theo thứ tự: châm tại chỗ trước, gần rồi mới đến xa,
trên trước, dưới sau (trên dưới ở đây cũng cần phải hiểu theo đường kinh mà
định huyệt), bên đau trước, bên lành sau, huyệt Mộ trước, huyệt Bối du sau.
Chỉ châm ở xa trước khi đau nhức quá nhiều.


THỜI ĐIỂM CHÂM
- Châm càng sớm càng tốt, như cảm cúm, sổ mũi, nhức đầu có thể
chỉ châm một vài lần là khỏi, có khi vừa châm xong đã thấy dễ chịu ngay.
- Với chứng đau nhức, hễ điểm nào châm đã khỏi thì không nên châm
lại nữa.
- Mất ngủ thì nên châm trước khi đi ngủ để tăng hiệu quả cao hơn.
- Với bệnh sốt rét, nếu cơn sốt lên có giờ (cữ) nhất định, nên châm
chận cơn 2 - 3 giờ trước khi lên cơn.
- Đối với người dễ bị cảm do thời tiết, lúc thời tiết sắp thay đổi (mùa
nắng sang mùa mưa ) nên châm hoặc cứu đề phòng một số huyệt đặc hiệu
như Túc Tam Lý, Đại Chùy, Phong Môn
- Các chứng cấp tính: co giật, động kinh, ngất, đau dữ dội cần châm
ngay.
Tuy nhiên, một số trường hợp như khi làm việc còn đang ra mồ hôi
nhiều, còn mệt nhọc không nên châm vội, trừ trường hợp thật cần thiết để
tránh tình trạng vượng châm.


CHỌN KIM
Việc dùng kim châm đã được mô tả rất kỹ trong thiên ‘CửuChâm
Thập Nhị Nguyên’ (LKhu.1) và thiên ‘Quan Châm’ (LKhu.7).
Khi nói về tác dụng và hậu quả của việc chọn dùng kim, thiên “Quan
Châm” đã ghi: ”Bệnh ở cạn mà châm vào sâu thì bên trong sẽ làm tổn
thương đến phần cơ nhục đang lành và nơi bì phu sẽ bị ung. Bệnh chỉ đáng
châm kim nhỏ mà lại châm kim to, khí sẽ bị tả quá nhiều, bệnh sẽ hại
thêm ” Bệnh đáng châm kim to mà lại châm kim nhỏ, khí chẳng những
không bị tả mà lại còn trở lại gây ra tệ hại hơn” (LKhu.7, 4-7).
Nhận xét này của sách Linh Khu cho thấy tầm quan trọng của việc
dùng đúng hay không đúng, chọn lựa kim cho thích hợp và hậu quả tai hại
biết bao nhiêu nếu không dùng đúng kim theo nhu cầu.
Sách ‘Linh Khu’ mô tả và hướng dẫn sử dụng 9 loại kim như sau:
1- SÀM CHÂM
( Thiên “Cửu Châm Thập Nhị Nguyên” ghi: “Sàm châm đầu to, mũi
nhọn, dùng để tiết tả dương khí “ (LKhu 1, 53).
( Thiên “Quan Châm”: Bệnh ở vùng bì phu, không nằm ở chỗ nhất
định, nên dùng Sàm châm châm vào chỗ đang bệnh” (L.Khu 7, 10).
( Thiên ‘Cửu Châm Luận’ ghi: "Thứ nhất: Sàm châm, lấy phép ở cân
châm, bỏ mũi đi thì thân kim còn lại là 1 thốn rưỡi, đầu mũi nhọn như mũi
tên, cả cây kim dài 1 thốn 6 phân, nó chủ về trị những bệnh ở đầu và thân
mình” (LKhu 78, 15).
2- VIÊN CHÂM
(Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Viên châm mũi hình như
quả trứng, dùng để xoa, chùi trong khoảng phần nhục, không làm tổn thương
phần cơ nhục, dùng để châm cho khí ở khoảng giữa phần nhục phải tiết ra”
(LKhu.1, 54).
( Thiên ‘Quan Châm’: Bệnh ở tại khoảng phần nhục nên dùng Viên
châm châm vào chỗ đang bệnh” (L.Khu.7, 12).
( Thiên ‘Cửu Châm Luận’ ghi: “Viên châm, lấy phép ở nhữ châm,

thân kim hình trụ tròn, mũi như hình quả trứng, dài 1 thốn 6 phân, chủ trị ở
vùng phận nhục” ( LKhu 78, 16).
3- ĐỀ CHÂM
( Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Đề châm nhọn như mũi
nhọn của hạt lúa thu?, chủ về việc án lên mạch không cho bị hãm vào, nhằm
làm cho kim được tiếp xúc với khí “ (LKhu.1, 55).
( Thiên ‘Quan Châm’: ‘Bệnh ở tại mạch, khí bị thiếu, cần phải được
châm bổ, trường hợp này nên dùng Đề Châm châm vào các huyệt Tĩnh,
Vinh thuộc các đường kinh’ (L.Khu.7, 14).
( Thiên ‘Cửu Châm Luận’ ghi: “Đề châm, lấy phép ở mũi nhọn của
hạt lúa thử, dài 3 thốn rưỡi, chủ về án lên mạch để lấy được chính khí quay
về, và làm cho tà khí phải xuất ra” (LKhu 78, 17).
4- PHONG CHÂM
( Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: Phong châm là loại kim 3
mặt có cạnh sắc, dùng để phát tiết tà khí, trừ cố tật” (LKhu.1, 56).
( Thiên ‘Quan Châm’: “Bệnh ở tại kinh lạc với chứng cố tý, nên dùng
Phong châm” (L.Khu.7, 13). “Bệnh ở tại ngũ tạng lâu ngày: nên dùng kim
Phong châm” (L.Khu.7, 20).
( Thiên ‘Thích Tiết Chân Tà’ ghi: “Trị chứng đại tà (thực), nên dùng
Phong Châm (LKhu. 75, 72).
( Thiên ‘Cửu Châm Luận’ ghi: “Phong châm, lấy theo phép nhữ
châm, thân kim hình trụ tròn, mũi thật nhọn, dài 1 thốn 6 phân, chủ về chứng
ung và nhiệt, châm xuất huyết” (LKhu 78, 18).
5- PHI CHÂM
( Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Phi châm là loại kim
thân và mũi nhọn như mũi kiếm, dùng để châm lấy mu?” (LKhu.1, 57).
( Thiên ‘Quan Châm’: “Bệnh gây thành những vùng nhiều mu?, dùng
Phi châm” (L.Khu.7, 15) - Đại tả thích là phép dùng kim Phi châm để châm
vào nơi có nhiều mủ (LKhu 7, 28).
( Thiên ‘Ngọc Bản’ ghi: “ Trị ung thư (mụn nhọt) Nếu đã thành mủ

và máu, chỉ nên dùng biếm thạch và phi châm để châm lấy máu mủ là tốt
nhất” (LKhu 60, 17).
( Thiên ‘Thích Tiết Chân Tà’ ghi: “Trị ung tà nên dùng kim Phi
Châm” ( LKhu. 75, 71).
( Thiên ‘Cửu Châm Luận’ ghi: “Phi châm, lấy phép ở độ bén nhọn của
lưỡi kiếm, rộng 2 phân rưỡi, dài 4 thốn, chủ về châm lấy mủ nhiều, đó là
lưỡng nhiệt cùng tranh nhau vậy” (LKhu 78, 19).
6- VIÊN LỢI CHÂM
( Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Viên Lợi châm to như
sợi lông dài, vừa tròn vừa nhọn, giữa thân hơi to ra, dùng để châm lấy bạo
khí” (LKhu.1, 58).
( Thiên ‘Quan Châm’: “Bệnh Tý khí bạo phát nên dùng Viên Lợi
châm” (L.Khu.7, 16).
( Thiên ‘Thích Tiết Chân Tà’ ghi: “Trị chứng tiểu tà (hư) nên dùng
Viên Lợi Châm” ( LKhu. 75, 73).
( Thiên ‘Cửu Châm Luận’ ghi: “Viên lợi châm, lấy phép ở ly châm,
mũi kim hơi to, nhưng thân lại nhỏ, làm thế để cho dễ châm sâu vào trong,
dài 1 thốn 6 phân, chủ về chứng ung và chứng tý “ (LKhu 78, 20).
7- HÀO CHÂM
( Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Hào châm mũi nhọn như
mũi con muỗi, khi châm thì khí sẽ đến một cách yên tĩnh, chậm chạp và nhẹ
nhàng, vì vậy có thể lưu kim thật lâu nhằm dưỡng chính khí và trừ được tà
khí đã gây nên chứng thống tý” (LKhu.1, 59).
( Thiên ‘Quan Châm’: “Bệnh tý khí gây thành đau nhức không hết,
nên dùng Hào châm” (L.Khu.7, 17).
( Thiên ‘Nghịch Thuận Phì Sấu’ ghi: "Trẻ nhỏ thì cơ nhục mềm, huyết
ít, khí nhược, châm cho chúng phải dùng Hào châm ” (LKhu 38, 17).
( Thiên ‘Thích Tiết Chân Tà’ ghi: “Châm chứng nhiệt tà nên dùng
Hào Châm” (LKhu.75, 74).
( Thiên ‘Cửu Châm Luận’ ghi: “Hào châm, lấy phép ở lông hào mao,

dài 1 thốn 6 phân, chủ về các chứng Hàn Nhiệt và thống tý ở các lạc mạch
(LKhu 78, 21).
8- TRƯỜNG CHÂM
( Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Trường châm mũi nhọn
mà thân mỏng, có thể dùng lấy tý khí ở xa” (LKhu.1, 60)
( Thiên ‘Quan Châm’: “Bệnh ở chỗ xa (sâu) nên dùng Trường châm”
(L.Khu.7, 18).
( Thiên ‘Cửu Châm Luận’ ghi: Trường châm, lấy phép ở kỳ châm, dài
7 thốn, chủ về chứng tý do tà khí vào sâu bên trong (LKhu 78, 22].
9- ĐẠI CHÂM
( Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Đại châm hình như cây
côn, mũi nhỏ, tròn, dùng để tả thu?y ở các khớp xương” (LKhu.1, 61).
( Thiên ‘Quan Châm’: “Bệnh thu?y thũng làm cho các khớp xương
(quan tiết) không thông được, nên dùng Đại châm” (L.Khu.7, 19).
( Thiên ‘Cửu Châm Luận’ ghi: “Đại châm, lấy phép ở Phong châm
(giống như kim thứ tư), nhưng mũi nhọn hơi tròn, dài 4 thốn, chủ về chứng
thủy thũng ở quan tiết không xuất ra được (LKhu 78, 23).
Tuy kinh điển chia ra tới 9 loại kim châm nhưng thực tế hiện nay hầu
như chỉ còn duy trì 2 loại thông dụng nhất là Hào châm và Phong châm
(Kim Tam Lăng ơng đương với Phong châm). Ngoài ra cũng còn thường
dùng loại kim Mai Hoa (tương đương Thất Tinh Châm) để gõ kích thích.
CHỌN TƯ THẾ CHÂM
Tùy theo vị trí từng huyệt, tùy theo tình trạng sức kho?e và điều kiện
của người bệnh mà chọn tư thế cho thích hợp:
- Ngồi tựa lưng, mặt ngư?a để châm ở đầu mặt.
- Ngồi nghiêng, má áp xuống bàn để châm ở má, tai.
- Ngồi cúi đầu châm ở cổ, vai, ngang lưng trở lên.
- Nằm ngư?a châm ở mặt, bụng, ngực, chân tay.
- Nằm sấp châm ở gáy, vai, lưng, mông, đùi sau, chân tay.
- Nằm nghiêng châm 1 bên hông, mặt ngoài tay chân.

SÁT TRÙNG KIM VÀ DA
1- Sát Trùng (thanh trùng) kim.
• Các kim châm cần đun sôi và giữ sôi khoảng 20 - 30 phút.
• Có thể ngâm cồn 70 độ từ 10 - 20 phút (tuy nhiên, nếu có điều kiện
vẫn nên đun sôi).
• Nếu có điều kiện, nên hấp khô trước khi dùng.
2- Sát trùng vùng da định châm bằng bông đã tẩm cồn 70 – 90 độ.
Vấn đề nhiễm trùng do kim châm có hay không?
Giáo sư Hoàng Bảo Châu trong ‘Tạp Chí Đông Y’ số 142 / 1976 đã
nhận xét như sau:
+ Tự bản thân kim có tác dụng sát trùng nhẹ Tác dụng này chỉ có
khi để ở không khí, trong môi trường Oxy và Cacbonic. Tác dụng này mất đi
khi ngâm trong nước một ngày hoặc để ở vòi nước chảy vài giờ.
+ Luộc kim 20 phút, ngâm cồn 70 độ, vuốt bằng bông thấm cồn 700
và vuốt bằng bông thường, kim ô nhiễm không rõ.
+ Vuốt bằng tay ô nhiễm rõ.
Vì thế các chuyên gia đề nghị:
a- Dùng kim đã luộc kỹ, kim ngâm cồn 70 độ, vuối kim bằng bông có
cồn 70 độ .
b- Không được dùng cách vuốt kim bằng tay để châm.
Một vấn đề nữa cũng đã được đặt ra là kim châm có dẫn truyền vi
khuẩn thành dịch bệnh không?
Theo báo cáo của Viện Đông Y Việt Nam (Tạp Chí Đông Y 142 /
1976), chưa thấy có hiện tượng viêm nhiễm do châm. Lý do có thể là:
+ Diện tích mũi kim quá nhỏ lại đặc, không chứa máu như kim tiêm
(chích).
+ Tự bản thân kim có tác dụng sát trùng nhẹ.
+ Kim đã được sát trùng trước khi đâm qua da.
+ Kim còn tác dụng điều trị (phòng và chữa bệnh).
Tuy nhiên, tại Thượng Hải, trong thông báo của Hội Nghị Châm Cứu

năm 1958, một số tác giả đã lưu ý là trong vùng rất nhiều người đã bị chứng
Viêm Gan Siêu Vi mà nguyên nhân chủ yếu là trước đó có được châm cứu.
Vì vậy vẫn cần coi trọng vấn đề nhiễm trùng do châm nhưng không nên đặt
ngang hàng châm cứu với tiêm truyền trong việc lây chéo viêm gan siêu vi
vì tiêm truyền chủ yếu là đưa chất lạ vào cơ thể còn châm cứu chủ yếu là
kích thích huyệt để phòng và trị bệnh.
Hiện nay, SIDA (AIDS là mối bận tâm lớn cho những người đến xin
điều trị bằng châm cứu. Vì vậy, cần lưu ý hết sức đến việc khử trùng. Cần
nhớ là virus HIV (gây ra SIDA) tự bản thân nó chỉ sống được với nhiệt độ
dưới 48oC, vì vậy nếu luộc kim kỹ, ngâm kim bằng cồn 70 độ trên 10 phút,
hấp đúng cách quy định, giữ đúng thủ tục cơ bản trong việc sát trùng sẽ có
thể tránh được chuyện đáng tiếc xẩy ra.
CÁCH CHÂM
- Châm kim nhanh (càng nhanh bao nhiêu càng tốt) theo kiểu ‘Tốc
Châm’. Theo cơ thể gia?i phẫu sinh lý học thì trong da có rất nhiều cảm thụ
có tới hàng chục thứ, bao gồm cảm thụ cảm giác đau, sức ép bề mặt (xúc
giác), nóng lạnh mà ta có ý thức. Trong đó cảm giác đau được nhận cảm
rất nhanh, vì thế phải làm sao cho kim đi qua lớp da một cách nhanh chóng
sẽ tránh được cảm giác đau.
- Sau khi kim đã qua da, từ từ đẩy kim tiến vào độ sâu đã qui định cho
đến khi đắc khí (người bệnh có cảm giác ê tức ).
- Lấy ngón tay cái bên trái đè vào gần vị trí huyệt, tay phải cầm thân
kim châm vào huyệt. Cách này dùng để châm đối với kim ngắn.
- Lấy ngón trỏ và ngón cái bên trái, để cách nhau 1 - 2 cm, ở 2 bên
huyệt vị, căng da, rồi dùng ngón tay phải cầm kim châm vào huyệt.
- Lấy ngón cái và ngón trỏ trái, véo (bóp) cho da ở chỗ có huyệt lên,
rồi châm kim vào huyệt. Dùng cách này khi châm cứu ở vùng ngực, mặt, loa
tai (xem hình).
- Khi châm bằng kim dài (vùng huyệt Hoàn Khiêu), ngón cái và ngón
trỏ tay trái cầm đoạn dưới của kim (cách mũi kim chừng 1 - 2 cm), tay phải

giữ đoạn trên hoặc giữa của kim. Sau khi đã lấy huyệt thật chính xác, đặt
mũi kim vào vị trí huyệt, thân kim và mặt da thành 1 góc 45 độ, châm kim
thật nhanh qua da vào vị trí huyệt sau đó từ từ đẩy kim vào cho đến khi đắc
khí.
HƯỚNG CHÂM KIM
Có 3 hướng châm kim chính:
- Châm thẳng góc với da: những vùng nhiều thịt (bụng, mông, lưng,
chân tay).
- Châm xiên vào da (khoảng35 - 40 độ): những huyệt ở vùng ít da như
cơ mặt, đỉnh đầu.
- Châm ngang nằm sát da (khoảng 15 độ): những huyệt ở đầu mặt,
giữa xương ức, đầu ngón tay chân, châm xuyên từ huyệt này sang huyệt
khác.
Thiên ‘Chẩn Yếu Kinh Chung Luận’ ghi: “ Bệnh nặng nên châm
thẳng xuống, bệnh nhẹ thì châm tán mũi kim ra, lên trên, xuống cùng.1, bên
trái hoặc bên phải ” (TVấn 16, 12).
Tuy nhiên cũng nên lưu ý đến 1 số huyệt, dựa theo vị trí riêng biệt mà
có cách châm khác biệt:
+ Huyệt Đản Trung (Chiên Trung): châm chữa trị bệnh về khí như
suyễn, khó thở thì mũi kim hướng thẳng lên trên, nhưng nếu trị bệnh ở vú
như vú sưng đau thì mũi kim lại hướng ngang sang phía vú bị bệnh
+ Huyệt Kiên Ngung: Nếu trị vai đau cứng do khí huyết ngưng tụ thì
mũi kim châm có thể hướng dọc theo xương cánh tay. Nếu trị khớp vai viêm
thì châm thẳng vào khớp vai.
Trong thiên ‘Quan Châm’ có nêu lên phương pháp châm ‘Hợp Cốc
Thích’ như sau: “Thứ tư gọi là Hợp Cốc Thích là phép châm 2 bên phải và
trái, giống như cái chân gà (Tả Hữu Kê Túc), châm vào vùng phận nhục ”
(LKhu 7, 56), sách ‘Châm Cứu Xử Phương Học’ diễn giải như sau: “Sau khi
châm kim, mũi kim trước tiên có thể hướng sang phía bên trái rồi nâng kim
lên, hướng sang phía bên phải, rồi lại nâng kim lên hướng sang các hướng

khác, không ngừng tay đổi hướng kim, làm như vậy rất bổ ích cho việc sơ
thông khí huyết”.
VỊ TRÍ GÓC
CHÂM
Đỉnh đầu 150
Mặt 90
Gáy 450
Lưng 900
Thắt lưng,
ngực
15o và
45 độ
Bụng 900
Thượng vị 900
Hạ vị 900
Khủy tay 900
Cổ tay 900
Ngón tay,
ngón chân
150
Đầu gối, Mông

900
ĐỘ NÔNG SÂU CỦA KIM CHÂM
Mỗi huyệt có độ nông sâu riêng. Ngoài ra, mỗi chứng bệnh, mỗi thời
điễm cũng phải châm sâu cạn khác nhau. Phải nắm vững nguyên tắc, vị trí
huyệt để châm.
- Thiên ‘Chung Thỉ’ ghi: “Mạch thực, châm sâu để tiết bớt cái khí của
nó, mạch hư, châm cạn làm cho tinh khí không ra được, để nuôi dưỡng mạch
của nó, chỉ cho tà khí tiết ra” (LKhu 9, 85).

- Thiên Chung Thỉ’ ghi: “Bệnh lâu ngày, tà khí nhập vào sâu, châm trị
bệnh này, nên châm sâu và lưu kim thật lâu, cứ cách vài ngày lại châm trở
lại” (LKhu 9, 105).
- Thiên “Quan Châm” ghi: “Bệnh ở cạn mà châm vào sâu thì bên
trong sẽ làm tổn thương đến phần cơ nhục đang lành và nơi bì phu sẽ bị nhọt
(ung). Bệnh ở sâu mà châm cạn thì bệnh khí sẽ không được tả và ngược lại,
nó sẽ gây thành nhiều mủ” (LKhu.7, 4-5).
- Thiên “Tứ Thời Khí” ghi: “Bệnh nặng châm sâu, bệnh nhẹ châm
cạn” (LKhu. 19, 3).
Mỗi cơ thể phải có độ châm khác nhau, người béo mập độ châm phải
sâu hơn người gầy yếu. Vì thế, khó có thể xác định được chính xác vị trí sâu
cạn của huyệt. Các tài liệu nêu ra dưới đây thường được dùng làm tiêu chuẩn
mẫu:
VỊ TRÍ ĐỘ
SÂU
Đỉnh đầu, mặt 4 - 8mm

Gáy 4mm -
1cm
Lưng 5mm -
1cm
Thắt lưng 1cm - 1,
5cm
Ngực 4mm -
1cm
Tai, cổ 4mm -
6mm
Vai, baœ vai 6mm -
1cm
Thượng vị, hạ 4mm -

vị 1cm
Khuœy tay 6mm -
1mc
Cổ tay 4mm -
1cm
Đầu gối 1cm - 1,
5cm
Mông 1cm - 1,
5cm
Ngón tay,
ngón chân
1cm - 1,
5cm
+ Trong thiên “Quan Châm” có nêu lên 1 phương pháp châm từ cạn
(nông) đến sâu, gọi là “Tam Thích”, được mô tả như sau: “Trước hết châm
cạn nhằm trục tà khí và để cho huyết khí đến; sau đó châm sâu vào cho đến
vùng tà của âm khí ; sau cùng châm thật sâu vào nhằm làm cho các khí hiện
ra” (LKhu.7, 49).
+ Thiên “Nghịch Thuận Phì Sấu” ghi: “Những người tráng niên, sức
khoẻ, huyết khí đầy đu?, da thịt cứng rắn mà mắc phải bệnh thì nên châm
sâu và lưu châm. Người béo mập cũng châm như vậy Người gầy, da mỏng,
sắc nhạt, thịt khô khan nên châm sâu mà rút kim nhanh Châm kẻ tráng sĩ
chân cốt, thịt rắn chắc, khớp xương chặt nên châm cạn mà rút kim nhanh
Trẻ nhỏ thịt còn mềm mai, huyết ít, khí yếu, nếu châm, nên dùng hào châm,
châm cạn và rút kim nhanh” (LKhu. 38, 9-17).
Như vậy, mỗi đối tượng cần có cách châm riêng, ngoài ra, người
châm còn phải biết linh hoạt, tùy theo từng vị trí, tình trạng của người bệnh
mà đề ra cách châm cho thích hợp.


×