Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

THỦ PHÁP CHÂM - Phần 3 - BỔ TẢ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.37 KB, 8 trang )

THỦ PHÁP CHÂM
Phần 3

BỔ TẢ
a. Đại cương
Bổ tả là thủ thuật áp dụng khi châm để nâng cao hơn nữa hiệu quả của
châm khi châm đã đắc khí.
b- Cơ Sở Lý Luận Của Bổ Tả
- Theo YHHĐ: Khi bàn về cơ năng linh hoạt của hệ thần kinh,
Widenski chứng minh rằng: 1 kích thích nhẹ sẽ gây một hưng phấn nhẹ, một
kích thích mạnh liên tục sẽ gây trạng thái ức chế trong toàn thân. Như vậy,
nếu người bệnh đang ở trong trạng thái ức chế (hư chứng, cơ thể suy yếu )
dùng cường độ nhẹ sẽ gây hưng phấn kích thích. Ngược lại, nếu người bệnh
đang ở trạng thái hưng phấn (thực chứng, tà khí thịnh) dùng cường độ mạnh
và liên tục (tả pháp) sẽ gây ra hiện tượng ức chế.
- Theo YHCT: Nguyên nhân gây bệnh có thể do Tà Khí Thịnh hoặc
do Chính Khí Suy.
Khi cơ thể có bệnh:
+ Do Tà khí bên ngoài quá mạnh: dùng Tả Pháp để đưa tà khí ra
ngoài. Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Khi tà khí bị tích tàng lâu
ngày thì phải trừ đi. Khi tà khí thắng phải áp dụng phép châm hư [tả ]”.
(LKhu.1, 30).
+ Thiên ‘Tiểu Châm Giải’ ghi: “Lúc châm tả, cảm thấy như đang mất
một cái gì đó” (LKhu. 3, 36).
+ Do Chính khí suy, dùng Bổ Pháp để nâng cao chính khí (sức để
kháng của cơ thể).
- Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Phàm khi dùng châm Hư
thì áp dụng phép châm Thực (Bổ)”. (LKhu.1, 29).
Như vậy, theo thiên ‘Căn Kết’ thì: “Hữu dư thì châm Tả, Bất túc thì
châm Bổ” (LKhu.5, 72).
c- Áp dụng Bổ Tả


Vấn đề chủ yếu là cần biết khi nào nên áp dụng Bổ và khi nào cần Tả .
+ Thiên ‘Căn Kết’ ghi: “Cho nên nói rằng: trong phép châm mà không
biết lẽ nghịch thuận (bổ tả ) thì chân khí và tà khí sẽ đánh nhau. Khí mãn
(thực) mà châm bổ thì, khí Âm dương sẽ tràn ngập ra tứ chi, Trường và Vị
khí sẽ xung ra da, Can và Phế sẽ trướng bên trong, Âm và Dương khí sẽ lẫn
vào nhau. Khi hư mà châm tả sẽ làm cho kinh mạch bị hư, huyết khí bị khô
kiệt, Trường và Vị khí bị tích tụ, bì phu bị mong manh, lông và tấu lý bị héo
nhăn, gần đến chỗ chết rồi vậy ” (L.Khu 5, 78-79).
+ Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ còn nhấn mạnh hơn: “Biết
được con đường vãng lai của khí thì sẽ biết được lúc nào có thể thủ huyệt để
châm. Thực là tối tăm thay cho những kẻ không biết được (sự vi diệu của
cơ). Thực khéo léo thay người nào hiểu rõ châm ý. Khí vãng gọị là nghịch,
khí lại gọi là thuận. Biết được sự nghịch thuận thì sẽ thực hành việc châm
bằng con đường chính đạo, không còn gì thắc mắc nữa” (LKhu 1, 20-24).
Cách chung: Hư tắc bổ, Thực tắc tả (Hư thì dùng phương pháp bổ,
Thực thì dùng phương pháp tả).
Tóm kết, những phương pháp bổ tả đã được mô tả trong kinh điển, có
thể thu gọn lại như sau:
Tính Chất

BỔ

TẢ
Cường độ

Vê kim ít

Vê kim nhiều lần
Hô hấp


Thở ra: Châm
Thở vào: rút kim

Thở vào: châm
Thở ra: rút kim
Theo kinh

Thuận chiều

Ngược chiều kinh
Tốc độ

Châm vào từ từ
Rút kim nhanh

Châm nhanh
Rút kim chậm.
Đóng mở

Khi rút kim: bịt chặt nơi châm

Khi rút kim: Không bịt nơi châm
Thời Gian

Lưu kim lâu

Không lưu kim lâu
Chất Kim

Kim vàng


Kim Bạc
Nói chung, về cách thức Bổ Tả, có thể nhận xét như sau:
* Hư là tình trạng dưới mức bình thường, cần nâng lên.
* Thực là hoạt động trên mức bình thường cần làm gia?m xuống.
Như vậy, xét về mục đích, đây là sự điều chỉnh về lượng kích thích.
Dù có nhiều cách thức Bổ Tả khác nhau nhưng mục đích chỉ có một. Do đó,
tùy theo hiện trạng lâm sàng, có thể chọn lựa cách thức Bổ Tả nào cho tiện
và thích hợp cũng được.
Để kết luận về phương pháp Bổ Tả, xin mượn lời của thiên ‘Ly Hợp
Chân Tà Luận’: “Cho nên nói rằng, chờ đợi tà khí mà không thẩm đoán, đợi
cho lúc tà khí đã đi qua mà châm tả thì chân khí bị thoát, chân khí bị thoát
thì không thể phục hồi. Tà khí sẽ trở lại thì bệnh càng súc tích hơn. Cho nên
nói rằng, khi tà khí đi qua thì không nên rượt theo (kỳ vãng bất khả truy).
Không thể sơ sót dù chỉ bằng sợi tóc, phải đợi tà khí đến đúng thì mới được
phát châm để tả ” (T. Vấn 27, 18).
Và thiên ‘Tà Khí Tạng Phủ Bệnh Hình’ nhấn mạnh: “Phép Bổ Tả mà
áp dụng nghịch nhau thì bệnh sẽ càng nặng” (LKhu.4, 122).
Như vậy, thầy thuốc phải thật tinh tường, nắm chắc vấn đề bổ tả để
khỏi gây nguy hại cho người bệnh”.
(Xem thêm phần ‘Bát Pháp và Điều Trị’).

×