Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM: Hiện trạng và những thách thức ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.18 KB, 33 trang )









HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM: Hiện
trạng và những thách thức






HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM:
Hiện trạng và những thách thức
trong điều kiện dân số già hoá



GIANG THANH LONG*


Tháng 4, 2004

Diễn đàn Phát triển Việt nam









* Giang Thanh Long là giảng viên trường ĐH Kinh tế quốc dân, Hà nội; là nghiên cứu viên của
Diễn đàn Phát triển Việt nam. Bạn đọc có thể liên lạc với tác giả qua địa chỉ:

Tóm tắt

Bài viết này đề cập đến hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác
định trước (PAYG defined-benefit) của Việt nam và xem xét sự bền vững
về mặt tài chính của nó trong điều kiện dân số già hoá và nền kinh tế hiệu
quả động. Bằng việc sử dụng các mô hình thống kê của Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO), bài viết chỉ ra rằng mức nợ lương hưu tiềm ẩn (implicit
pension debt - IPD) của hệ thống so với GDP của năm 2000 – năm cơ sở
để dự báo – là rất cao. Xét về mặt xã hội, sự tồn tại của nợ lương hưu tiềm
ẩn đồng nghĩa với việc gánh nặng nợ sẽ do các thế hệ hiện tại và tương lai
chi trả nếu chúng ta tiếp tục duy trì hệ thống hưu trí này. Vì thế, hệ thống
hưu trí Việt nam không những bất ổn về mặt tài chính, mà còn dẫn đến sự
bất công bằng giữa các thế hệ. Để tránh tình trạng này, hệ thống hưu trí
hiện nay cần phải được cải cách. Đặc biệt, Việt nam cần phải cải cách hệ
thống hưu trí sang một hệ thống tài khoản cá nhân một phần với mức
hưởng được xác định dựa trên mức đóng (partially-funded defined-
contribution scheme) với những cân nhắc kỹ lưỡng về tác động kinh tế và
xã hội để từ đó có thể tránh được cả sự bất ổn về mặt tài chính của hệ
thống và sự bất công bằng giữa các thế hệ.


Thuật ngữ


Tỷ lệ thực hiện. Tỷ lệ giữa số người thực sự đóng góp cho hệ thống với số người phải đóng
góp theo quy định của pháp luật.
Tỷ lệ đóng góp.
Tỷ lệ nhất định trong mức thu nhập mà người tham gia phải đóng góp cho hệ
thống.
Hệ thống có mức hưởng được xác định trước. Là hệ thống mà mức hưởng được xác định
theo một công thức cho trước. Công thức này bao gồm số năm đóng góp, thu nhập và
các tiêu chuẩn về mặt xã hội, và nó xác định người đóng góp được hưởng lương hưu
hay một lần. Người bảo đảm (nhà nước, người thuê lao động, công ty bảo hiểm) phải
chịu rủi ro tài chính đối với các khoản tiền phải trả cho người hưởng tính được theo
công thức đưa ra.
Hệ thống có mức hưởng được xác định theo mức đóng. Là hệ thống mà mức hưởng được
xác định dựa trên khoản đóng góp của từng cá nhân theo tài khoản của họ cùng với
lợi tức thu được từ khoản đầu tư khi những người này thoả mãn các điều kiện nhất
định do hệ thống đưa ra. Người lao động là người chịu rủi ro tài chính.
Nợ lương hưu tiềm ẩn (ròng).
Chênh lệch giữa tổng mức chi trả với tổng mức dự trữ của quỹ
hưu trí.
Hệ thống tài khoản cá nhân tượng trưng (NDC). Là hệ thống mà sự tham gia của người lao
động được ghi chép lại bằng tài khoản dưới dạng sổ sách (ví dụ như sổ bảo hiểm
chẳng hạn), và cuốn sổ đó ghi lại mức đóng góp cùng với mức lãi suất được hưởng
do chính phủ quy định, nhưng quỹ hưu trí không bao giờ tích luỹ thực sự trong
những tài khoản này. Thay vào đó, tiền đóng góp được sử dụng để chi trả chi những
người hưởng hiện tại, và những tài khoản đóng góp là tài khoản không tích luỹ hay
tượng trưng mà thôi. Khi người lao động đến tuổi về hưu, tài khoản tượng trưng của
anh/chị ta sẽ được chuyển thành khoản tiền hưởng đều hàng năm (nhiều hay ít phụ
thuộc vào thời gian nghỉ hưu dự tính và lãi suất) và khoản tiền này được lấy từ khoản
đóng góp của người lao động vào thời điểm đó - những người đang đóng góp để tạo
dựng cho mình một tài khoản nhất định.

Tỷ lệ phụ thuộc người già. Tỷ lệ giữa dân số trên 60 tuổi so với dân số từ 15 đến 60 tuổi.
Pay-as-you-go (PAYG). Là hệ thống an sinh xã hội mà khoản tiền thu được hiện tại (hầu hết
từ các khoản đóng góp, ví dụ như một phần nhất định trong tổng quỹ lương) được sử
dụng để chi trả cho chi phí hiện tại.
Tỷ lệ chi phí PAYG. Là tỷ lệ giữa tổng mức chi phí với tổng mức thu từ đóng góp của hệ
thống. Nó cho biết tỷ lệ đóng góp cần thiết để đảm bảo quỹ cân bằng.
Tỷ lệ thay thế. Tỷ lệ mức hưởng so với mức đóng (tính trung bình).
Tổng tỷ suất sinh. Số trẻ em mà một phụ nữ có thể có nếu chị ta sống hết độ tuổi sinh đẻ, và tỷ
lệ này được phân chia theo các lứa tuổi khác nhau.
Tỷ lệ phụ thuộc trẻ em.
Tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi so với dân số từ 15 đến 60 tuổi.

1
I. GIỚI THIỆU

Sự thay đổi của dân số có tác động lớn đến hoạt động kinh tế, xã hội của các nước,
khu vực và toàn thế giới. Trong thời gian gần đây, sự thay đổi của dân số có thể thấy rõ
nhất là hiện tượng dân số già hoá nhanh. Tỷ lệ người già trong tổng dân số tăng lên
nhanh chóng do tỷ lệ sinh giảm và tuổi thọ tăng lên. Sự già hoá của dân số đòi hỏi nhà
nước phải chi tiêu nhiều cho các khoản hưu trí, chăm sóc sức khỏe và y tế, và vì thế mà
tác động đến ngân sách của chính phủ, quỹ hưu trí và sự bền vững tài chính. Vấn đề dân
số già hoá trở nên nghiêm trọng khi xét đến hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng
được xác định trước. Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng hai nhân tố này có tác
động tiêu cực đến sự ổn định tài chính của quỹ hưu trí nói riêng và ngân sách nhà nước
nói chung ở hầu hết các nước trên thế giới
*
.
Bên cạnh việc có thể gây mất ổn định về mặt tài chính do tác động của sự già hoá
dân số, hệ thống PAYG với mức hưởng được xác định trước cũng gây ra sự bất công
bằng giữa các thế hệ. Khi dân số già hoá nhanh thì vấn đề này càng nghiêm trọng vì thế

hệ người lao động trong tương lai phải đóng góp nhiều hơn mới có thể trang trải chi phí
cho những người hưởng lợi hiện tại. Vì thế, hệ thống hưu trí này sẽ sụp đổ nếu được
duy trì do các vấn đề như trốn đóng bảo hiểm, mức hưởng quá cao và nợ lương hưu
tiềm ẩn lớn. Những khía cạnh có liên quan này đã được đề trong trong các nghiên cứu
của Gokhale (1996), Feldstein (1998), Kotlikoff và Leibfritz (1998), Takayama và cộng
sự (1998), và Kunieda (2001).
Mặc dù Việt nam vẫn là nền kinh tế có dân số trẻ với 7% tổng dân số là người trên
60 tuổi, nhưng trong vòng 50 năm nữa, nó cũng sẽ đối mặt với những vấn đề tương tự
phát sinh từ dân số già hoá như các nước khác hiện nay. Nhờ có tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ xã hội đầy ấn tượng, mức sống được cải thiện của người dân Việt nam đã dẫn
đến tuổi thọ tăng nhanh chóng, từ 40,2 năm vào năm 1950 lên tương ứng 64,8 và 69,2
vào năm 1990 và 2001; và tỷ lệ sinh giảm từ 6 trẻ em/1 phụ nữ vào năm 1960 xuống
tương ứng 3,4 and 2,33 vào năm 1990 và 2001 (Tổng cục Thống kê, 2002). Theo dự
báo dân số của Liên hợp quốc (2002) cho Việt nam, vào năm 2050, dân số từ 60 tuổi trở
lên sẽ chiếm 24% tổng dân số; và tỷ lệ phụ thuộc người già và dân số tương ứng sẽ là
42% và 77%. Bên cạnh đó, hệ thống hưu trí PAYG có mức hưởng được xác định trước
do nhà nước quản lý hiện nay của Việt nam thường trong tình trạng không ổn định về
mặt tài chính do số người tham gia hệ thống có hạn, mức đóng góp thấp trong khi tỷ lệ
thay thế lại khá cao. Sự phức hợp của những nhân tố này sẽ dẫn đến một hậu quả nhãn
tiền: sự bất ổn của hệ thống do những tác động tiêu cực về mặt tài chính. Một đánh giá
thống kê gần đây đối với hệ thống bảo hiểm xã hội của Việt nam cho thấy rằng quỹ bảo
hiểm sẽ cạn kiệt vào năm 2030 nếu như chúng ta không thực hiện chính sách cải cách

*
Ví dụ, Hagemann và Nicoletti (1989), Auerbach và cộng sự (1989), Holzmann (1997, 1998), và Holzmann và
cộng sự (2001).

2
hệ thống (Tổ chức Lao động quốc tế - ILO, 1998). Đây chính là nguy cơ đối với hệ
thống hưu trí Việt nam trong tương lai gần, và việc lựa chọn các chính sách nhằm duy

trì nó một cách bền vững là điều cần làm ngay.
Bài viết này sẽ phân tích sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt
nam cho đến năm 2050. Hai khía cạnh là sự bất ổn định về mặt tài chính và sự bất công
bằng giữa các thế hệ tham gia hệ thống sẽ được trình bày cụ thể trong bối cảnh Việt
nam vẫn tiếp tục duy trì hệ thống này. Trong phần cuối cùng, bài viết gợi ý một số
phương thức chính sách để cải cách hệ thống nhằm ổn định và đảm bảo sự công bằng
giữa các thế hệ.

II. HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM: HIỆN TRẠNG VÀ NHỮNG THÁCH
THỨC

Hệ thống hưu trí là một bộ phận của hệ thống bảo hiểm xã hội Việt nam - hệ thống
bắt đầu hoạt động từ năm 1962. Trước năm 1995, hệ thống hưu trí là hệ thống có mức
hưởng được xác định trước và chỉ có lao động của khu vực nhà nước tham gia hệ thống,
và nó được nhiều cơ quan chức năng quản lý dưới sự giám sát của chính phủ. Trong hệ
thống đó, mức hưởng hưu trí được xác định dựa trên số năm đóng góp và thu nhập cơ
sở (thường là mức lương vào thời điểm nghỉ hưu). Khoản hưởng lợi được chi trả từ quỹ
bảo hiểm xã hội - quỹ được hình thành từ khoản đóng góp của người sử dụng lao động
(một phần của quỹ lương) và từ trợ cấp của chính phủ. Quỹ bảo hiểm do chính phủ
quản lý và bảo trợ, và là một bộ phận của ngân sách nhà nước. Trong gần 30 năm, đặc
biệt trong những năm chiến tranh khốc liệt, hệ thống này đã đóng góp đáng kể trong
việc ổn định thu nhập và đời sống của người tham gia hệ thống.
Tuy nhiên, sự phức tạp và những khó khăn nảy sinh từ việc quản lý hành chính và
tài chính, cùng với sự lớn mạnh nhanh chóng của thành phần kinh tế tư nhân, đã khiến
chính phủ phải cải cách hệ thống đó thành hệ thống hưu trí PAYG có mức hưởng được
xác định trước vào năm 1995, và thành lập Bảo hiểm Xã hội Việt nam (VSI) cùng thời
điểm đó để quản lý hệ thống dưới sự bảo trợ của chính phủ.

1. Những đặc điểm chính và những bất cập của hệ thống


Tỷ lệ tham gia hệ thống và mức hưởng
Việc tham gia hệ thống hưu trí hiện tại bắt buộc đối với các đối tượng sau: (i) lao
động trong khu vực nhà nước, bao gồm những người làm việc trong chính phủ, các tổ
chức của Đảng và lực lượng vũ trang; (ii) lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà
nước (SOEs); và (iii) các doanh nghiệp tư nhân có số lao động trên 10 người, bao gồm
các doanh nghiệp nước ngoài, đại diện của các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp
trong các khu công nghiệp và khu chế xuất, và các tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, người

3
Việt nam đang làm việc ở nước ngoài, hoặc người nước ngoài đang làm việc tại Việt
nam có thể tham gia vào hệ thống bảo hiểm tự nguyện.
Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ tham gia hệ thống rất thấp vì số lượng người tham
gia chủ yếu từ khu vực nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, và có rất ít
người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội tự nguyện. Theo thống kê của Bảo hiểm
xã hội Việt nam (2001), tỷ lệ tham gia hệ thống đối với khu vực nhà nước là khoảng
95% đối với công chức và 93% đối với lao động làm việc tại các doanh nghiệp nhà
nước. Số lao động khu vực nhà nước tham gia hệ thống chiếm 86%, trong khi khu vực
tư nhân chỉ chiếm 14% (Hình 1). Điều này có thể thấy rõ hơn trong Bảng 1.

Hình 1. Số lượng người đang trực tiếp tham gia hệ thống
phân theo khu vực kinh tế trong năm 2000 (1000 người)













Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001)

Bảng 1. Tham gia hệ thống hưu trí của các thành phần kinh tế năm 2000
Nhà nước Tư nhân
% Lực lượng lao động 10 90
% Số người đang tham gia 86 14
Tỷ lệ thực hiện (%) 95 27
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2001), Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001)

Các loại hình hưởng thụ của hệ thống chủ yếu là các khoản chi trả dài hạn, bao
gồm hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và mất sức lao động. Bên cạnh đó, có một số
khoản chi trả một lần như trợ cấp mai táng, thanh toán một lần cho một số đối tượng về
hưu và các khoản trợ cấp khác cho tai nạn lao động và mất khả năng lao động ở mức độ
thấp.
Lương hưu trí được thanh toán cho nam giới và nữ giới ở độ tuổi tương ứng là 60
và 55 với ít nhất 20 năm đóng góp, và mức lương này được xác định bằng công thức
45%
41%
14%
Công chức nhà nước DNNN Khu vực tư nhân
(649)
(1854)
(1973)

4
tính nhất định. Ví dụ, mức lương hưu được hưởng được tính bằng cách nhân mức lương
cơ sở với một hệ số; trong đó, mức lương cơ sở được tính bằng mức lương trung bình

của một thời kỳ nhất định, ví dụ như mức lương trung bình của 5 năm cuối đối với lao
động trong khu vực nhà nước. Hệ số được tính bằng 3% cho mỗi năm của 15 năm đóng
góp đầu tiên, 2% với mỗi năm cho những năm tiếp theo và -1% đối với mỗi năm nghỉ
hưu sớm. Tuy vậy, tổng mức hưởng không vượt quá 75% mức lương cơ sở.
Các chế độ khác, ví dụ như tử tuất, thương tật và mất sức lao động được chi trả với
những quy định khắt khe. Tất cả mức hưởng nêu trên đều được điều chỉnh theo mức
lương cơ bản (hay tối thiểu), và mức lương hưu tối thiểu bằng với mức lương tối thiểu.
Trong hệ thống hưu trí hiện tại, có hai loại hình thụ hưởng, đó là những người
thuộc hệ thống trước năm 1995 và những người thuộc hệ thống sau năm 1995. Những
người thuộc hệ thống trước được chi trả bằng ngân sách nhà nước, trong khi những
người thuộc hệ thống sau được Bảo hiểm xã hội Việt nam chi trả. Trên thực tế, Bảo
hiểm xã hội Việt nam nhận trách nhiệm chi trả toàn bộ cho số người được hưởng lợi
của cả hai hệ thống, và sau đó nó nhận khoản thanh toán từ chính phủ thông qua Bộ Tài
chính (MoF).

Bảng 2. Số người đóng góp và người hưởng năm 2000
Khoản mục
Số người
(1000 người)
Mức lương
trung bình
(1000 đồng)
SỐ LƯỢNG NGƯỜI ĐÓNG GÓP
Công chức nhà nước (gồm cả lực lượng
vũ trang)
1.973 775
Lao động trong các DN Nhà nước 1.854 775
Lao động khu vực tư nhân 649 1.220
Tổng 4.476 840
SỐ NGƯỜI HƯỞNG

1. Hệ thống trước năm 1995 2.168 539
Hưu trí 1589 625
Mất khả năng lao động 427 356
Tai nạn lao động 8 273
Tử tuất 144 125
2. Hệ thống sau năm 1995
243 475
Hưu trí 141 691
Tai nạn lao động 19 339
Tử tuất 83 138
Tổng 2.411 532
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001)

Trong hệ thống mới, mức hưởng trung bình khoảng 475.000 đồng với tỷ lệ thay
thế xấp xỉ 56% - một tỷ lệ tương đối cao so với các nước khác. Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ

5
thuộc của hệ thống (hay còn gọi là tỷ lệ dân số của hệ thống) năm 2000 chỉ là 5,4% cho
biết rằng số người hưởng chỉ bằng 5,4% số người đóng góp và điều này cũng thể hiện
sự non trẻ của hệ thống. Vì vậy, tỷ lệ chi phí PAYG của hệ thống - tỷ lệ được tính bằng
cách lấy tỷ lệ thay thế nhân với tỷ lệ dân số của hệ thống - chỉ khoảng 3%, ngụ ý rằng
tổng mức chi trả của hệ thống này chỉ bằng 3% tổng mức đóng góp. Tỷ lệ này còn được
gọi là tỷ lệ đóng góp bền vững, tức là tỷ lệ đóng góp đủ để cân đối quỹ hưu trí.
Tổng mức thu của hệ thống chỉ bằng khoảng 10% GDP danh nghĩa năm 2000 do
mức lương còn thấp, tỷ lệ tham gia thấp và việc trốn đóng còn phổ biến, đặc biệt là
trong khu vực tư nhân.


Nguồn tài chính và tình trạng tài chính


Nguồn thu của hệ thống bao gồm các khoản đóng góp, hỗ trợ của chính phủ, thu từ
đầu tư và các nguồn khác (Điều 149, Luật Lao động sửa đổi (2002): trang 82).
Đóng góp cho hệ thống bảo hiểm xã hội bao gồm 5% tiền lương hàng tháng của
người lao động và khoản này được dùng cho chi trả hưu trí, tử tuất, trợ cấp mai táng; và
15% tổng quỹ lương của người sử dụng lao động, trong đó 10% dùng cho các khoản chi
trả dài hạn, ví dụ như hưu trí, và 5% còn lại dùng cho các khoản chi trả ngắn hạn, ví dụ
như ốm đau, thai sản
Phần chi trả và hỗ trợ của chính phủ bao gồm khoản chi trả cho những người
thuộc hệ thống trước năm 1995, và hỗ trợ cho các chi phí hoạt động ban đầu của hệ
thống, ví dụ như đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất và chi phí thanh toán.

Hình 2. Cơ cấu đầu tư của phần dự trữ quỹ bảo hiểm xã hội năm 2000














Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001)

NH NN &
PTNT

10%
NH Công
thương
8%
Quỹ hỗ trợ
phát triển
40%
Trái phiếu CP
dài hạn
4%
NSNN
13%
NH Ngoại
thương
1%
Trái phiếu
Chính phủ
6%
NH ĐT & PT
18%

6
Phần dự trữ sau khi đã cân đối quỹ được đầu tư. Trên thực tế, trong điều kiện các
công cụ và tài sản tài chính ở Việt nam của khu vực tài chính còn hạn chế, các khoản
đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội tập trung chu yếu vào các nguồn an toàn nhưng lãi suất
rất thấp. Các khoản đầu tư này chủ yếu dành cho khu vực nhà nước; ví dụ, trong năm
2000, 52% gửi tại các ngân hàng quốc doanh, 36% cho chính phủ vay trong các dự án
nhà nước, và 12% còn lại dùng để mua trái phiếu và thực hiện các khoản đầu tư khác
(Bảo hiểm xã hội Việt nam, 2001). Mức lãi suất danh nghĩa trung bình dự tính cho các
khoản đầu tư này chỉ là 4,85% (Hình 2).


Hình 3. Số lượng và cơ cấu tuổi của những người đang về hưu năm 2000


























Ngu
ồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2002)


Đúng như bản chất của hệ thống PAYG có mức hưởng được xác định trước, phần
đóng góp và phần hưởng lợi của hệ thống hưu trí Việt nam hiện nay không tương thích
Số người về hưu thuộc hệ thống trước năm 1995
25,100 27,400
117 , 4 0 0
16 5 , 3 0 0
180,200
172,600
148,400
75,200
14,000
38,200
45,600
19 1, 4 0 0
157,4 00
109,000
55,200
34,000
19 , 10 0
13 ,10 0
0
50,000
100,000
150,000
200,000
250,000
<45 45-49 50-54 55-59 60-64 65-69 70-74 75-79 80+
Độ tuổi
Người

Nam Nữ
Số người về hưu thuộc hệ thống sau năm 1995
116
1, 0 6 1
1,393
16,350
17,078
32,956
48
440
20,708
18,939
15 , 2 7 3
19,908
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
<40 40-44 45-49 50-54 55-59 60+
Độ tuổi
Người
Nam Nữ

7
với nhau nên quỹ hưu trí của thể cạn kiệt trong tương lai. Vấn đề bất ổn về mặt tài chính
của quỹ hưu trí Việt nam càng được thấy rõ hơn trong điều kiện số lượng người được

phép nghỉ hưu sớm khá nhiều (mà cách này từng được coi là cách giải quyết lao động
dư thừa ở các doanh nghiệp nhà nước) và dân số già hoá có thể dự đoán được. Theo báo
cáo của Bộ Lao động, Thương binh và xã hội (2001), tuổi về hưu trung bình trong thực
tế thấp hơn gần 5 năm so với quy định; 60% số người nghỉ hưu hiện nay đã về hưu sớm,
và 12% số người nghỉ hưu hiện nay đã nghỉ hưu khi đang còn ở độ tuổi dưới 45 (Hình
3). Điều này cho thấy rằng thời gian nghỉ hưu của những người này sẽ dài hơn khi tuổi
thọ của họ tăng lên, và vì thế mà lượng tiền chi trả cho khoản hưu trí của họ tăng nhanh
trong tương lai khi mức hưởng vẫn được chỉ số hoá theo mức lương tối thiểu - mức
lương này đương nhiên phải tăng lên theo thời gian khi chi phí sinh hoạt cao hơn.

Việc quản lý và khung pháp lý của hệ thống

Kể từ năm 1995, Bảo hiểm xã hội Việt nam chịu trách nhiệm thực hiện các chức
năng trong ngắn hạn và dài hạn mà trước đây tương ứng thuộc về Tổng Liên đoàn Lao
động Việt nam và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Bảo hiểm xã hội Việt nam
được tổ chức theo cơ cấu chiều dọc và nó có các chi nhánh ở cấp huyện, và các chi
nhánh ở địa phương chịu trách nhiệm cả thu và chi. Việc phân cấp quản lý theo hình
thức này đã tăng hiệu quả quản lý số lượng người tham gia hệ thống thông qua việc cập
nhật thông tin về tình hình lao động ở địa phương. Tuy nhiên, hình thức này cũng dẫn
đến sự gia tăng chi phí hành chính và có thể dẫn đến những vấn đề tiêu cực như tham
nhũng hoặc làm sai nguyên tắc. Hơn nữa, sự hợp tác trong quản lý giữa Bảo hiểm xã
hội Việt nam và các Bộ khác, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư với chức năng quản lý
các loại hình doanh nghiệp của cả nước, vẫn chưa thực sự có hiệu quả nên việc trốn
đóng bảo hiểm xã hội vẫn còn phổ biến, đặc biệt là khu vực tư nhân.
Cùng với những vấn đề về quản lý, các quy định về thuế đối với hệ thống bảo
hiểm xã hội và các loại hình tiết kiệm an sinh khác cũng khiến cho vấn đề trốn đóng
bảo hiểm trở nên nghiêm trọng hơn. Ví dụ, các khoản đóng góp của người sử dụng lao
động và người lao động và các khoản lợi nhận được từ hệ thống hưu trí không phải
đóng bất kỳ một loại thuế thu nhập nào, trong khi các khoản đóng góp vào hệ thống tiết
kiệm an sinh không được miễn thuế. Điều này khiến các doanh nghiệp tìm mọi cách

trốn đóng bảo hiểm xã hội như khai giảm số lượng lao động trong doanh nghiệp, ký hợp
đồng lao động ngắn hạn với lao động làm việc thường xuyên (hay dài hạn)…

2. Những thách thức đối với hệ thống

Xuất phát từ quan điểm kinh tế và xã hội, ta có thể thấy rằng hệ thống hưu trí Việt
nam phải đối mặt với hai thách thức. Thứ nhất là các thách thức trong ngắn hạn có liên
quan đến tỷ lệ tham gia hệ thống vẫn còn rất thấp và hiệu quả quản lý còn chưa cao.
Thứ hai là các thách thức trong dài hạn - được coi là hệ quả của các thách thức trong

8
ngắn hạn – có liên quan đến vấn đề dân số già hoá nhanh, và vì thế mà tỷ lệ phụ thuộc
của hệ thống cũng tăng nhanh.

Các thách thức trong ngắn hạn

Như đã đề cập ở trên, trong năm 2000, số người đóng góp cho hệ thống từ khu vực
tư nhân chỉ chiếm 14%, và tỷ lệ thực hiện của khu vực này cũng chỉ đạt 27%. Một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này chính là do quy định về việc
tham gia hệ thống quá hạn hẹp đối với khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, quá trình tái cơ
cấu kinh tế gắn với việc giãn thải lao động nên số lượng lao động trong khu vực nhà
nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, đang giảm xuống. Những lao động bị giãn
thải lại tham gia hoạt động trong khu vực tư nhân nhưng không tái đăng ký tham gia hệ
thống bảo hiểm xã hội nên tỷ lệ tham gia hệ thống giảm xuống.
Một điều cũng đáng lưu tâm là số người về hưu thuộc hệ thống trước năm 1995
chiếm tương ứng 66% và 92% tổng số người hưởng chế độ và tổng số người về hưu, và
phần lớn những người này đã về hưu sớm; do đó, gánh nặng tài chính để chi trả cho
những đối tượng này, thể hiện bằng khoản nợ lương hưu tiềm ẩn (IPD), sẽ tăng lên
trong tương lai khi mức lương hưu tối thiểu được điều chỉnh tăng và người hưởng lợi có
tuổi thọ cao hơn.


Hình 4. Tỷ lệ phụ thuộc dân số của Việt nam, 2000-2050














Nguồn: Dự báo dân số của Liên hợp quốc (2002)

Các thách thức trong dài hạn

Khi xem xét sự bền vững tài chính trong dài hạn thì có thể thấy rằng những thách
thức trong ngắn hạn nêu trên trở nên nghiêm trọng hơn trong điều kiện dân số già hoá.
0
10
20
30
40
50
60
70

80
90
2000 2005 2010 2015 2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050
Năm
Tỷ lệ phụ thuộc (%)
0
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
80,000
Số dân (1000 người)
Tỷ lệ phụ thuộc dân số Tỷ lệ phụ thuộc người già
15-59 60+
Trục trái
Trục trái
Trục phải
Trục phải

9
Chính sách kế hoạch hoá gia đình trong giai đoạn 1970-1990 và sự gia tăng của
tuổi thọ nhờ mức sống được cải thiện là hai nguyên nhân chính làm cho dân số Việt
nam trở nên già hơn. Theo dự báo dân số của Liên hợp quốc cho Việt nam, dân số già
(từ 60 tuổi trở lên) sẽ chiếm tương ứng 13% và 24% tổng dân số năm 2025 và 2050,
tương ứng gấp hai lần và ba lần so với năm 2000. Hơn nữa, tuổi thọ trung bình của dân
số Việt nam được dự đoán là sẽ tăng từ 69,2 năm vào năm 2000 lên tương ứng 74,1 và
78,2 vào năm 2025 và 2050. Kết quả là, tỷ lệ phụ thuộc người già và dân số tăng lên

nhanh chóng và gây áp lực đối với bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Ví dụ, tỷ lệ
phụ thuộc người già và dân số sẽ tăng tương ứng từ 13% và 69% vào năm 2000 lên
42% và 77% vào năm 2050, trong khi dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm nhanh sau
khi đạt đến con số cao nhất vào năm 2030.
Sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt nam chịu tác động của rất
nhiều nhân tố. Thứ nhất, tỷ lệ phụ thuộc dân số của hệ thống đang có xu hướng gia tăng
nhanh. Thứ hai, tỷ lệ đóng góp hiện tại thấp hơn so với tỷ lệ đóng góp bền vững – hay
còn gọi là tỷ lệ chi phí PAYG – và vì thế mà quỹ có thể bị cạn kiệt. Thứ ba, tỷ lệ thực
hiện có xu hướng giảm xuống do (i) sự thu hẹp của khu vực nhà nước, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhà nước; (ii) sự dịch chuyển của các đối tượng lao động giãn thải từ khu
vực nhà nước sang khu vực tư nhân nhưng lại không đăng ký tham gia vào hệ thống
bảo hiểm xã hội, và (iii) tỷ lệ tham gia của khu vực tư nhân còn quá thấp. Thứ tư, mức
hưởng được chỉ số hoá theo mức lương tối thiểu vẫn còn lớn, gắn liền với thời gian
hưởng dài do người hưởng lợi nghỉ hưu sớm và tuổi thọ có xu hướng tăng lên.
Các thách thức trong dài hạn còn có thể nghiêm trọng hơn nữa khi ta xét đến sự
công bằng giữa các thế hệ. Như đã đề cập trong rất nhiều nghiên cứu, hệ thống hưu trí
PAYG với mức hưởng được xác định trước trong điều kiện dân số già hoá cũng đồng
nghĩa với việc các thế hệ trẻ hiện nay và tương lai sẽ phải chịu gánh nặng lớn hơn mới
có thể trang trải được chi phí cho hệ thống. Gánh nặng lớn hơn này có thể được thể hiện
dưới nhiều dạng khác nhau, ví dụ như tỷ lệ đóng góp tăng lên liên tục, và vì thế mà
những người tham gia đóng góp cho hệ thống sẽ tìm cách trốn đóng hoặc nghỉ hưu sớm.
Tất cả những nhân tố kể trên khiến cho hệ thống hưu trí đối mặt với nhiều vấn đề,
và có thể làm cho hệ thống hưu trí rơi vào khủng hoảng trong tương lai, thể hiện bằng
sự bất ổn về mặt tài chính và sự bất công bằng giữa các thế hệ. Việc ổn định tài chính
và duy trì sự công bằng giữa các thế hệ trong hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng
được xác định trước với dân số già hoá nhanh chóng là những câu hỏi chính sách hóc
búa nhất đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Do vậy, tìm ra những chính sách có thể áp dụng
phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định nhằm hạn chế những vấn đề này
và ổn định hệ thống là điều cần phải làm ngay.



10
III. PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO TÀI CHÍNH CHO HỆ THỐNG HƯU TRÍ

Phần này sẽ sử dụng các phương pháp dự báo thống kê do Tổ chức Lao động quốc
tế xây dựng để đánh giá sự bền vững tài chính của hệ thống hưu trí. Tất nhiên, các
phương pháp này được điều chỉnh nhằm thích ứng với những điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định của Việt nam nói chung, và hệ thống hưu trí Việt nam nói riêng. Để dự báo
tài chính của hệ thống, chúng ta cần ba mô hình, đó là tổng dân số, nền kinh tế vĩ mô và
các chỉ số tài chính của hệ thống hưu trí.
Có ba bước để đánh giá thực trạng tài chính của hệ thống hưu trí, đó là bước đánh
giá nguyên trạng, bước đánh giá độ nhạy của các biến số và bước đề xuất các chính
sách cải cách. Bước đầu tiên được thực hiện trong điều kiện giả định rằng việc quản lý
và khung pháp lý của hệ thống hưu trí không thay đổi trong bối cảnh nền kinh tế xã hội
và dân số thay đổi. Bước thứ hai được thực hiện nhằm kiểm định dự báo nguyên trạng
nêu trên với những giả định khác nhau cho các chỉ số, ví dụ như tỷ lệ thực hiện, tỷ lệ
đóng góp và thay thế, để xem kết quả thu được có khác hay không và khác như thế nào
so với dự báo ban đầu. Bước thứ ba là đưa ra một số đề xuất chính sách nhằm ổn định
tài chính cho hệ thống và đảm bảo sự công bằng cho các thế hệ tham gia.

1. Dự báo dân số

Dự báo dân số của Việt nam được lấy từ dự báo dân số do Liên hợp quốc thực
hiện năm 2002 với giả định tỷ lệ sinh ở mức trung bình. Giả định này được sử dụng vì
tổng tỷ suất sinh trung bình của Việt nam đang có xu hướng giảm, nhưng vẫn giữ ở
mức 2,1 trẻ em/1 phụ nữ - tỷ lệ đảm bảo sự tái sinh của dân số.

2. Dự báo thị trường lao động

Từ tổng dân số ban đầu và các chỉ số dân số khác, ví dụ như tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết,

tỷ lệ di cư, tổng dân số trong tương lai, bao gồm cả dân số trong độ tuổi lao động (tức là
từ 15 đến 59 tuổi), sẽ được dự báo. Bên cạnh đó, ta coi số lượng lao động là một tỷ lệ
nào đó của dân số trong độ tuổi lao động và dựa vào những biến đổi của tỷ lệ này trong
quá khứ, ta có thể dự đoán được số lượng lao động trong tương lai. Số lượng lao động
không có việc làm được tính bằng cách lấy dân số trong độ tuổi lao động trừ đi số lượng
lao động có việc làm (Hình 5).


11
Hình 5: Phương pháp dự báo thị trường lao động













Nguồn:Tổ chức Lao động quốc tế (1998)

Thông thường, số người đang làm việc bao gồm cả những người ngoài độ tuổi lao
động, nhưng sự tham gia lực lượng lao động của họ không đáng kể hoặc không được
thống kê đầy đủ nên trong dự báo, ta có thể bỏ qua số lượng người lao động này. Bên
cạnh đó, số người lao động cũng có thể được dự báo bằng cách chia kết quả dự báo
GDP thực tế cho kết quả dự báo tương ứng về năng suất lao động. Tuy nhiên, năng suất

lao động thường không được thống kê chính xác hoặc đầy đủ nên ta không sử dụng
phương pháp này.

3. Dự báo kinh tế vĩ mô

Tăng trưởng kinh tế và lạm phát

Trong ngắn hạn, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm có thể tính toán dựa trên
những dự báo trong ngắn hạn về chiến lược kinh tế quốc gia. Trong dài hạn, tốc độ tăng
trưởng GDP được coi là một nhân tố ngoại sinh. Các giả định khi dự báo GDP trong cả
ngắn hạn và dài hạn được liên kết với nhau bằng phương pháp nội suy. GDP danh nghĩa
được tính bằng cách nhân GDP thực tế với chỉ số điều chỉnh GDP của từng năm. Chỉ số
điều chỉnh GDP trong quá khứ được tính bằng cách lấy GDP danh nghĩa chia cho GDP
thực tế. Sự thay đổi của chỉ số điều chỉnh GDP thường được dự đoán dựa trên những
giả định nào đó về lạm phát trong tương lai.
Tỷ lệ lạm phát thể hiện sự gia tăng của mức giá chung trong nền kinh tế và thường
được thể hiện bằng Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI). Giả định về sự thay đổi của lạm
phát trong tương lai hết sức quan trọng đối với hoạt động dự báo thống kê của hệ thống
hưu trí nếu như tất cả mức hưởng của hệ thống này được chỉ số hoá theo giá cả của nền
kinh tế. Dự báo về lạm phát có thể dựa trên chiến lược kinh tế mà quốc gia đang theo
Tổng dân số
ban đầu
Tổng dân số
dự báo
Dân số trong tuổi
lao động ban đầu
Số lượng người làm việc (tính bằng % của dân số
trong độ tuổi lao động)
Tỷ lệ tham
gia lực lượng

lao động
Số thất nghiệp
(dự báo)
Số lao động có
việc làm (dự báo)
Dân số trong độ
tuổi lao động dự
báo
Tỷ lệ sinh, chết, di


12
đuổi cùng với các chính sách điều chỉnh của nó. Tuy nhiên, một điều cũng nên lưu ý là,
trong đánh giá thống kê, tỷ lệ lạm phát cũng là một nhân tố ngoại sinh của mô hình.

Lương và Lãi suất

Trong dự báo nguyên trạng, mức lương dự báo được dựa trên chính sách của chính
phủ, tức là dựa trên tín hiệu của mức lương cơ bản (hay mức lương tối thiểu). Do đó,
tiền lương được dự báo dựa trên sự thay đổi trong quá khứ của mức tiền lương cơ bản.
Trong ngắn hạn, tiền lương có thể được dự báo dựa trên những thay đổi gần đây nhất
của tiền lương cơ bản. Tuy nhiên, trong trung hạn và dài hạn, do tính chất của phương
pháp dự báo thống kê nên tốc độ tăng của tiền lương thực tế được coi là xấp xỉ với mức
tăng của năng suất lao động - chỉ số được tính bằng cách lấy tốc độ tăng trưởng GDP
thực tế trừ đi tốc độ tăng trưởng của số lượng việc làm.
Tổng mức lương chi trả được tính bằng cách nhân mức lương trung bình của một
lao động với số lao động. Đối với hệ thống hưu trí, tổng mức thu của hệ thống được
tính bằng mức đóng trung bình nhân với số lượng người đóng. Mức hưởng trung bình
có thể được điều chỉnh theo sự thay đổi của mức đóng.
Lãi suất có thể được dự báo dựa trên báo cáo của ngân hàng trung ương. Bên cạnh

đó, nếu nền kinh tế thể hiện hiệu quả động, tức là lãi suất cao hơn tốc độ tăng dân số
cộng với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người tại trạng thái dừng dài hạn, thì mức lãi
suất dự báo bình quân cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đối với khoản dự trữ của hệ
thống hưu trí, mức lãi bình quân phụ thuộc vào các khoản đầu tư trong quá khứ và sự
thay đổi của lãi suất trên thị trường tài chính.

4. Dự báo tài chính của hệ thống hưu trí

Việc dự báo tài chính của hệ thống hưu trí phụ thuộc vào các chỉ số như số người
đóng góp cho hệ thống (số người thực sự tham gia hệ thống) và mức đóng trung bình
của những người này. Tương tự như vậy, quyết định đến dự báo tài chính còn có các chỉ
số như số lượng người hưởng, mức hưởng, các chỉ số thu nhập và cách thức chỉ số hoá
(theo lạm phát hay theo mức lương cơ bản). Cuối cùng, mức lãi đầu tư của khoản dự trữ
từ hệ thống, các khoản thu nhập và chi phí khác.
Số lượng người đóng góp

Số lượng người buộc phải tham gia vào hệ thống hưu trí theo quy định của chính
phủ có thể được dự báo bằng cách tính theo một tỷ lệ nào đó của số người đang lao
động đã được dự báo trước đó. Đối với hệ thống hưu trí Việt nam, có ba loại hình mà ta
phải dự báo, đó là (i) công chức nhà nước, bao gồm cả lực lượng vũ trang, (ii) lao động
làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước, và (iii) lao động làm việc trong khu vực tư
nhân phù hợp với quy định của chính phủ. Những con số này được dự báo bằng cách
tính theo tỷ lệ tương ứng với các đối tượng trong các khu vực kinh tế của nền kinh tế.

13
Dựa trên tính toán về số lượng người có thể tham gia vào hệ thống hưu trí theo
quy định của chính phủ, ta có thể tính số lượng người thực sự tham gia vào hệ thống
dựa trên dự báo về tỷ lệ thực hiện tương ứng của các khu vực kinh tế. Về nguyên tắc,
những con số này phải được cộng thêm với số lượng người mới gia nhập hệ thống và
trừ đi số người rời khỏi hệ thống (chết hoặc không tiếp tục được hưởng). Tuy nhiên,

trên thực tế, số liệu về sự thay đổi này thường không đầy đủ hoặc không được kịp thời
cập nhật nên để đơn giản khi dự báo, chúng ta giả định rằng tốc độ tăng của số người
mới tham gia và số người rời khỏi hệ thống khá ổn định. Chênh lệch giữa số người phải
tham gia hệ thống theo quy định của chính phủ với số người thực sự tham gia vào hệ
thống được gọi là số người không chủ động tham gia hệ thống (Hình 6).

Hình 6. Dự báo số người đóng góp cho hệ thống





















Nguồn: Tổ chức lao động quốc tế (1998)



Số lượng người thụ hưởng

Để dự đoán được số lượng người thụ hưởng, thông thường ta sử dụng bảng sống
của dân số để dự báo. Bảng sống thể hiện xác suất chết của giới tính và nhóm tuổi khác
nhau (xem phần Phụ lục).


Số lượng
công chức
ban đầu
Số lượng
công chức
(dự báo)
Số lượng lao
động trong
SOEs
Số lượng
lao động
trong SOEs
(dự báo)

Tỷ lệ trong l ực
lượng lao động
S

lượng
lao động
ban đầu
của khu

vực tư
nhân

Tỷ lệ trong lực
lượng lao động
Số lượng lao
động khu vực
tư nhân
(dự báo)
Số lượng
người thực
sự đóng
góp vào hệ
thống

Tỷ lệ trong lực
lượng lao động
Số lượng
người thực
sự đóng góp
vào hệ
thống
Tỷ lệ thực hiện
Tỷ lệ thực hiện
Số lượng
người thực
sự đóng
góp vào hệ
thống
Tỷ lệ thực hiện

S

lượng người
p
hải tham gia
theo quy định

Số lượng người
thực sự tham gia
Số lượng người không chủ động tham gia

14
Đối với hệ thống hưu trí hiện nay của Việt nam, có hai loại đối tượng thụ hưởng là
những người thuộc hệ thống trước năm 1995 và những người thuộc hệ thống sau năm
1995. Những người thuộc hệ thống trước hiện chỉ còn người hưởng, và số lượng này sẽ
giảm theo thời gian vì không có người mới tham gia hệ thống, số người rời khỏi hệ
thống tăng lên. Ngược lại, số lượng người thuộc hệ thống sau có thể tăng lên do có
người mới tham gia vào hệ thống. Vì vậy, việc dự báo số người hưởng của hệ thống
hưu trí Việt nam cần phải được phân tách cho hai loại đối tượng thụ hưởng này.

Số người thuộc hệ thống trước năm 1995
• Số lượng người thụ hưởng từ về hưu, tai nạn lao động và mất sức lao động
được dự báo dựa trên bảng sống của tổng dân số.

Số lượng người hưởng tử tuất cũng có thể sử dụng bảng sống để dự đoán.
Tuy nhiên, số lượng người rời khỏi hệ thống do không còn thuộc diện được
hưởng hoặc chết được coi là thay đổi với tốc độ ổn định.

Số người thuộc hệ thống sau năm 1995
Cách dự báo số lượng người hưởng của hệ thống sau năm 1995 dựa trên các công

thức tính toán được trình bày ở phần Phụ lục và tính theo từng năm. Cách thức tính toán
này cũng có thể áp dụng cho nhóm người tham gia theo nhóm tuổi 5 năm theo các giả
định nhất định. Chú ý rằng, người về hưu thuộc cả hệ thống trước và sau năm 1995 đều
được chi trả cho các khoản chăm sóc y tế nên những chi phí này có thể dự báo theo tỷ lệ
nào đó trong tổng chi tiêu cho hưu trí dựa trên thống kê trong quá khứ.

Số lượng người về hưu (dự báo) bằng tổng của (i) số lượng người dự báo
tiếp tục được hưởng chế độ hưu trí và (ii) số lượng người dự báo sẽ được
hưởng chế độ hưu trí.

Số lượng người tai nạn lao động và mất sức lao động được dự báo dựa trên
bảng sống của tổng dân số và xác suất bị tai nạn và mất sức lao động.

Lương trung bình và mức hưởng trung bình

Dự báo mức lương trung bình của người đóng góp và mức hưởng trung bình của
người hưởng lợi được thực hiện dựa trên thống kê quá khứ của các mức lương này.
Trong dự báo nguyên trạng, mức lương và mức hưởng trung bình được điều chỉnh theo
sự thay đổi của mức lương cơ bản (lương tối thiểu). Tuy nhiên, trong phần kiểm định
độ nhạy, các mức lương và hưởng này được điều chỉnh theo chỉ số lạm phát.

Đầu tư của phần dự trữ quỹ

Phần dự trữ của quỹ sẽ được đầu tư vào các nguồn khác nhau. Một nhân tố quan
trọng tác động và thể hiện hiệu quả của việc đầu tư là lãi suất. Như đã nói ở trên, lãi
suất có thể sử dụng từ các dự báo về nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, ở Việt nam, các
khoản đầu tư phần dự trữ của quỹ hưu trí được quản lý và quy định hết sức chặt chẽ nên

15
mức lãi suất thu được có thể dự đoán dựa trên mức lãi suất của các khoản đầu tư trong

quá khứ và theo quy định của chính phủ.

Các chi phí và thu nhập khác

Các chi phí khác, ví dụ như chi phí hành chính, chi phí chuyển khoản , và các
khoản thu nhập khác, ví dụ như trợ cấp của chính phủ cho đào tạo, xây dựng cơ bản
được dự báo bằng một tỷ lệ nhất định của tổng mức chi phí hoặc thu nhập.

Các chỉ số tài chính của hệ thống

Có rất nhiều chỉ số tài chính của hệ thống cần phải được xem xét vì chúng cho ta
biết trạng thái tài chính của hệ thống trong suốt thời kỳ dự báo.

Tỷ lệ chi phí PAYG: còn gọi là tỷ lệ đóng góp bền vững và được tính bằng cách
lấy tổng mức chi tiêu của hệ thống chia cho tổng mức thu của hệ thống. Kết quả
của mối quan hệ này là một tỷ lệ đóng góp cần thiết để duy trì quỹ ở trạng thái cân
bằng theo thời gian. Tỷ lệ đóng góp này bao gồm hai cấu thành, đó là tỷ lệ phụ
thuộc của hệ thống – là tỷ lệ giữa số người thụ hưởng và số người đóng góp – và
tỷ lệ thay thế - tỷ lệ giữa mức hưởng với mức lương cơ sở.

Tỷ lệ đóng góp trung bình (GAP): chỉ số này thể hiện mức đóng góp cần thiết để
duy trì sự cân bằng của quỹ trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, ví dụ
như 10 năm chẳng hạn. Chỉ số này rất tiện dụng khi chúng ta so sánh các cách thức
điều chỉnh khác nhau của hệ thống. Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp trung bình đòi hỏi
một thị trường tài chính ổn định và triển vọng. Nói cách khác, nó đòi hỏi phải có
một môi trường kinh tế khá vững mạnh thì mới có thể dự báo chính xác được.

5. Kiểm tra độ nhạy

Các kết quả dự báo thống kê đối với hệ thống hưu trí không thể cho ta kết quả

thực sự chính xác được vì có thể có quá nhiều giả định đơn giản hoá vấn đề hoặc mô
hình sử dụng không chính xác hoặc phù hợp, và các biến số sử dụng có thể là kết quả
của những nhân tố không thể dự báo được. Có nhiều khả năng dẫn đến các kết quả
không chính xác, ví dụ như thiếu số liệu hoặc số liệu đầy đủ nhưng không tin cậy. Vì
vậy, kiểm tra độ nhạy có thể cho ta biết được những khác biệt giữa dự báo với thực tế
có thể phát sinh. Việc kiểm tra độ nhạy trong mô hình thống kê của hệ thống hưu trí
thường là công việc tính toán lại các biến số quan trọng, ví dụ như tốc độ tăng trưởng
kinh tế, số lượng lao động, tốc độ tăng giá và lương thực tế, lãi suất của các khoản đầu


16
Đối với tình trạng tài chính của hệ thống hưu trí Việt nam, bài viết này thực hiện
việc kiểm tra độ nhạy của tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, tỷ lệ thực hiện tham gia hệ
thống hưu trí, cách thức chỉ số hoá lương và lãi suất của các khoản đầu tư phần dự trữ.


IV. KẾT QUẢ DỰ BÁO THỐNG KÊ

Bằng việc sử dụng mô hình nêu trên, bài viết tìm ra một số kết quả sau đây.
Thứ nhất, số người hưởng của hệ thống trước năm 1995 giảm từ 2,2 triệu người
vào năm 2000 xuống 713.000 người vào năm 2025 và 32.000 vào năm 2050. Với dự
báo đó, tổng chi tiêu của hệ thống này tương ứng là 13.980 tỷ đồng vào năm 2000,
15.272 tỷ đồng vào năm 2025, và sau đó giảm rất nhanh xuống mức 1.906 tỷ đồng vào
năm 2050.
Thứ hai, đối với hệ thống sau năm 1995, số lượng người thực sự đóng góp cho hệ
thống tăng từ 4,5 triệu người vào năm 2000 lên 7,6 triệu người vào năm 2025 và 10,3
triệu người vào năm 2050. Tương tự, số lượng người hưởng tăng từ 243.000 người vào
năm 2000 lên 1,7 triệu người vào năm 2025 và 4,1 triệu người vào năm 2050. Do đó, tỷ
lệ phụ thuộc của hệ thống tăng từ 5,4% vào năm 2000 lên 23% vào năm 2025 và 45%
vào năm 2050. Hơn nữa, tỷ lệ thay thế sẽ tăng từ 56,5% vào năm 2000 lên tương ứng

57,7% và 59,3% vào năm 2025 và 2050.
Thứ ba, kiểm tra độ nhạy được thực hiện với các viễn cảnh khác nhau, tức là điều
kiện kinh tế có triển vọng và không có triển vọng. Sau đây là kết quả dự báo của những
viễn cảnh đó xét dưới góc độ tài chính của hệ thống.
Bảng 3 cho thấy mức nợ lương hưu tiềm ẩn của cả hai hệ thống khi so sánh với
GDP năm 2000 đều rất cao với những mức chiết khấu khác nhau. Kết quả dự báo mức
nợ lượng hưu tiềm ẩn này ngụ ý rằng nếu Việt nam tiếp tục duy trì hệ thống hưu trí
PAYG với mức hưởng được xác định trước thì việc đó đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ
phải chơi “trò chơi Ponzi” tốn kém và đầy nguy hiểm, đặc biệt khi xét trên quan điểm
tài chính. Xét trên quan điểm xã hội, các khoản nợ lương hưu tiềm ẩn này sẽ do thế hệ
lao động hiện tại và tương lai ánh chịu, và vì thế mà sự bất công bằng giữa các thế hệ
khó tránh khỏi.

Bảng 3. Nợ lương hưu tiềm ẩn (IPD) của hệ thống hưu trí, 2000-2050
IPD so với GDP năm 2000
Tỷ lệ chiết khấu
Hệ thống trước 1995 Hệ thống sau 1995
3% 87 108
5% 66 63
6% 59 50
Nguồn:Tính toán của tác giả


17
Bảng 4. Tỷ lệ chi phí PAYG và Tỷ lệ đóng góp trung bình (GAP) của hệ thống
Duy trì hệ thống trong
(số năm)
GAP
(%)
Năm Tỷ lệ chi phí

PAYG
(%)
0 3.2 2000 3.1
10 4.8 2010 7.7
20 8.0 2020 11.8
30 10.6 2030 14.7
40 13.8 2040 21.8
50 17.4 2050 26.5
Chú ý: Năm cơ sở là năm 2000.
Nguồn:Tính toán của tác giả

Bảng 4 thể hiện tỷ lệ đóng góp nhằm duy trì hệ thống hưu trí hiện tại trong tương
lai với hai chỉ số, đó là tỷ lệ chi phí PAYG và tỷ lệ đóng góp trung bình (GAP). Do có
sự khác biệt trong kỹ thuật tính toán nên kết quả của hai chỉ số này khác nhau. Tuy
nhiên, những chỉ số này ngụ ý rằng mức đóng góp 15% hiện nay sẽ không đủ để duy trì
hệ thống trong tương lai gần. Ví dụ, sau năm 2030, tỷ lệ chi phí PAYG sẽ lớn hơn 15%
nên hệ thống sẽ cạn kiệt nguồn ngân quỹ với tỷ lệ đóng góp hiện tại. Viễn cảnh cũng
tương tự khi xét đến chỉ số tỷ lệ đóng góp trung bình - tỷ lệ cho thấy rằng hệ thống hưu
trí hiện tại chỉ duy trì được trong khoảng 40 năm nữa mà thôi.
Tất cả các chỉ số tài chính trên đây, đặc biệt là tỷ lệ chi phí PAYG, tỷ lệ đóng góp
trung bình và nợ lương hưu tiềm ẩn, ngụ ý rằng hệ thống hưu trí hiện nay của Việt nam
sẽ không bền vững về mặt tài chính trong bối cảnh dân số ngày càng già hoá và nền
kinh tế hiệu quả động. Do đó, cải cách hệ thống là điều cần làm hơn bao giờ hết.

V. CẢI CÁCH HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM

Phần này sẽ gợi ý việc giải quyết khoản nợ lương hưu tiềm ẩn của cả hệ thống
trước và sau năm 1995 nhằm tránh được sự khủng hoảng của ngân sách nhà nước (đối
với hệ thống trước năm 1995) và quỹ hưu trí (đối với hệ thống sau năm 1995).


1. Hệ thống trước năm 1995
Để giải quyết khoản nợ của hệ thống này, ta sử dụng phương pháp ràng buộc ngân
sách đều (inter-temporal budget constraint). Để đơn giản, chúng ta giả định rằng chính
phủ sẽ trả dần khoản nợ này bằng một khoản thu nhất định từ thuế mà giá trị của nó là
một tỷ lệ nhất định của GDP danh nghĩa của từng năm. Với các bối cảnh kinh tế khác
nhau, tỷ lệ thuế trung bình cũng sẽ khác nhau. Ví dụ, Hình 7 thể hiện cách giải quyết
khoản nợ lương hưu tiềm ẩn với tỷ lệ chiết khấu 5%. Trong trường hợp này, tỷ lệ thuế

18
trung bình là 1,34%. Tất nhiên, cách làm này phải được hỗ trợ bằng việc chính phủ phát
hành trái phiếu trong thời gian đầu.

Hình 7. Giải quyết nợ lương hưu tiềm ẩn của hệ thống trước năm 1995
với tỷ lệ chiết khấu 5%

Nguồn: Tính toán của tác giả

2. Hệ thống sau năm 1995

Thiết kế một hệ thống hưu trí mới

Có rất nhiều loại hệ thống hưu trí khác nhau để chúng ta thực hiện cải cách. Tuy
nhiên, cách duy nhất để tránh những khó khăn về tài chính là chuyển từ hệ thống hưu trí
PAYG với mức hưởng được xác định trước hiện nay sang hệ thống tài khoản cá nhân.
Hệ thống tài khoản cá nhân một phần hay toàn bộ phụ thuộc vào hiện trạng hiện nay
của hệ thống hưu trí và khả năng về mặt kinh tế - xã hội của một nước. Hệ thống tài
khoản cá nhân có những đặc điểm nổi bật sau đây.
Thứ nhất, hệ thống tài khoản cá nhân sẽ tăng phúc lợi kinh tế của người tham gia
hệ thống vì họ tiết kiệm cho chính họ trong thời gian làm việc và sau đó số tiền được sử
dụng để trang trải các chi phí khi họ nghỉ hưu. Trong suốt thời gian tích luỹ, khoản tiết

kiệm của họ có thể được đầu tư trên thị trường tài chính để hưởng lãi suất - mức lãi suất
này thường cao hơn so với mức lãi suất ngầm định của hệ thống PAYG (Feldstein,
1998). Điều này là hiển nhiên vì trong hệ thống PAYG, chúng ta không có bất kỳ một
khoản đầu tư thực sự nào và vì thế mà không hề có một khoản lợi tức thực tế (do đóng
góp của hệ thống được dùng để chi trả ngay cho những người đang hưởng hưu trí). Quá
trình này của hệ thống PAYG dẫn đến sự bất công bằng giữa các thế hệ vì những người
hưởng lợi hiện tại có thể có mức hưởng cao hơn so với những gì họ đóng góp trong thời
-60,000
-40,000
-20,000
0
20,000
40,000
60,000
2000
2006
201
2

2018 2024 2030 2036
2042
2048
N
ă
m
Tỷ đồng
Chi tr

Phát hành/chi trả TPCP
Mức thuế chung



19
gian làm việc do những thay đổi về điều kiện kinh tế, ví dụ như mức lương thực tế
trung bình cao hơn. Ngược lại, những khoản chi trả đó lại được thực hiện bằng số tiền
do thế hệ lao động hiện tại dóng góp. Đây chính là vòng luẩn quẩn về sự bất công bằng
giữa các thế hệ của hệ thống hưu trí PAYG.
Thứ hai, và quan trọng hơn, là việc chuyển sang hệ thống tài khoản cá nhân sẽ
tránh được những khoản nợ không thể trả nổi (nợ lương hưu tiềm ẩn), và vì thế mà
tránh được sự gia tăng nhanh chóng của tỷ lệ đóng góp khi dân số già hoá. Vấn đề này
đã được minh hoạ một cách rõ ràng trong các kết quả dự báo ở trên. Hơn nữa, việc
chuyển sang hệ thống tài khoản cá nhân sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm cá nhân trong dài
hạn, và từ đó tăng tỷ lệ tiết kiệm quốc gia, và cuối cùng là tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, phương thức tài trợ cho quá trình chuyển đổi này cần phải được xem xét
một cách thận trọng vì nó có thể sẽ không mang lại cái gì khi sự chuyển dịch đó lấn át
các khoản tiết kiệm cá nhân và dẫn đến thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn (Estelle
James, 1998).
Có rất nhiều lý do khiến cho việc chuyển sang hệ thống tài khoản cá nhân với mức
hưởng được xác định dựa trên mức đóng góp (defined-contribution) mang lại nhiều lợi
ích. Vấn đề chủ yếu là mức hưởng của người tham gia hệ thống hưu trí được tính sát
với mức đóng tương ứng của họ, và điều này khiến cho người tham gia hệ thống có ít
động cơ để trốn đóng bảo hiểm. Trong hệ thống với mức hưởng được xác định dựa trên
mức đóng, việc trốn đóng bảo hiểm đồng nghĩa với việc người tham gia hệ thống từ
giảm bớt phần hưởng lợi của chính bản thân mình; trong khi đó, việc trốn đóng bảo
hiểm trong hệ thống với mức hưởng được xác định trước lại giúp cho người tham gia hệ
thống có thể hưởng nhiều lợi ích thông qua “bóc lột” người khác, đặc biệt là những
người thuộc thế hệ hiện tại và tương lai. Đối với trường hợp của Việt nam, việc trốn
đóng bảo hiểm là vấn đề nghiêm trọng của hệ thống hưu trí hiện tại với tỷ lệ tham gia
và thực hiện của khu vực kinh tế tư nhân ở mức rất thấp. Việc chuyển sang hệ thống với
mức hưởng được xác định dựa trên mức đóng sẽ tăng tỷ lệ tham gia hệ thống, và vì vậy

mà đảm bảo được quyền lợi của người tham gia, làm giảm hiện tượng trốn đóng bảo
hiểm.
Bên cạnh đó, như đã trình bày trong rất nhiều nghiên cứu, hệ thống hưu trí với
mức hưởng được xác định dựa trên mức đóng sẽ làm giảm hiện tượng nghỉ hưu sớm và
làm giảm độ nhạy cảm về mặt tài chính của hệ thống đối với quyết định nghỉ hưu sớm.
Trong bối cảnh này, mức hưởng hưu trí sẽ tự động điều chỉnh nên việc nghỉ hưu sớm
hay dân số già hoá cũng không ảnh hưởng nhiều đến vấn đề tài chính của hệ thống.
Tương tự như vậy, hệ thống này cũng giảm thiểu việc hưởng lợi thông qua chế độ mất
sức lao động - chế độ mà hiện tượng rủi ro về đạo đức thường xuyên xảy ra khi người
giám định sức khoẻ thông đồng với người muốn nhận trợ cấp của chế độ này.
Ngược lại, trong hệ thống với mức hưởng được xác định trước, nghỉ hưu sớm và
nhận chế độ mất sức lao động là hiện tượng thường thấy vì người nghỉ hưu sớm và
người được hưởng chế độ trợ cấp mất sức lao động có thể hưởng lợi nhiều hơn so với

20
việc họ được hưởng theo đúng thời gian quy định. Bên cạnh đó, với dân số ngày càng
già hoá, chính phủ sẽ đối mặt với nhiệm vụ khó khăn khi muốn tăng tuổi về hưu cùng
với sự gia tăng của tuổi thọ dân số (Estelle James, 1998). Đề cập đến vấn đề này ở Việt
nam, chúng ta có thể thấy rằng một bộ phận không nhỏ những người đang hưởng các
chế độ hưu trí hiện tại vẫn còn đang ở độ tuổi có năng suất lao động cao (từ 35 đến 44
tuổi), và vì thế mà hệ thống với mức hưởng được xác định dựa trên mức đóng cần phải
được áp dụng nhằm giảm tình trạng nêu trên.
Trong thời gian gần đây, ở một chừng mực nào đó, hệ thống tài khoản cá nhân
tương trưng với mức hưởng được xác định dựa trên mức đóng (notional defined-
contribution scheme) nổi lên như là một giải pháp thành công cho vấn đề cải cách hệ
thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác định trước ở một số nước, ví dụ như ở
Thuỵ Điển (Disney, 1998) và Ý (Franco, 2001). Trong hệ thống này, người tham gia hệ
thống có tài khoản riêng của mình – tài khoản ghi chép khoản đóng góp được tích luỹ
cùng với lãi suất thu được từ khoản đóng góp đó. Tuy vậy, những tài khoản này được
gọi là tượng trưng vì các khoản đóng góp đó trên thực tế được sử dụng để chi trả cho

những người hưởng lợi trong hiện tại. Vì thế, mặc dù hệ thống này mang tính chất của
hệ thống có mức hưởng được xác định dựa trên mức đóng, nhưng về bản chất thì nó
vẫn là hệ thống PAYG. So với hệ thống PAYG với mức hưởng được xác định trước thì
hệ thống tượng trưng này vẫn có nhiều điểm vượt trội vì mức đóng có quan hệ chặt chẽ
hơn với mức hưởng, và quan trọng hơn cả là chúng ta giảm thiểu được cú sốc về chi phí
chuyển đổi sang hẳn hệ thống tài khoản cá nhân với mức hưởng được xác định dựa trên
mức đóng (hay chính là giảm thiểu tác động của việc chuyển hoá nợ lương hưu tiềm ẩn
của hệ thống thành nợ hiện hữu) so với hệ thống PAYG với mức hưởng được xác định
trước.
Tuy nhiên, khi xét đến sự công bằng giữa các thế hệ thì hệ thống tượng trưng này
không thể giải quyết hoàn toàn vấn đề được. Thứ nhất, mang bản chất của hệ thống
PAYG với mức hưởng được xác định trước, hệ thống tượng trưng không thể tránh được
việc gia tăng tỷ lệ đóng góp trong tương lai khi dân số giá hoá và vì thế mà không thể
tránh được sự bất công bằng giữa các thế hệ. Quan trọng hơn, mức lãi suất tượng trưng
trong suốt thời gian thực hiện đóng góp và tỷ lệ chuyển đổi hàng năm cho khoản về hưu
phụ thuộc nhiều vào hiện trạng chính trị (Estelle James 1996, 1998, Kotlikoff, 2000) vì
chính phủ dễ dàng thay đổi công thức tính mức hưởng. Thứ hai, như Kunieda (2001)
lập luận, hệ thống tượng trưng này chỉ có thể làm giảm sự bất công bằng giữa các thế hệ
khi nó được áp dụng để cắt giảm mức hưởng hiện tại, và việc chuyển đổi sang hệ thống
này chẳng có ý nghĩa gì nếu mức hưởng hiện tại vẫn giữ như cũ, hoặc lãi suất tượng
trưng lớn hơn tốc độ tăng trưởng dân số cộng với tốc độ tăng thu nhập đầu người trong
bối cảnh nền kinh tế hiệu quả động.


21
Cải cách hệ thống hưu trí ở Việt nam
Khi thiết kế hệ thống hưu trí, chúng ta có thể nhìn nhận được những viễn cảnh
chung của các hệ thống hưu trí với những đặc điểm riêng có của chúng nhằm duy trì sự
ổn định về mặt tài chính và đảm bảo sự công bằng giữa các thế hệ. Từ những viễn cảnh
đó, đối với hệ thống hưu trí Việt nam, chúng ta có thể thực hiện những công việc cải

cách sau đây.
Thứ nhất, chúng ta xem xét việc cắt giảm mức hưởng hiện nay nhằm đảm bảo sự
công bằng giữa các thế hệ.
Trên thực tế, bằng việc sử dụng mức lương trung bình của 5 năm cuối làm mức
lương cơ sở để tính mức hưởng hưu trí cho những người làm việc trong khu vực nhà
nước, hệ thống hưu trí của chúng ta hiện nay đang phải chi trả cho nhiều người về hưu
với số tiền lớn – mà những người này lại không phải trả bất kỳ một khoản thuế thu nhập
nào. Đề xuất chính sách này không có nghĩa là chúng ta cắt giảm đồng loạt mức hưởng
của mọi người đang hưởng lợi, mà nó gợi ý rằng chúng ta cần phải cắt giảm mức hưởng
của những người hưởng hưu trí với mức quá cao, và duy trì mức hưởng của những
người khác mà đủ để trang trải cuộc sống. Một điều có thể học được từ Kunieda (2001)
là chúng ta không chỉ cắt giảm mức hưởng của những người có mức hưởng quá cao, mà
còn đánh thuế thu nhập với những người này nhằm đảm bảo sự công bằng.
Bên cạnh đó, chúng ta nên chuyển cách thức chỉ số hoá mức hưởng từ mức lương
cơ bản (lương tối thiểu) sang chỉ số giá vì việc làm này giúp chúng ta phản ánh tốt hơn
sự thay đổi của chi phí sinh hoạt đối với người về hưu.
Thứ hai, chúng ta xem xét việc giải quyết nợ lương hưu tiềm ẩn khi chuyển từ hệ
thống PAYG sang hệ thống tài khoản cá nhân.
Đây là một vấn đề quan trọng vì việc thay đổi này sẽ khiến cho nợ lương hưu tiềm
ẩn của hệ thống PAYG trở thành khoản nợ hiện hữu. Nếu hệ thống hưu trí hiện nay
chuyển hoàn toàn sang hệ thống tài khoản cá nhân thì một khoản nợ lớn sẽ xuất hiện –
giá trị của khoản này bằng giá trị hiện tại của khoản nợ lương hưu tiềm ẩn ròng – và vì
vậy nó sẽ tác động xấu đến sự ổn định tài chính của chính phủ.
Trong năm 2001, nợ chính phủ chiếm khoảng 30% GDP, trong đó nợ trong nước
chiếm 3% và 27% còn lại là nợ nước ngoài. Tuy nhiên, mức nợ công (không gồm nợ
ngân hàng, nhưng gồm nợ của các doanh nghiệp nhà nước) bằng 63% GDP và khoản
nợ này phụ thuộc rất nhiều vào sự thành công trong hạn chế mức gia tăng nợ của các
doanh nghiệp nhà nước (IMF, 2002). Do đó, chúng ta cần chuyển sang hệ thống tài
khoản cá nhân một phần nhằm tránh được sự gia tăng nhanh chóng của nợ chính phủ.
Hơn nữa, trong quá trình chuyển đổi, những người đóng góp hiện tại phải chịu

“tổn thất hai lần”, tức là họ vừa phải đóng góp cho bản thân, vừa đóng góp để chi trả
cho những người đang hưởng chế độ hưu trí của hệ thống PAYG với mức hưởng được
xác định trước. Một số chính sách có thể được thực hiện nhằm giải quyết tình trạng này.
Ví dụ, Friedman và cộng sự (1996), Estelle James (1998) gợi ý việc sử dụng mô hình
của các nước Châu mỹ La tinh và một số nước chuyển đổi khác. Họ dùng khoản thu

×