Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

E- marketing là gì? docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.86 KB, 22 trang )

E-marketing là gì?
Tiếp thị điện tử (e-marketing) là cách thức tiếp thị vận dụng các tính năng của Internet
nhằm mục đích cuối cùng là phân phối được sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ đến thị
trường tiêu thụ.
Các quy tắc cơ bản của tiếp thị điện tử cũng giống như tiếp thị trong môi trường kinh
doanh truyền thống. Hoạt động tiếp thị vẫn theo trình tự: Sản phẩm – Giá thành - Xúc
tiến thương mại - Thị trường tiêu thụ.
Tuy nhiên, tiếp thị điện tử gặp khó khăn ở vấn đề cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của
thị trường mục tiêu (số lượng người sử dụng internet, mức độ sử dụng, tốc độ truy cập
mạng, ). Nếu cơ sở hạ tầng còn yếu kém thì người tiêu thụ không có nhiều cơ hội tiếp
cận với mạng Internet, tìm thông tin trên Net, mua hàng trực tuyến, tham gia đấu giá trên
mạng, Như vậy, e-marketing khó có thể có ảnh hưởng đến người tiêu dùng ở thị trường
đó.
Phân biệt e-marketing, e-commerce và e-business
• E-marketing là cách thức dùng các phương tiện điện tử để giới thiệu, mời chào,
cung cấp thông tin về sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ của nhà sản xuất đến
người tiêu dùng và thuyết phục họ chọn nó.
• E-commerce chỉ các hoạt động mua bán thông qua các phương tiện điện tử.
• E-business chỉ tất cả những hoạt động kiếm tiền từ mạng, từ việc bán hàng hoá,
dịch vụ cho đến tư vấn, đầu tư.
Các hình thức của e-marketing
• E-mail marketing: e-mail là cách tốt nhất để giao dịch với khách hàng. Chi phí
thấp và không mang tính xâm nhập đột ngột như tiếp thị qua điện thoại. Doanh
nghiệp có thể gởi thông điệp của mình đến mười ngàn người khác nhau, ở bất kỳ
nơi đâu, trong thời gian nhanh nhất. Tuy nhiên, để không quấy rầy khách hàng
như các spam, e-mail marketing nên xác nhận yêu cầu được cung cấp thông tin
hoặc sự chấp thuận của khách hàng. Nếu không, các thông điệp e-mail được gởi
đến sẽ bị cho vào thùng rác. Để tránh điều này, mọi thông tin do doanh nghiệp gởi
đi phải mới mẻ, hấp dẫn và có ích đối với khách hàng.
• Website marketing: giới thiệu các sản phẩm trực tuyến. Các thông tin về sản
phẩm ( hình ảnh, chất lượng, các tính năng, giá cả, ) được hiển thị 24, 365, sẵn


sàng phục vụ người tiêu dùng. Khách hàng có thể đặt hàng các sản phẩm, dịch vụ,
và thanh toán trực tiếp trên mạng. Để thu hút sự chú ý và tạo dựng lòng trung
thành nơi người tiêu dùng, doanh nghiệp phải đáp ứng đúng nhu cầu, thị hiếu của
thị trường. Ví dụ, áp dụng chương trình khuyến mãi miễn phí địa chỉ e-mail, hộp
thư, server, dung lượng hoặc không gian web. Mặt khác, website của doanh
nghiệp phải có giao diện lôi cuốn, dễ sử dụng, dễ tìm thấy trong các site tìm kiếm.
Doanh nghiệp cũng nên chú ý đến yếu tố an toàn, độ tin cậy và tiện dụng. Hoạt
động mua bán phải rõ ràng, dễ dàng, , kiểm tra dễ dàng số lượng hàng hóa mua
được, sử dụng thẻ điện tử để thanh toán. Hỏi đáp trực tuyến cũng được đánh giá
cao trong một website tiếp thị.
E-marketing ở Việt Nam
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa cao, thiếu vốn, ngành ngân hàng kém phát triển, hệ thống
pháp luật chưa đủ, lượng người dùng Internet còn thấp - đó là những nguyên do chính
khiến e-marketing vẫn còn đang trong giai đoạn khởi đầu tại Việt Nam. Mặt khác, phần
lớn người tiêu dùng Việt Nam chưa có điều kiện tiếp cận thông tin và công nghệ mới.Thu
nhập bình quân đầu người còn thấp nên sức mua chưa cao.
Tuy nhiên, những năm gần đây, số lượng máy tính sử dụng cũng như số người truy nhập
Internet tăng lên đáng kể, càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp có website riêng để
quảng bá cho đơn vị, sản phẩm, dịch vụ của mình. E-marketing đang từng bước được
khai thác, áp dụng trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
Bản sắc Marketing Việt Nam trong Kỷ nguyên số
Các chuyên gia marketing, lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam đang đón chờ Hội
thảo “Điển cứu mới của Harvard: Chiến lược tiếp thị trong kỷ nguyên số” như đón
chờ một ngày hội với nhiều hy vọng.
Hội thảo do Báo VietNamNet và Công ty Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report)
phối hợp tổ chức ngày 15/3/2010 tại Khách sạn New World, Tp. Hồ Chí Minh với sự
tham gia của GS. John Quelch - Phó Hiệu trưởng Trường Kinh doanh Harvard.
Hội thảo được đón chờ như cơ hội hiếm có để nghe và trao đổi với GS. John Quelch về
những xu hướng mới của tiếp thị trong kỷ nguyên số. Người ta tham dự ngày thuyết giảng
của cây đại thụ trong ngành marketing và xây dựng thương hiệu với hy vọng sẽ được cập

nhật các kết quả nghiên cứu thực tế ứng dụng marketing mới nhất của Trường Kinh doanh
Harvard và tiếp thu những kinh nghiệm thực tiễn về áp dụng chiến lược marketing trong bối
cảnh mới đầy biến động.
Được tổ chức như một ngày học ở Trường Kinh doanh Harvard danh tiếng với phương
pháp nghiên cứu tình huống (case study), hội thảo được chờ đợi sẽ giúp thay đổi cách nghĩ,
cách nhìn về chiến lược tiếp thị của doanh nghiệp; đồng thời rút ngắn khoảng cách về
marketing giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Tuy nhiên, để chinh phục được kỷ
nguyên số, giới marketing Việt Nam sẽ phải làm sáng tỏ một số vấn đề đặt ra.
Tiếp thị kỹ thuật số đắt hay rẻ và hiệu quả ra sao?
Như chúng ta đều biết, các kênh tiếp thị số như Internet, blog, mạng xã hội, qua điện thoại
di động có chi phí rẻ hơn cả trăm lần so với quảng cáo truyền thống, có “độ phủ” rất rộng và
hiệu quả cao nhưng vẫn chưa được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng và đầu tư phát
triển. Thông qua Hội thảo, các chuyên gia marketing và lãnh đạo các doanh nghiệp Việt
Nam mong muốn được nghe ý kiến của GS. John Quelch và thảo luận về hiệu quả đầu tư
cho kênh tiếp thị số, từ đó nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và xã hội về kênh tiếp thị
này.
Ở Việt Nam, nên tập trung sử dụng công cụ tiếp thị kỹ thuật số nào và làm thế nào để
tạo bản sắc riêng?
Ưu điểm của phương thức tiếp thị số là khả năng ứng dụng rất nhiều công nghệ hiện đại
của kỷ nguyên số để thực hiện marketing. Doanh nghiệp có thể tiến hành chiến dịch tiếp thị
trên diện rộng, tiếp cận và tương tác với hàng triệu người dùng nhờ ứng dụng các loại hình
marketing số như email marketing, web marketing, blog marketing, SMS marketing, mobile
marketing, SEO marketing, social net-working marketing, banner marketing, articles online
marketing
Hiện tại, số người sử dụng Internet của Việt Nam đã lên hơn 20 triệu và số người sử dụng
điện thoại di động - kênh tiếp cận mới của Internet và viễn thông còn lớn hơn gấp nhiều lần.
Tuy nhiên, thực trạng là có một số doanh nghiệp Việt Nam đang có xu hướng mở các kênh
tiếp thị số, chủ yếu là qua website của doanh nghiệp nhưng hình thức, nội dung thể hiện còn
hạn chế, chưa hấp dẫn và chưa tạo ra được nét độc đáo riêng, hiệu quả tiếp thị còn thấp.
Trong bối cảnh ấy, vấn đề đặt ra là: thứ nhất, hiện tại, ở Việt Nam nên tập trung sử dụng

công cụ marketing số nào cho phù hợp và thứ hai là làm thế nào để tạo được bản sắc riêng
cho doanh nghiệp trong “trận lụt” của vô số các công cụ tiếp thị số.
Còn những công cụ tiếp thị số nào nữa?
Từ ba điển cứu Dove, Zappos.com, Cyworld sẽ được đưa ra thảo luận trong Hội thảo
“Chiến lược tiếp thị trong kỷ nguyên số”, có thể thấy trong các điển cứu thành công này
không thể thiếu việc sử dụng công cụ tiếp thị số như web marketing, blog marketing. Tuy
nhiên, câu hỏi đặt ra ở đây là liệu Dove, Zappos.com, Cyworld còn có thể sử dụng các công
cụ tiếp thị số nào nữa. Chiến lược tiếp thị trong kỷ nguyên số có yêu cầu gì đặc trưng và dự
đoán liệu còn có công cụ tiếp thị số nào có thể xuất hiện và được hoàn thiện để đáp ứng
những đặc trưng ấy.
Cá nhân người viết bài này đã được tham dự Hội thảo “Một ngày Harvard – Nâng tầm
thương hiệu Việt” tổ chức ngày 21-22/2/2008 tại Dinh Thống Nhất, Tp. Hồ Chí Minh và thực
sự ngưỡng mộ phong cách trình bày của GS. John Quelch - vừa uyên thâm, bác học vừa
gần gũi, thân thiết. Chắc hẳn nhiều người cũng nóng lòng mong đợi cuộc gặp mặt với vị
giáo sư đáng kính, một người hiểu và yêu mến đất nước Việt Nam, với chủ đề nóng hổi về
những xu hướng tiếp thị trong kỷ nguyên số./.
Nguồn: TS. Phan An - Viện Marketing và quản trị Việt Nam (vnr500.vietnamnet.vn)
Share |
Ưu điểm của E-marketing:
Đặc điểmMarketing trực tuyến( E-marketing)Marketing truyền thống
Phương thứcSử dụng Internet và trên các thiết bị số hóa, không phụ thuộc vào các hãng
truyền thông.Chủ yếu sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng
Không gianKhông bị giới hạn bởi biên giới quốc gia và vùng lãnh thổ.Bị giới hạn bởi
biên giới quốc gia và vùng lãnh thổ.
Thời gianMọi lúc mọi nơi, phản ứng nhanh, cập nhập thông tin sau vài phút.Chỉ vào một
số giờ nhất định, mất nhiều thời gian và công sức để thay đổi mẫu quảng cáo hoặc clip.
Phản hồiKhách hàng phản hồi và trả lời phản hồi ngay lập tức.Mất một thời gian dài.
Khách hàngCó thể chọn được đối tượng cụ thể, tiếp cận trực tiếp với khách hàng.Không
chọn được một nhóm đối tượng cụ thể.
Chi phíChi phí thấp,với ngân sách nhỏ vẫn thực hiện được và có thể kiểm soát được chi

phí quảng cáo(google adwords)Chi phí cao, ngân sách quảng cáo lớn, được ấn định dùng
một lần.
Lưu trữ thông tinLưu trữ thông tin khách hàng dễ dàng, nhanh chóng , sau đó gởi thông
tin,liên hệ trực tiếp tới đối tượng khách hàng.Rất khó lưu trữ được thông tin của khách
hàng.
Tuy nhiên, E-Marketing vẫn có những điểm hạn chế so với Marketing truyền thống như
không phải tất cả các khách hàng đều sử dụng Ineternet, doanh nghiệp cần có một hạ tầng
công nghệ thông tin nhất định và phải có một đội ngũ am hiểu về E-Marketing. E-
Marketing cũng là một phần của Marketing, nó chỉ có thể giải quyết một số vấn đề của
Marketing.
Vì vậy, để chiến dịch Marketing của doanh nghiệp đạt hiểu quả cao thì phải kết hợp các
hình thức của E-Marketing và Marketing thông thường
Tìm hiểu e-marketing
26/8/2009 - 2067 Lượt xem
Sự xuất hiện của Internet đã đem lại nhiều lợi ích như chi phí thấp để truyền tải thông tin
và truyền thông (media) đến số lượng lớn đối tượng tiếp nhận, thông điệp được truyền tải
dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim, trò chơi,
E-marketing (Internet marketing hay online marketing), hay tiếp thị qua mạng, tiếp thị
trực tuyến là hoạt động cho sản phẩm và dịch vụ thông qua mạng kết nối toàn cầu
Internet. Với bản chất tương tác của E-marketing, đối tượng nhận thông điệp có thể phản
hồi tức khắc hay giao tiếp trực tiếp với đối tượng gửi thông điệp. Đây là lợi thế lớn của
E-marketing so với các loại hình khác.
E-marketing kết hợp tính sáng tạo và kỹ thuật của Internet, bao gồm thiết kế, phát triển,
quảng cáo và bán hàng. Các hoạt động của E-marketing bao gồm:
search engine marketing, web display advertising, e-mail marketing, affiliate
marketing, interactive advertising, blog marketing & viral marketing.
E-marketing là quá trình phát triển và quảng bá doanh nghiệp sử dụng các phương tiện
trực tuyến. E-marketing không chỉ đơn giản là xây dựng Website. E -marketing phải là
một phần của chiến lược marketing và phải được đầu tư hợp lý.
Một trong những lợi thế của E-marketing là sự sẵn sàng của lượng lớn thông tin. Người

tiêu dùng có thể truy cập thông tin sản phẩm và thực hiện giao dịch, mua bán mọi lúc mọi
nơi. Doanh nghiệp sử dụng e-makerting có thể tiết kiệm được chi phí bán hàng như chi
phí thuê mặt bằng, giảm số lượng nhân viên bán hàng, E-marketing còn giúp doanh
nghiệp tiếp cận với thị trường rộng lớn cũng như phát triển ra toàn cầu. Ngoài ra, so sánh
với các phương tiện khác như in ấn, báo đài, truyền hình, e-marketing có lơi thế rất lớn về
chi phí thấp.
Các hoạt động E-marketing khi triển khai có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá. Ví dụ với
Website, dịch vụ ‘Web analytic' cho phép theo dõi số lượng người truy cập, nội dung
quan tâm từ đó có thể đánh giá thông điệp truyền đi có đúng với ước muốn của khách
hàng không. Theo dự đoán, E-marketing ngày càng phát triển mạnh hơn so với các loại
hình khác.
Tuy nhiên, E-marketing vẫn có một số hạn chế. Thứ nhất, về phương diện kỹ thuật, E-
marketing đòi hỏi khách hàng phải sử dụng các kỹ thuật mới và không phải tất cả mọi
đối tượng khách hàng có thể sử dụng chúng. Đường truyền tốc độ chậm cũng là một tác
nhân gây khó khăn. Ngoài ra, nếu công ty xây dựng Website lớn và phức tạp để quảng bá
sản phẩm, nhiều khách hàng sẽ gặp khó khăn khi sử dụng Website cũng như tải thông tin
về với đường truyền chậm hay vào các thiết bị di động. Thứ hai, về phương diện bán
hàng, khách hàng không thể chạm, nếm, dùng thử hay cảm nhận sản phẩm trước khi mua
trực tuyến.
E-marketing đã và đang có ảnh hưởng rộng lớn với nhiều ngành công nghiệp như âm
nhạc, ngân hàng, thương mại, cũng như bản thân ngành công nghiệp quảng cáo. Trong
ngành công nghiệp âm nhạc, nhiều khách hàng mua và tải các bản nhạc qua Internet thay
vì mua CD. Ngày càng nhiều ngân hàng cung cấp các dịch vụ trực tuyến. Dịch vụ ngân
hàng trực tuyến được cho rằng sẽ hấp dẫn khách hàng hơn khi họ không phải đến các chi
nhánh ngân hàng để thực hiện. Hiện tại, hơn 150 triệu người Mỹ sử dụng dịch vụ ngân
hàng trực tuyến và tốc độ tăng trưởng ngày càng cao. Sự cải thiện tốc độ kết nối Internet
là nguyên nhân chính cho sự tăng trưởng này. 44% những cá nhân sử dụng Internet thực
hiện các giao dịch với ngân hàng qua Internet. Sự ảnh hưởng của E-marketing lên nền
công nghiệp quảng cáo ngày càng lớn. Chỉ trong vài năm, quảng cáo trực tuyến tăng
trưởng đều đặn đến hàng chục tỷ USD. Theo báo cáo của Pricewaterhouse Coopers, thị

trường E-marketing Mỹ trị giá tổng cộng 16,9 tỷ USD trong năm 2006.
Bản chất Marketing điện tử là gì?
Bản chất của marketing điện tử không khác so với marketing truyền thống, vẫn nhằm
thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, khách hàng trong thời đại công nghệ thông
tin sẽ có những đặc điểm khác với khách hàng truyền thống; họ có thói quen tiếp cận
thông tin khác với truyền thống, họ đánh giá các lựa chọn về hàng hóa dịch vụ dựa trên
các nguồn thông tin mới, hành động mua hàng khi thực hiện qua mạng cũng khác so với
truyền thống. Marketing điện tử vẫn bao gồm việc xác định nhu cầu đến lập các kế hoạch
marketing hỗn hợp đối với sản phẩn, dịch vụ, ý tưởng và tiến hành và kiểm tra để thực
hiện các mục đích của tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, phương thức tiến hành marketing
điện tử khác với marketing truyền thống: Marketing truyền thống cần rất nhiều các
phương tiện khác nhau như tạp chí, tờ rơi, thư từ, điện thoại, fax khiến cho sự phối hợp
giữa các bộ phận khó khăn hơn, tốn nhiều thời gian hơn; còn marketing điện tử thông qua
các mạng viễn thông, đặc biệt là internet, và các phương tiện điện tử có thể tiến hành tất
cả các hoạt động khác của marketing như: nghiên cứu thị trường, quảng cáo, thu thập ý
kiến phản hồi từ phía người tiêu dùng, mua sắm, sản xuất, bán hàng, dịch vụ sau bán
một cách nhanh chóng, hiệu quả với chi phí thấp.
Những điểm khác biệt so với marketing truyền
thống
Marketing điện tử khác với marketing truyền thống ở hai
điểm chính đó là: môi trường kinh doanh và phương tiện thực
hiện. Đối với môi trường kinh doanh,
marketing điện tử tập trung vào các hoạt động marketing
trong môi trường Internet và web. Đến nay marketing điện tử có thể mở rộng môi trường
ra các
mạng viến thông khác như mạng thông tin di động nhờ sự hội tụ của các mạng viễn
thông. Về phương tiện thực hiện: marketing điện tử sử dụng Internet và các thiết bị điện
tử như máy tính, PDA, điện thoại di động và các thiết bị điện tử khác. Marketing điện tử
khác biệt so với marketing truyền thống ở những điểm chủ yếu sau:
• Tốc độ giao dịch nhanh hơn, ví dụ quảng cáo qua email, phân phối các sản phẩm

số hóa như âm nhạc, game, phần mềm, e-books, hỗ trợ khách hàng qua các forum,
netmeeting
• Phạm vi hoạt động toàn cầu, các rào cản thâm nhập thị trường có thể bị hạ thấp,
khả năng tiếp cận thông tin thị trường của các doanh nghiệp và người tiêudùng
được nâng cao, ví dụ như các doanh nghiệp tại Việt Nam có thể tìm hiểu thị
trường Châu Âu, Mỹ, Nhật thông qua các website thông tin thị trường.
• Đa dạng hóa sản phẩm do khách hàng có thể tiếp cận nhiều sản phẩm, dịch vụ
hơn đồng thời nhà cung cấp cũng có khả năng cá biệt hóa (customize) sản phẩm
phù hợp với các nhu cầu khác nhau của khách hàng nhờ khả năng thu thập thông
tin về khách hàng qua internet dễ dàng hơn, ví dụ để mua máy tính, khách hàng có
thể tham khảo các sản phẩm của nhiều nhà sản xuất khác nhau thông qua website
của họ, so sánh giá cả, thông số kỹ thuật như www.vatgia.com
• Tăng cường quan hệ khách hàng nhờ khả năng tương tác, chia sẻ thông tin giữa
doanh nghiệp với khách hàng cao hơn, dịch vụ tốt hơn, thời gian hoạt động liên
tục 24/7 thông qua các dịch vụ trực tuyến, các website diễn đàn, FAQs…
• Tự động hóa các giao dịch thông qua các phần mềm thương mại điện tử
(shopping cart), doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng tốt hơn với chất lượng
dịch vụ ổn định hơn.
Hai mặt của E-Marketing
Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa cso thể tìm thấy cơ hội phát triển
bắt đầu từ việc đầu tư nghiêm túc cho marketing trực tuyến (E-Marketing). Giám đốc
công ty Công nghệ & Truyền thông (EQ) Trương Văn Quý chia sẻ kinh nghiệm.
- Lúc này khủng hoảng kinh tế đang lan rộng khắp toàn cầu, liệu Marketing trực tuyến
có phải giải pháp tốt cho doanh nghiệp?
Internet tạo ra một sân chơi công bằng cho các doanh nghiệp, mở ra nhiều cơ hội cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, kể cả các cá nhân kinh doanh. Khủng hoảng kinh tế làm thị
trường bị thu hẹp, do vậy chỉ có những doanh nghiệp nào thực sự có nội lực mới có thể
tồn tại và phát triển. Những doanh nghiệp chỉ có khó khăn về tài chính do khủng hoảng,
nhưng vẫn có sản phẩm tốt, và nhân lực giỏi thì có thể sử dụng các hình thức marketing
trực tuyến để giảm chi phí Marketing, qua đó có thể duy trì và mở rộng được thị phần.

Internet cũng sẽ nhanh chóng loại bỏ những sản phẩm kém chất lượng và có giá thành
quá cao ra khỏi thị trường.
E - marketing là một phương án Marketing với chi phí thấp, tuy nhiên, yếu tố khủng
hoảng không phải là yếu tố quyết định cho việc lựa chọn hình thức Marketing này. Việc
lựa chọn hình thức Marketing trực tuyến nên căn cứ vào: đối tượng khách hàng mục tiêu
(có phải là cư dân mạng hay không), ngành hàng (đối với ngành hàng của mình, bao
nhiêu bước trong quyết định mua hàng được thực hiện trên mạng) và sự sẵn sàng của đội
ngũ nhân viên. Mỗi ngành hàng có một chiến lược E - marketing khác nhau, cách làm
khác nhau. Nhà quản lý cần có những nhận thức cơ bản về E - marketing đối với ngành
hàng của mình và nhân viên cần có kỹ năng khai thác Internet nhất định.
- Tuy nhiên, có không ít người vẫn cho rằng, Marketing truyền thống có sức thuyết phục
hơn?
Đúng là với Marketing thông thường việc quảng bá trên các phương tiện truyền thông đại
chúng sẽ đưa thông điệp đến hầu hết mọi người, kể cả những đối tượng không tiềm năng
(mặc dù có phân khúc theo lứa tuổi, khu vực, hành vi, giờ giấc…). Nhưng, với thói quen
tìm kiếm thông tin trên Internet bằng các từ khóa, thông điệp quảng cáo của bạn có thể
đến thẳng với những người thực sự quan tâm nếu biết cách liên kết những từ khóa này
với nhu cầu của khách hàng. E - Marketing có thể dễ dàng lưu trữ thông tin khách hàng
tiềm năng, rồi sau đó có thể liên hệ, gửi thông tin trực tiếp đến đối tượng khách hàng này.
Những doanh nghiệp gặp khó
khăn về tài chính do khủng
hoảng có thể sử dụng E-
Marketing để giảm chi phí
Nói chung, E - Marketing có nhiều lợi thế như: Có thể bắt đầu với chi phí thấp, ngân sách
nào chúng ta cũng có thể bắt đầu được. Có khả năng tập trung cao vào một đối tượng
khách hàng mục tiêu nhất định. Phạm vi quảng cáo của E - Marketing cũng rộng hơn,
những người làm E - Marketing không phải lo ngại về khoảng cách và khu vực vì
Internet là một mạng toàn cầu.E - Marketing cho phép doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp với
khách hàng, thông tin đến khách hàng mà không phụ thuộc vào các hãng truyền thông
như cách PR thông thường.

E - Marketing cũng cho phép doanh nghiệp phản ứng nhanh hơn, cập nhật những thay đổi
một cách nhanh chóng trong vòng vài phút (không phải mất vài ngày để in lại brochure
hay mất nhiều thời gian và công sức để điều chỉnh một quảng cáo báo hay truyền hình).
Khả năng định lượng kết quả hoạt động E - Marketing cũng chính xác hơn và ít tốn chi
phí hơn. Chúng ta có thể biết chính xác bao nhiêu lần một banner quảng cáo xuất hiện,
bao nhiêu người đã nhấp chuột vào quảng cáo, bao nhiêu người viếng thăm trang Web
của mình, họ đến từ đâu, họ vào trang nào, họ ở lại bao lâu… Trong khi đối với các chiến
dịch marketing truyền thống thì việc đánh giá kết quả bằng khảo sát thị trường mất khá
nhiều chi phí và chứa đựng nhiều sai số…
Và điểm khác biệt quan trọng chính là khả năng tương tác với khách hàng của E -
Marketing. Khách hàng dễ dàng phản hồi các thông tin đến công ty thông qua các chức
năng trên website hoặc các diễn đàn, blog … Tương tác với khách hàng là cách tốt nhất
để hiểu về họ và đáp ứng được các mong đợi tiềm ẩn nơi khách hàng, một yếu cực kỳ tố
quan trọng của Marketing. Tuy nhiên, bản thân E - Marketing cũng có những hạn chế
nhất định của mình:
Thứ nhất, không phải tất cả khách hàng mục tiêu của bạn đều online hay thường xuyên
lướt Web. Thứ hai, mức độ tin cậy của thông tin trên mạng rất khác nhau, ai cũng có thể
cung cấp thông tin lên mạng, nên khả năng kiểm soát dư luận trên mạng là rất khó khăn,
các doanh nghiệp cần thực sự tỉnh táo và bản lĩnh để sử dụng yếu tố PR trên mạng. Thứ
ba, E - Marketing luôn gắn với yếu tố công nghệ thông tin, sự thay đổi nhanh chóng của
yếu tố này thường làm cho các công ty khó nắm bắt, kể cả những công ty cung cấp dịch
vụ quảng cáo…
Tại Việt Nam, các công ty quảng cáo và dịch vụ Marketing phần lớn vẫn chưa bắt kịp các
thay đổi về công nghệ, các công ty hoạt động về CNTT thì có rất ít kiến thức về nghiệp
vụ marketing, trong khi doanh nghiệp thì không hiểu rõ mình muốn gì với E - Marketing,
nên việc triển khai ứng dụng vẫn còn nhiều trở ngại.
- Thế nhưng, hạ tầng công nghệ thông tin của doanh nghiệp hiện không đồng đều, liệu
điều này có cản trở doanh nghiệp thực hiện E - Marketing?
Nếu hiểu đơn giản hạ tầng công nghệ thông tin là hệ thống trang thiết bị CNTT, đường
truyền Internet thì theo tôi, trong những năm qua, hạ tầng CNTT Việt Nam đã có những

phát triển đáng kể, chi phí phần cứng không quá cao, tốc độ đường truyền Internet liên
tục được cải thiện và cước phí Internet là chấp nhận được. Ở khía cạnh này, chúng ta
hoàn toàn đã sẵn sàng cho thương mại điện tử và E-marketing.
Tuy nhiên, nếu hiểu rộng ra, nền tảng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp phải bao
gồm cả phần cứng, phần mềm, dữ liệu và cả trình độ CNTT của con người thì thực chất,
nền tảng công nghệ thông tin này ở các doanh nghiệp Việt Nam là rất không đồng đều,
đây chính là yếu tố cản trở rất lớn đến việc ứng dụng Marketing trực tuyến nói riêng và
thương mại điện tử cũng như ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp nói chung.
Vì tốc độ phát triển ngành CNTT rất nhanh, nên các doanh nghiệp cần có nhận thức đầy
đủ và có chiến lược đúng đắn trong việc phát triển ứng dụng CNTT một cách đồng bộ.
Trong đó, yếu tố con người cần được lưu ý đặc biệt. Đào tạo kỹ năng CNTT cho tất cả
các nhân viên văn phòng (kể cả những cấp quản lý) một cách đồng đều là tiền đề cơ bản
cho việc ứng dụng CNTT hiệu quả và khai thác được những sức mạnh diệu kỳ của
Internet. Đây thực sự là một vấn đề khó đối với nhiều doanh nghiệp khi mà mặt bằng
kiến thức, khả năng học hỏi, tuổi tác chênh lệch… Tuy nhiên, nếu nhà lãnh đạo đã nhận
ra được vấn đề, thì chắc chắn mọi việc có thể thực hiện được. Dù ứng dụng CNTT không
mất nhiều chi phí, nhưng cần nhiều quyết tâm.
- Nếu để thuyết phục doanh nghiệp triển khai Marketing trực tuyến, ông sẽ bắt đầu từ
điều gì?
Đánh giá được sự phù hợp của E - Marketing với khách hàng của mình, ngành nghề của
mình, công ty của mình hay không là vấn đề đầu tiên mà doanh nghiệp phải quan tâm.
E - Marketing là một phần của Marketing, và cũng chỉ giải quyết được một số công việc
nhất định của Marketing. E - Marketing luôn luôn phải phối hợp với các phương án
Marketing thông thường. Đối với mỗi ngành nghề, chúng ta cần xác định rõ quá trình mà
khách hàng mua hàng hóa của mình: từ nhận biết nhãn hiệu, sản phẩm, hình thành nhu
cầu, tìm hiểu sản phẩm, tìm hiểu giá cả, so sánh, quyết định mua hàng, mua hàng, nhận
hàng, sử dụng, yêu cầu hỗ trợ, bảo hành…, trong quy trình đó, những bước nào có thể
thực hiện trên Internet, bước nào phải làm theo cách truyền thống… Phòng Marketing
cần được bổ sung kiến thức về E - Marketing thông qua đào tạo hoặc thuê tư vấn độc lập
trước khi đưa ra chiến lược Marketing cũng như thuê mướn các dịch vụ triển khai E -

Marketing.
Nhận thức đầy đủ để qua đó đưa ra chiến lược thích hợp và đặt mục tiêu E - Marketing
phù hợp là bước đi quan trọng nhất. Ở bước đi này, doanh nghiệp cần phải tự làm trước,
khi bạn biết rõ mình muốn gì, và E - Marketing có thể làm gì cho mình, tất cả những
chuyện còn lại là quá đơn giản. Tâm lý e ngại với công nghệ là trở ngại thường thấy ở các
doanh nghiệp trong bước đi này. Điều đó kéo theo hàng loạt các hoạt động E-marketing
kém hiệu quả về sau.
- Vậy thì, muốn đầu tư làm marketing trực tuyến, doanh nghiệp cần những gì, thưa ông?
Cần phải tiến hành các bước sau:
• Nhận thức của người quản lý Marketing, chủ doanh nghiệp: Xác định được vai trò
của Marketing trực tuyến đối với công ty, doanh nghiệp của mình.
• Chuẩn bị hạ tầng: máy tính, mạng Internet cho nhân viên.
• Cũng cố kiến thức, kỹ năng khai thác Internet cho bộ phận Marketing và các nhân
viên văn phòng khác.
• Xây dựng chiến lược, mục tiêu E - Marketing phù hợp (theo từng giai đoạn cụ
thể)
• Xây dựng thông tin, thông điệp Marketing rõ ràng, chi tiết để sử dụng làm nội
dung cho trang Web
• Xây dựng Website
• Hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo trực tuyến để triển khai các chiến
dịch E - Marketing…
• Cập nhật kiến thức và xu hướng E - Marketing thường xuyên cho bộ phận
Marketing để điều chỉnh chiến lược, kế hoạch E - Marketing kịp thời.
Có một điểm cần lưu ý trong các bước nói trên đó chính là việc xây dựng thông điệp
Marketing, xây dựng nội dung cho các Website. Vì không gian trên các trang Web là
không giới hạn, và người tiêu dùng càng ngày càng muốn hiểu rõ hơn sản phẩm mà họ
muốn mua, nên giờ đây mọi thứ cần phải được mô tả một cách chi tiết. Internet cũng
dùng văn viết để giao tiếp trong các mạng cộng đồng, các bản tin điện tử, nên phòng
Marketing cần được trang bị những người có khả năng viết lách, diễn đạt văn bản tốt và
có tư duy như biên tập viên.

Công nghệ thông tin nói chung và E - Marketing nói riêng sẽ vẫn luôn phát triển và mở
rộng trên toàn cầu. Chủ động đến với công nghệ thông tin, với E - Marketing để khai thác
sức mạnh của nó nhằm mở rộng thị trường, tăng hiệu quả kinh doanh hoặc bị động phản
ứng trước sức ép cạnh tranh thực sự từ Internet, chống đỡ với việc mất thị phần do các
đối thủ cạnh tranh đến từ Internet là sự chọn lựa của doanh nghiệp…
- Xin cảm ơn ông!
(Theo Doanh nhân)
Thực trạng TMĐT
Trong
những
năm qua,
Thương
mại điện
tử
(TMĐT)
đã dần
dần
khẳng
định được
vai trò
của mình
trong việc
trao đổi
thông tin,
giao dịch mua bán qua mạng. Vào Việt Nam từ kể từ năm 1998 đến nay, tốc độ phát triển
Internet tăng trưởng rất nhanh. Tính đến tháng 11 năm 2009 số người sử dụng internet đã
là 22.479.065 người, chiếm 26.2% dân số.
(Nguồn từ VNNIC)
Nắm bắt được tình hình đó, không ít các doanh nghiệp đã triển khai thành công hệ thống
TMĐT và đã khẳng định được tính hiệu quả của nó như: raovat.com, muaban.net…

Tuy nhiên, cũng như một số nước đang phát triển khác thì việc triển khai hệ thống TMĐT
ở Việt Nam gặp không ít các khó khăn nhất là về công nghệ, nguồn nhân lực đủ trình độ
và chuyên môn, nghiệp vụ cao. Mặt khác, với thói quen mua sắm của người Việt Nam
vẫn còn theo kiểu truyền thống - mua bán trực tiếp, vì vậy phần nào ngăn cản sự phát
triển của TMĐT.
Nhưng nhìn chung việc phát triển TMĐT là một xu thế tất yếu trong việc phát triển nền
kinh tế quốc gia trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa. Bằng chứng cho thấy, bằng nhiều đề
án tin học hóa địa phương của chính phủ đã xây dựng mạng lưới thông tin điện tử trên
toàn quốc nhằm nâng cao năng lực và giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm rà thông
qua TMĐT. Hiện nay, các đại gia trong lĩnh vực TMĐT của nước ngoài tham gia khai
thác tại Việt Nam như: site đấu giá lớn nhất thế giới Ebay, vua bán lẻ trên mạng
amazon.com… Điều đó chứng tỏ rằng Việt Nam là một thị trường rất tiềm năng trong
lĩnh vực này.
Hiện nay, doanh thu trong lĩnh vực TMĐT chiếm một tỷ số rất lớn và không ngừng tăng
lên qua các năm. Đặc biệt, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng Internet rất cao: 128,4%, cao
nhất trong khu vực khối ASEAN. Các hình thức thanh toán thông qua TMĐT ngày càng
cải thiện hơn, nhanh chóng và dễ dàng hơn, điều này giúp cho việc giao dịch trở nên dễ
dàng hơn, tăng lượng giao dịch ngày càng nhiều hơn.
Một số các Doanh nghiệp đã triển khai
thành công TMĐT ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam đã có rất nhiều doanh nghiệp đã triển khai thành công mô hình
thương mại điện tử như: www.chodientu.vn: ra đời từ những năm 2005 do công ty CP
Giải pháp Phần mềm Hòa Bình triển khai đến nay đã gặt hái được nhiều thành công. Hiện
là sàn giao dịch TMĐT hoàn toàn trực tuyến trên mạng Internet phục vụ gần 300.000
người tiêu dùng và hơn 2.000 doanh nghiệp giao thương, mua bán ổn định hàng ngày và
chiếm gần 25% thị trường điện tử người tiêu dùng với người tiêu dùng (C2C) và Doanh
nghiệp với Doanh nghiệp (B2B) tại Việt Nam.
Ngoài ra, chodientu.vn đã được tập đoàn eBay chọn là làm sàn giao dịch đại diện tại thị
trường Việt Nam và đã nhận được đầu tư từ Quỹ mạo hiểm IDG Việt Nam và tập đoàn
Softbank.

Website raovat.com hiện nay là một trong những trang web có lượng người truy cập lớn
nhất Việt Nam với khoảng 500.000 lượt/ngày. Được xây dựng bởi công ty CP Vật giá
Việt Nam vào những năm 2007 nhưng raovat.com đã dần khẳng định được vị thế của
mình cũng như đã có các chiến lược kinh doanh đúng đắn và trở thành một trong những
sàn giao dịch TMĐT hàng đầu tại việt Nam. Raovat.com có hơn 1.300 gian hàng trực
tuyến và mỗi ngày số lượng người tham giao giao dịch đều tăng lên đáng kể.
Hiện tại, có rất nhiều website hoạt động trong lĩnh vực TMĐT (khoảng hơn 100 website)
như: 123mua.com, chodansinh.net tuy nhiên, có hơn 97% các doanh nghiệp chưa tham
gia ứng dụng TMĐT vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây chính là một thị trường rất
tiềm năng cho TMĐT.
Tag: E-Commerce, thực trạng TMĐT, ứng dụng TMĐT
E-marketing: Đọc quảng cáo trực tuyến- Một phần tất yếu khi lướt
web
15:51, 10/04/2008 370 lượt xem
Website là môi trường mà ngành công nghiệp quảng cáo đang tìm cách khai thác triệt để hiệu quả của nó.
Nhiều chuyên gia nhận định, với sức mạnh của công nghệ, thị trường này sẽ còn tiếp tục tăng trưởng.
Chủ tịch Microsoft Bill Gates từng khuyến cáo các doanh nghiệp nên tìm một phương cách khác để đưa
những thông tin quảng bá thương mại tới người tiêu dùng.
Lý do mà Bill Gates đưa ra là sẽ đến lúc không thể tận dụng sự kiên trì của người xem truyền hình để xen
vào giữa các bộ phim vài đoạn quảng cáo. Mặc dù bản thân thừa nhận là chưa biết định dạng của các loại
hình quảng cáo trong tương lai, Gates cũng khẳng định công nghệ sẽ làm thay đổi lĩnh vực này.
Lập luận của nhà tư duy kỷ nguyên điện tử khiến nhiều người liên tưởng tới loại hình quảng cáo trực tuyến.
Dù mới xuất hiện, nhưng lợi thế về công nghệ hiện đại đã khiến việc truyền bá thông tin thương mại trên
Internet ngày càng phổ biến với hình thức rất đa dạng. Có nhiều lý do để người ta lựa chọn quảng cáo trên
mạng. Trước hết là ưu điểm không giới hạn về thời gian, địa lý và nhất là dung lượng. Internet là mạng
toàn cầu, vì thế mà những gì nó chuyển tải sẽ đến mọi hang cùng ngõ hẻm trên thế giới vào bất kỳ lúc nào.
So với các phương tiện thông tin đại chúng khác như báo giấy, đài phát thanh, truyền hình thì lượng
thông tin quảng cáo trên mạng là vô biên. Trong khi truyền hình giới hạn 30 giây/clip quảng cáo, hoặc với
báo giấy, nhiều nhất cũng chỉ chiếm chỗ được 1 trang với tần suất 1 lần xuất hiện/số thì website có thể
"tặng" bạn không gian chứa đựng thông tin bất tận theo ý muốn.

Ông Xuân Kiên, Giám đốc công ty tin học Trần Anh, nói với VnExpress: "Tôi chọn quảng cáo trên Internet
vì độc giả có thể tìm hiểu bất kỳ thông tin gì về chúng tôi. Từ sản phẩm, dịch vụ đến quá trình phát triển
công ty một cách chi tiết nhất".
Quảng cáo trực tuyến có khả năng đưa thông tin đến với khách hàng tiềm năng một cách nhanh chóng.
Theo ông Kiên, mặt hàng kinh doanh của Trần Anh là linh kiện máy tính nên việc đặt banner trên các
website là phù hợp nhất. "Những thông tin muốn quảng bá của chúng tôi sẽ được online 24/24. Nếu ai quan
tâm chỉ cần nhấn chuột. Trong trường hợp cần thay đổi, sửa chữa thông tin gì cũng rất đơn giản".
Không thể không nhắc đến một thế mạnh khác của quảng cáo trực tuyến là chi phí rẻ. Một doanh nghiệp dù
có tiềm lực kinh tế mạnh cũng rất ít khi kéo dài chương trình quảng bá thương hiệu trên báo giấy hoặc
truyền hình liên tục suốt một thời gian dài. Nhưng những hợp đồng quảng cáo trên mạng có thời hạn cả
năm hoặc hơn thì không phải là hiếm. Các công ty Ford Vietnam, Toyota Vietnam hay Vietnam Airlines là
những ví dụ điển hình. "Chúng tôi nhận thấy hiệu quả của việc quảng cáo trên mạng lớn gấp 5-7 lần so với
những hình thức khác trong khi chi phí lại thấp hơn nhiều nên thường ký hợp đồng dài hạn", ông Trương
Kim Phong, Trưởng phòng Maketing Ford Vietnam, nói.
Trên thế giới, sức mạnh trực tuyến đã khiến hình thức quảng cáo này phát triển với tốc độ chóng mặt
và đem lại những khoản thu khổng lồ. Quảng cáo dạng CPM (Cost per thousand impressions) bao gồm
Pop-up, Banner, Logo, Sponsorship chiếm 43% doanh thu, hình thức Performance như Pay-per-
click-through khoảng 37%. Dạng kết hợp của cả 2 thể loại trên chiếm 20%. Riêng ở Mỹ, dự kiến
doanh thu trong năm nay sẽ là 9,1 tỷ USD.
CPM là hình thức quảng cáo mà hiệu quả tính bằng số lượng người truy cập vào trang, khác với
Performance là tính theo số lần click chuột của độc giả. Tuy nhiên, nhờ công nghệ, các nhà thiết kế có
thể nghĩ ra nhiều "chiêu" để khiến độc giả phải "lướt" qua các thông tin quảng cáo. Chính vì lẽ đó mà
không phải ai cũng thích những hình thức quảng cáo trên mạng, thậm chí còn phản đối gay gắt. "Tôi rất
bực mình với những cái pop-up. Nó khiến tôi cảm thấy khó chịu và vướng víu mỗi khi truy cập Internet.
Làm như thế là phản cảm", Thu Hương, một nhân viên văn phòng, tỏ ra bức xúc.
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến trái ngược. Thanh Tùng, một admin, bày tỏ: "Nhiều người không hứng
thú với những thông tin quảng cáo trên mạng, nhưng họ không nhận thấy rằng chúng cũng góp phần làm
sinh động và tăng tính hấp dẫn của các website".
Minh Thành, sinh viên ngành công nghệ thông tin, cũng đồng quan điểm: "Tôi thấy có nhiều cái banner rất
đẹp và ngộ nghĩnh. Tôi chẳng phản đối quảng cáo gì cả vì nếu không thích xem tôi chỉ việc tắt nó đi. Còn

khi cần thông tin gì, click chuột là có ngay".
Mặc dù vậy, lĩnh vực quảng cáo trên Internet tại VN vẫn chưa thực sự phát triển dù đã có những bước tiến
dài. Dưới con mắt của một doanh nhân, ông Phong quả quyết: "Nguyên nhân khiến quảng cáo trực tuyến
VN còn chưa 'bằng chị bằng em' là do chúng ta chưa phát triển thương mại điện tử. Khi giao thương qua
mạng được thông suốt thì chắc chắn lĩnh vực này sẽ được nâng lên tầm tương xứng".
Ông Lương Công Hiếu, Trưởng phòng quảng cáo và phát triển, công ty Truyền thông FPT, nhận định:
"Ngành quảng cáo trực tuyến trong nước sẽ tiếp tục phát triển nhưng chưa thể bùng nổ hoặc nhanh chóng
chiếm thị phần so với các loại hình truyền thông khác như báo giấy, truyền hình Phổ biến nhất ở VN hiện
nay vẫn là hình thức CPM".
www.tiepthiquangcaocuaban.vn- Bùi Vũ Thái Ân
( theo VDC )

5 đặc trưng của quảng cáo trực tuyến Việt Nam
04:10, 11/09/2009 251 lượt xem
Vì hiện tại ngành quảng cáo trực tuyến còn khá non trẻ, nên không có gì đáng ngạc
nhiên khi số liệu của Hiệp hội quảng cáo Việt Nam (VAA) cho thấy trên 80% thị
phần quảng cáo trong nước thuộc về các đài truyền hình, sau đó là quảng cáo trên
ấn phẩm báo chí. Thị phần QCTT chỉ chiếm hơn 1% tổng thị trường quảng cáo.
Triển vọng ngành quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam khá lạc quan. Theo số liệu của
Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), hiện có xấp xỉ 19 triệu người, chiếm 22,47% dân
số VN thường xuyên tiếp cận với lnternet.
Còn theo ước tính của các chuyên gia về QCTT, doanh thu của thị trường QCTT ở Việt
Nam vào năm 2009 khoảng 160 tỉ VND.
1. Cách thức chính vẫn là quảng cáo bằng Banner
Quảng cáo và sáng tạo tại các website Việt Nam không khác biệt mấy với các website
Châu Âu, nhưng các website Việt Nam sử dụng text và banner là chính, với một chút cải
tiến về cách thức (không có nhiều dạng quản cáo “dynamic rich media” [DRM] hoặc các
quảng cáo về video).
DRM, hay các quảng cáo rich media là khái niệm bạn sử dụng những công nghệ có tính
chất giàu thông tin như có hình ảnh, thông tin, âm thanh, film để làm quảng cáo. Ở Việt

Nam phổ biến nhất là dùng Flash, với các chuyển động mượt mà và sống động. Tuy
nhiên, nó còn thấp hơn tầm Rich Media ở chỗ, bạn có rất ít tương tác. Bạn có thể xem các
quảng cáo trên MSN, hoặc Yahoo, bạn có thể bấm vào, xem nó thay đổi, hoặc nó có thể
tự thay đổi mà không cần phải có bàn tay người quảng cáo đụng vào.
2. Các banner trượt
Các banner quảng cáo ở Việt Nam thường sử dụng các frames để giữ các banner luôn
nằm ở tầm mắt người đọc. Khi người đọc cuộc xuống, vị trí các quảng cáo này trong tầm
mắt người đọc. Nhìn chung, bạn sẽ không thấy chúng trong các website phương Tây,
nhưng lại rất phổ biến ở Việt Nam.Một ví dụ là là các banner trượt, khi bạn cuộn trang,
thường nằm ở hai bên trái và phải của nội dung, có thể nhìn thấy ở nhacso.net,
24h.com.vn, hoặc ngoisao.net
3. Ngôn ngữ
Tiếng Việt là một yêu cầu bắt buộc trong thị trường này. Bạn cũng cần tìm hiểu xu
hướng, sắc thái về màu sắc, hình thức và các yếu tố về văn hóa bao gồm ngôn ngữ- cần
được nghiên cứu cẩn thận trước khi có bất kỳ hành động xâm nhập thị trường.
Về thuộc tính bản địa ở đâu cũng có đặc trưng riêng, ở Hàn Quốc với băng thông rộng
ứng dụng nhiều quảng cáo hình ảnh, rich media. Google Hàn Quốc cũng phải bản địa hóa
với nhiều màu sắc hơn, tươi trẻ hơn. Còn tại Trung Quốc, cũng có các yếu tố màu sắc, sở
thích đặc trưng. QQ, Baidu đã khai thác thế mạnh bản địa của mình để Google, Yahoo
cũng phải méo mặt tại thị trường này.
Google đã phải chấp nhận một số yêu sách từ chính phủ Trung Quốc để được cạnh tranh
tốt hơn với các ứng dụng tìm kiếm Trung Quốc (nhất là Baidu) , cho thấy sức mạnh bản
địa khủng khiếp tới mức nào. Bạn muốn quảng cáo, muốn người khác vào xem hay mua
hàng, bạn cần phải hiểu họ nhiều hơn.
4. Google Adsense
Với quảng cáo bằng đại lý phân phối quảng cáo, Google Adsense phổ biến nhất tại Việt
Nam. Bạn có thể là đại lý đặt quảng cáo cho các công ty hosting, stockphoto, hay tương
tự như thế. Họ sẽ trả cho bạn mỗi khi có người dùng bấm vào (gọi là “pay-per-click”).
Google AdSense rất phổ biết trên nhiều website. Nhưng hiện tại nó không hoàn toàn thấu
hiểu khách hàng. Một phần là rào cản ngôn ngữ, một phần là người dùng Việt Nam chịu

nhiều thiệt thòi. Google hiện tại không hỗ trợ website Tiếng Việt đặt quảng cáo, trong khi
có nhiều công ty Việt Nam đăng ký quảng cáo của Google. Và bạn cũng chỉ có thể nhận
tiền bằng check, các hỗ trợ từ Google gần như không có. Google Adsense hoặc các công
ty khác như Overtune (cty phụ trách quảng cáo trực tuyến của Yahoo) nên làm mọi thứ
dễ dàng hơn với người Việt Nam.
5. Dị ứng quảng cáo
Khi những banner dày đặc trên các website, mà vnexpress, dantri.com là một ví dụ, thì
quảng cáo không còn hiệu quả nữa. Người dùng dị ứng với cột thứ ba, và website có ba
cột quen thuộc.
Một nhà quản lý chiến dịch quảng cáo làm việc toàn thời gian tại thị trường Việt nam đã
nói “đó là một người phụ nữ tệ hại, các kênh quảng cáo còn rất mới mẻ tại Việt Nam.
Người ta nhầm lẫn khi làm mọi thứ đơn giản nhất có thể, như đặt các liên kết mà không
cần tracking code. Đa số các đơn vị cho đặt quảng cáo chỉ theo học các khóa ngắn hạn
mang tính đối phó. ”
Tracking code là cách để kiểm tra xem các banner hay quản cáo hoạt động thế nào trong
mỗi chiến dịch quảng cáo, chẳng hạn có bao nhiêu người bấm, họ đến từ banner nào, từ
website nào.
Công ty Nielsen vào ngày 15 Tháng Ba vừa qua đã báo cáo số liệu Tháng Hai của top các nhà
cung cấp công cụ tìm kiếm tại Mỹ.
Số lượt tìm kiếm đại diện cho tổng số lệnh hỏi được đặt ra cho nhà cung cấp. Chẳng hạn: ước
lượng có 6 tỷ lệnh tìm kiếm được đặt ra cho Google Search, tương ứng với 65.2% tổng số lệnh
tìm kiếm được đặt ra suốt giai đoạn được đem ra khảo sát.
Lưu ý: số liệu của MegaView Search bao gồm cả tổng số lượt tìm kiếm, người truy tìm đơn nhất,
thị phần tìm kiếm và những con số tìm kiếm khác – không có cùng xu hướng với kết quả tìm
kiếm ưu tiên ở Tháng Mười năm 2009 do sự thay đổi trong phương pháp nghiên cứu hiện nay.




(Kim Anh – Sưu tầm và lược dịch từ Nielsen Wire)

Tag: Thông tin nghiên cứu, Nielsen, công cụ tìm kiếm
E-marketing là gì?
Tiếp thị điện tử (e-marketing) là cách thức tiếp thị vận dụng
các tính năng của Internet nhằm mục đích cuối cùng là phân
phối được sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ đến thị trường tiêu
thụ.
Các quy tắc cơ bản của tiếp thị điện tử cũng giống như tiếp thị
trong môi trường kinh doanh truyền thống. Hoạt động tiếp thị
vẫn theo trình tự Sản phẩm - Giá thành - Xúc tiến thương mại -
Thị trường tiêu thụ.
Tuy nhiên, tiếp thị điện tử gặp khó khăn ở vấn đề cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin của thị trường mục tiêu (số lượng người
sử dụng internet, mức độ sử dụng, tốc độ truy cập mạng, ).
Nếu cơ sở hạ tầng còn yếu kém thì người tiêu thụ không có
nhiều cơ hội tiếp cận với mạng Internet, tìm thông tin trên Net,
mua hàng trực tuyến, tham gia đấu giá trên mạng, Như vậy,
e-marketing khó có thể có ảnh hưởng đến người tiêu dùng ở thị
trường đó.
Phân biệt e-marketing, e-commerce và e-business
E-marketing là cách thức dùng các phương tiện điện tử để
giới thiệu, mời chào, cung cấp thông tin về sản phẩm hàng hóa
hoặc dịch vụ của nhà sản xuất đến người tiêu dùng và thuyết
phục họ chọn nó.
E-commerce chỉ các hoạt động mua bán thông qua các
phương tiện điện tử.
E-business chỉ tất cả những hoạt động kiếm tiền từ mạng, từ
việc bán hàng hoá, dịch vụ cho đến tư vấn, đầu tư.
Các hình thức của e-marketing
- E-mail marketing : e-mail là cách tốt nhất để giao dịch với
khách hàng. Chi phí thấp và không mang tính xâm nhập đột

ngột như tiếp thị qua điện thoại. Doanh nghiệp có thể gởi
thông điệp của mình đến mười ngàn người khác nhau, ở bất kỳ
nơi đâu, trong thời gian nhanh nhất. Tuy nhiên, để không quấy
rầy khách hàng như các spam, e-mail marketing nên xác nhận
yêu cầu được cung cấp thông tin hoặc sự chấp thuận của khách
hàng. Nếu không, các thông điệp e-mail được gởi đến sẽ bị cho
vào thùng rác. Để tránh điều này, mọi thông tin do doanh
nghiệp gởi đi phải mới mẻ, hấp dẫn và có ích đối với khách
hàng.
- Website marketing : giới thiệu các sản phẩm trực tuyến. Các
thông tin về sản phẩm ( hình ảnh, chất lượng, các tính năng,
giá cả, ) được hiển thị 24, 365, sẵn sàng phục vụ người tiêu
dùng. Khách hàng có thể đặt hàng các sản phẩm, dịch vụ, và
thanh toán trực tiếp trên mạng. Để thu hút sự chú ý và tạo dựng
lòng trung thành nơi người tiêu dùng, doanh nghiệp phải đáp
ứng đúng nhu cầu, thị hiếu của thị trường. Ví dụ, áp dụng
chương trình khuyến mãi miễn phí địa chỉ e-mail, hộp thư,
server, dung lượng hoặc không gian web. Mặt khác, website
của doanh nghiệp phải có giao diện lôi cuốn, dễ sử dụng, dễ
tìm thấy trong các site tìm kiếm. Doanh nghiệp cũng nên chú ý
đến yếu tố an toàn, độ tin cậy và tiện dụng. Hoạt động mua bán
phải rõ ràng, dễ dàng, , kiểm tra dễ dàng số lượng hàng hóa
mua được, sử dụng thẻ điện tử để thanh toán. Hỏi đáp trực
tuyến cũng được đánh giá cao trong một website tiếp thị.
E-marketing ở Việt Nam
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa cao, thiếu vốn, ngành ngân hàng
kém phát triển, hệ thống pháp luật chưa đủ, lượng người dùng
Internet còn thấp - đó là những nguyên do chính khiến e-
marketing vẫn còn đang trong giai đoạn khởi đầu tại Việt Nam.
Mặt khác, phần lớn người tiêu dùng Việt Nam chưa có điều

kiện tiếp cận thông tin và công nghệ mới.Thu nhập bình quân
đầu người còn thấp nên sức mua chưa cao.
Tuy nhiên, những năm gần đây, số lượng máy tính sử dụng
cũng như số người truy nhập Internet tăng lên đáng kể, càng
ngày càng có nhiều doanh nghiệp có website riêng để quảng bá
cho đơn vị, sản phẩm, dịch vụ của mình. E-marketing đang
từng bước được khai thác, áp dụng trong môi trường kinh
doanh ở Việt Nam.
Một số lợi ích của marketing trực tuyến:
* Rút ngắn khoảng cách: Vị trí địa lý không còn là một vấn
đề quan trọng. Internet đã rút ngắn khoảng cách, các đối
tác có thể gặp nhau qua không gian máy tính mà không
cần biết đối tác ở gần hay ở xa. Điều này cho phép nhiều
người mua và bán bỏ qua những khâu trung gian truyền
thống.
* Tiếp thị toàn cầu: Internet là một phương tiện hữu hiệu
để các nhà hoạt động marketing tiếp cận với các thị trường
khách hàng trên toàn thế giới. Điều mà các phương tiện
marketing thông thường khác hầu như khong thể.
* Giảm thời gian: Thời gian không còn là một yếu tố quan
trọng. Những người làm marketing trực tuyến có thể truy
cập lấy thông tin cũng như giao dịch với khách hàng 24/7.
* Giảm chi phí: Chi phí sẽ không còn là gánh nặng. Chỉ với
1/10 chi phí thông thường, Marketing trực tuyến có thể
đem lại hiệu quả gấp đôi.
Các phương tiện Marketing trực tuyến:
Các phương tiện marketing trực tuyến bao gồm nhiều
phương thức khác nhau mà các công ty có thể sử dụng để
giới thiệu về sản phẩm đến các doanh nghiệp và cá nhân
tiêu dùng. Tuy nhiên, việc ứng dụng các phương tiện

marketing trực tuyến thường khác so với việc sử dụng các
phương tiện truyền thống.
Một số phương thức thông dụng trong marketing trực tuyến
hiện nay:
* Quảng cáo trực tuyến: Trong phương thức này, các công ty
mua không gian quảng cáo trên trang web được sở hữu bởi các
công ty khác. Có sự khác biệt giữa quảng cáo trực tuyến và
việc đưa nội dung lên trang web của mình, rất nhiều công ty đã
nhầm lẫn giữa hai công việc này và nghĩ rằng trang web của
mình chính là một quảng cáo trực tuyến. Quảng cáo trực tuyến
có ý nghĩa rất đặc biệt trong hoạt động marketing: Khi một
công ty trả tiền cho một khoảng không nhất định nào đó, họ cố
gắng thu hút được người sử dụng và giới thiệu về sản phẩm và
những chương trình khuyến mại của họ. Có nhiều nhiều cách
để tiến hành quảng cáo trực tuyến. Ví dụ, các công ty có thể
mua quảng cáo được đặt trong thư điện tử được gửi bởi những
công ty khác. Hoặc đặt những banner quảng cáo trong các bản
tin được gửi đi từ các website.
* Catalogue điện tử: Một trong những thay đổi so với
marketing truyền thống là khả năng của các công ty để đưa
mẫu sản phẩm lên mạng. Đó là tất cả các sản phẩm cho phép
khách hàng nhìn thấy, tìm kiếm thông tin về tính năng sử dụng,
chất liệu, kích thước Thêm vào đó, những phiếu thưởng trực
tuyến và những chương trình xúc tiến bán hàng khác sẽ tiết
kiệm được chi phí cho các nhà marketing trực tuyến khi giới
thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng.
* Phương thức thư điện tử: Có ba loại marketing bằng thư điện
tử. Loại thứ nhất liên quan đến thư điện tử được gửi đi từ công
ty đến người sử dụng nhằm mục đích quảng bá sản phẩm -
dịch vụ, thúc đẩy khả năng mua hàng.

Dạng thứ hai của email là các kênh ngược lại; từ người sử
dụng đến công ty. Người sử dụng mong muốn nhận được một
sự gợi ý và những câu trả lời đầy đủ cho những đòi hỏi của họ.
Theo Amazon.com, chức năng này rất quan trọng để phát triển
quan hệ khách hàng và họ đã đưa một số nhân viên có tài năng
vào trong dịch vụ khách hàng.
Hình thức thứ ba là thư điện tử từ người tiêu dùng đến người
tiêu dùng. Thư tín điện tử từ người tiêu dùng đến người tiêu
dùng được sử dụng để hỗ trợ các công ty marketing.
* Chương trình đại lý (Afiliate programes): Chương trình
affiliate thực chất là một phương pháp xây dựng đại lý hay
hiệp hội bán hàng qua mạng dựa trên những thoả thuận hưởng
phần trăm hoa hồng. Bạn có thể xây dựng một hệ thống đại lý
bán hàng cho bạn thông qua phương pháp này. Ưu điểm của
phương pháp này là bạn chỉ phải trả tiền khi đã bán được hàng.
Ai cũng biết đến sự thành công của chương trình liên kết kiểu
đại lý ở Amazon.com, chính vì vậy mà các chương trình liên
kết được thiết kế để thúc đẩy khả năng truy cập có định hướng.
Thông thường các chương trình đại lý thanh toán tiền hoa hồng
dựa trên khả năng bán hàng hay đưa truy cập tới website. Phần
lớn các chương trình đại lý này đều thanh toán theo tỷ lệ phần
trăm doanh thu, một số thì tính theo số lượng cố định.
Các chương trình này có thể hoạt động trên quy mô tương đối
lớn. Theo như thông báo, Amazon.com đã phát triển trên
60.000 địa chỉ website đại lý. Mỗi một địa chỉ website đại lý
có thể được xem là một đại lý của website chủ. Khi khách hàng
truy cập vào website đại lý rồi nhấn vào đường liên kết để đến
với website chủ và mua hàng, website đại lý sẽ được hưởng
một tỷ lệ phần trăm doanh thu nhất định. Nhiều chương trình
đại lý lớn hiện nay còn cho phép triển khai các đại lý cấp dưới,

có nơi tới 10 cấp. Bản chất của chương trình này là, một
website làm đại lý cho website chủ, một người truy cập qua
website đại lý nhưng không mua hàng mà lại đăng ký làm đại
lý cho website chủ và trở thành một đại lý. Khi người này bán
được hàng cho website chủ và nhận tiền hoa hồng thì website
chủ cũng trả một khoản tỷ lệ phần trăm cho website đại lý ban
đầu. Phương pháp này gọi là triển khai đại lý thứ cấp, đôi lúc
còn được gọi là marketing đa cấp (Multi Levels Marketing -
MLM)
* Search Engines (công cụ tìm kiếm): Công cụ tìm kiếm là một
công cụ cơ bản dùng để tìm kiếm các địa chỉ trang web theo
những chủ đề xác định. Khi bạn đến một công cụ tìm kiếm và
gõ vào đó một từ khoá hay một câu về chủ đề bạn cần tìm
kiếm. Công cụ tìm kiếm đó sẽ liệt kê cho bạn một danh sách
các trang web thích hợp nhất với từ khoá mà bạn tìm kiếm. Xin
nhớ rằng các công cụ tìm kiếm khác nhau có những trình tự
khác nhau để sắp xếp các trang web theo mức độ tương thích
với từ khoá mà bạn tìm kiếm. Công cụ tìm kiếm được coi là sự
lựa chọn đầu tiên để truy nhập tin tức hay thông tin về một sản
phẩm và dịch vụ nào đó không chỉ đối với những người mới
truy cập vào mạng Internet mà ngay cả những nhà marketing
chuyên nghiệp.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×