Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội - Chương 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.51 KB, 42 trang )

Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…

Chương 2 Đánh giá
của các nhà đầu tư nước ngoài
về môi trường kinh doanh Hà Nội
Phạm Thị Huyền
10

Diễn đàn Phát triển Việt Nam và
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân


MỞ ĐẦU
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI) đã và đang
được xem xét là một trong những nguồn lực quan trọng đem đến một làn gió
mới, một động lực mới thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, đặc biệt tại các
nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, dòng vốn này không tự nhiên mà
có, nó phụ thuộc vào sức hấp dẫn của địa phương, thể hiện qua các yếu tố tự
nhiên như vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, khoáng sản cùng với cơ chế, chính
sách, con người và các vấn đề xã hội khác của địa phương đó. “Làm thế nào để
thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài” đã và đang được đặt ra như một
vấn đề lớn với không chỉ các bộ ngành mà còn là dấu hỏi lớn cho từng địa
phương ở Việt Nam. Hà Nội, với vị thế là Thủ đô - trung tâm văn hóa - kinh tế
và cũng là một trong những điểm nhấn chủ yếu của dòng FDI vào Việt Nam
trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, dòng vốn này vẫn “chưa xứng tầm” của
Hà Nội.
Dưới góc nhìn marketing, chúng tôi cho rằng, mỗi nhà đầu tư/quốc gia và vùng
lãnh thổ sẽ có nguồn lực nhất định và do đó, họ có mục tiêu và định hướng riêng

10
Nghiên cứu được thực hiện vào nửa cuối năm 2005 trong Chương trình Hỗ trợ Hà Nội


xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô. Xin trân trọng cảm ơn GS. Kenichi Ohno, giám
đốc dự án VDF, TS. Phạm Hồng Chương cùng các đồng nghiệp, đại diện Đại sứ quán Úc,
ĐSQ Luxembourg, ĐSQ Hoa Kỳ, Kotra, JETRO, Trung tâm văn hoá và kinh tế Đài Bắc
và các doanh nghiệp FDI đã giúp tôi hoàn thành nghiên cứu này.

23
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

khi tìm kiếm cơ hội đầu tư ở một địa phương khác. Để đưa các nhà đầu tư đến
với địa phương, cần thiết phải khám phá nhu cầu, mong muốn cũng như thế
mạnh và mục tiêu của họ. Đồng thời, tìm hiểu đánh giá của họ về Hà Nội cần
được xem là cơ sở xây dựng chính sách thu hút và quản lý dòng vốn này để vừa
khai thác được những lợi ích nhưng vẫn hướng tới một môi trường phát triển bền
vững với một xã hội tốt đẹp hơn. Nghiên cứu này tổng hợp việc thực hiện chính
sách thu hút FDI trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu và cạnh tranh với các tỉnh
thành khác, đồng thời so sánh đánh giá của các nhà đầu tư từ các quốc gia khác
nhau về môi trường đầu tư Hà Nội
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chương này cấu thành bởi các nội dung chính
sau: Phần đầu tiên trình bày một số khái niệm tổng quan về marketing địa
phương và ảnh hưởng của nó tới dòng vốn FDI. Phần thứ hai mô tả dòng vốn
FDI vào Việt Nam cũng như vào Hà Nội trong thời gian qua. Phần thứ ba trình
bày đánh giá chung về môi trường đầu tư Hà Nội của các nhà nghiên cứu, của
lãnh đạo thành phố Hà Nội và của các nhà đầu tư tham gia vào chương trình
nghiên cứu này. Phần thứ tư là kết quả nghiên cứu về chính sách marketing địa
phương của Hà Nội, so sánh giữa đánh giá của các nhà đầu tư từ các quốc gia
khác nhau về môi trường đầu tư Hà Nội. Cuối cùng, phần kết luận sẽ trình bày
đánh giá chung của VDF về các chương trình marketing của Hà Nội đồng thời đề
xuất một số gợi ý xây dựng chiến lược thu hút FDI hiệu quả hơn nữa cho Thủ đô.
1. Tổng quan về marketing địa phương
Khái niệm

Marketing là một khái niệm, một triết lý được chia sẻ bởi các doanh nhân, các
nhà nghiên cứu và các chính khách trên hầu khắp các quốc gia có nền kinh tế
phát triển. Nguyên lý cơ bản nhất của marketing chính là hiểu biết nhu cầu và
ước muốn của khách hàng và sử dụng phương pháp hiệu quả nhất để đáp ứng
chúng. Đóng góp của marketing với các tổ chức/doanh nghiệp chính là khả năng
đề xuất phương pháp sử dụng một cách hiệu quả nhất những nguồn lực hữu hạn
để thực hiện những mục tiêu chung đã xác định. Marketing hướng tới việc tạo ra
các giải pháp giúp khách hàng giải quyết những vấn đề mà họ gặp phải. Trong
24
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
marketing, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau qua giá trị lợi ích, qua giải
pháp chứ không phải qua sản phẩm cụ thể. Ngày nay, nguyên lý này đã trở thành
triết lý trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị hay xã hội.
Marketing đã thể hiện được vai trò của mình trong việc giúp cho các địa phương
thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, đặc biệt là vốn FDI nhằm phát triển kinh tế địa
phương.
Marketing địa phương là tập hợp các chương trình hoạt động được địa phương
thực hiện nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh và phát triển kinh tế
11
. Các chương
trình hoạt động đó bao gồm (i) Hoàn thiện toàn diện cách thức, thủ tục cũng như
nhận thức về vai trò và chức năng của các cơ quan chính quyền, (ii) Sử dụng một
cách có hiệu quả các công cụ khuyến khích tài chính, (iii) Tái cấu trúc tổ chức
theo cách có thể kiểm soát tốt hơn, qua đó xây dựng cho địa phương một hình
ảnh mới triển vọng hơn, hấp dẫn hơn. Những chương trình marketing nhằm tạo
cho địa phương những đặc tính khác biệt “nhân tạo” chứ không phải những yếu
tố tự nhiên như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên. Các chương trình marketing
hiệu quả sẽ giúp địa phương trở nên hấp dẫn hơn trong đánh giá của các nhóm
khách hàng mục tiêu nhà đầu tư, của các chính khách đủ tâm và tài, các du
khách có khả năng chi trả và những công dân được đào tạo chuyên môn. Nói

cách khác, marketing địa phương là hệ thống các chương trình hành động chủ
động nhằm thay đổi được tình trạng kinh tế xã hội của địa phương theo chiều
hướng tốt hơn.
Trong marketing địa phương, địa phương được xác định là một khu vực địa lý
được giới hạn bởi sự phân định địa giới hành chính hay địa hình tự nhiên. Địa
phương có thể là một xã, một huyện, một tỉnh, một vùng, một quốc gia hay một
khu vực. Mỗi địa phương có những đặc điểm cụ thể về văn hóa, lịch sử, truyền
thống được đặc trưng bởi hành vi dân cư sống ở đó. Điều hành địa phương là
một hệ thống chính quyền với các cơ chế lập pháp, hành pháp và tư pháp. Địa
phương muốn phát triển phải có các cơ quan, doanh nghiệp tạo ra của cải vật
chất và công ăn việc làm cho dân cư ở đó. Một địa phương có những thuộc tính
tâm lý, ảnh hưởng tới cách hành vi quan hệ giữa những người ở địa phương đó
với nhau và với những người ngoài địa phương.

11
Young Florida State University, USA,
25
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Marketing địa phương không phải là một khái niệm mới trên thế giới. Các quốc
gia phát triển đã tăng trưởng nhờ việc xây dựng được một chương trình
marketing hiệu quả, tạo dựng được bản sắc quốc gia trong cộng đồng thế giới
mở. Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu như ngày nay, mỗi địa phương cần
thực hiện một kế hoạch marketing mang tính chiến lược, tận dụng những tiến bộ
mà địa phương khác đã thực hiện nhằm phát triển một cách hiệu quả nhất.
Nguyên lý của marketing địa phương là sử dụng kết hợp các nguồn lực bên trong
và bên ngoài để tạo ra nhiều lợi ích hơn. Nguồn lực bên ngoài đến từ chính
những khách hàng mà địa phương muốn hướng tới. Do vậy, trước tiên, địa
phương phải xác định khách hàng mục tiêu; qua đó lựa chọn chiến lược định vị
phù hợp với điều kiện và khả năng của mình hướng tới khách hàng đã lựa chọn.

Chủ thể thực hiện marketing địa phương chính là những tác nhân tham gia vào
hoạt động marketing, bao gồm tất cả các tổ chức và cá nhân sống và làm việc tại
địa phương. Chính quyền địa phương sẽ là người khởi xướng, chịu trách nhiệm
quy hoạch và phát triển địa phương. Hệ thống quản lý công, các chính sách và
định hướng phát triển của chủ thể ảnh hưởng lớn tới nhận thức của khách hàng
về địa phương. Các tổ chức, doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân chịu trách
nhiệm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đảm bảo thỏa mãn nhu cầu xã hội nói
chung và khách hàng mục tiêu nói riêng. Thái độ phục vụ, chất lượng dịch vụ
ảnh hưởng trực tiếp tới mức độ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Cách sống,
làm việc và xử sự của cư dân địa phương ảnh hưởng không nhỏ tới hình ảnh của
địa phương. Đội ngũ ăn xin, trộm cắp vặt, nạn bán hàng rong hay thậm chí hành
vi xả rác bừa bãi cũng làm cho địa phương mất đi sức hấp dẫn với khách hàng.
Khách hàng của marketing địa phương chính là những đối tượng mà địa phương
muốn hướng tới. Có bốn loại khách hàng mà một địa phương có thể hướng tới:
(i) Du khách - những người đến với địa phương với mục tiêu tham quan, nghỉ
ngơi, khảo sát hoặc thăm thân, (ii) Người lao động và thân nhân của họ
12
-
những người góp phần tạo ra của cải vật chất và tạo nên phong cách của một địa
phương, (iii) Nhà đầu tư
13
- những người chủ trương tạo ra của cải vật chất tại
địa phương bằng việc sử dụng và kết hợp có hiệu quả nguồn lực, trí tuệ và công
nghệ của họ mang tới với nguồn lực của địa phương, và (iv) Thị trường xuất

12
Không thể chỉ thu hút người lao động bởi thuộc tính gia đình và xã hội của con người
13
Nhà đầu tư sẽ đi cùng với những người ủng hộ họ, gia đình và đối tác
26

Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
khẩu - những tổ chức và cá nhân ở địa phương khác có nhu cầu về những sản
phẩm mà địa phương có thể tạo ra. Mỗi loại khách hàng có thể lại bao gồm nhiều
nhóm nhỏ khác nhau với khả năng đem lại lợi ích cho địa phương là khác nhau.
Mỗi địa phương có thể lựa chọn cho mình một vài nhóm khách hàng để tiếp cận
và tăng cường khả năng thu nhận nguồn lực đó để tối đa hóa lợi ích cho địa
phương mình.
Sau khi lựa chọn khách hàng mục tiêu, vấn đề quan trọng mà địa phương cần
làm định hướng cho chiến lược marketing trên mỗi đoạn thị trường mục tiêu là
định vị bản sắc và hình ảnh địa phương. Định vị liên quan đến việc địa phương
muốn khách hàng nghĩ về địa phương mình như thế nào? Việc phân tích điểm
mạnh, điểm yếu là không thể thiếu để lựa chọn hình ảnh định vị cho phù hợp.
Chiến lược định vị sẽ quyết định các hoạt động mà địa phương thực hiện nhằm
thu hút khách hàng, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài.
Bản sắc và hình ảnh địa phương không tự nhiên mà có. Nó phụ thuộc vào kiến
trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng cùng con người và tổ chức ở địa phương đó.
Trong môi trường toàn cầu, các địa phương cần cải thiện và nâng cấp hệ thống
giáo dục, đào tạo cũng như nỗ lực xuất khẩu, huy động những nguồn lực cơ bản
của địa phương để có thể vượt qua được các trở ngại và khó khăn của toàn cầu
hóa. Trong thiên niên kỷ mới, sẽ có những địa phương thành công và phát triển
ngày một nhanh. Ngược lại, cũng sẽ có những địa phương không thành công và
phát triển chậm hơn. Tất nhiên, không thể phủ nhận một thực tế, những địa
phương đi sau cũng sẽ lại “rút kinh nghiệm” và cũng sẽ tham gia vào “guồng
máy phát triển của xã hội”.
Một số địa phương có thể giàu có hơn vì may mắn có được vị trí thuận lợi; có địa
phương giàu tiềm năng phát triển nhờ những nguồn lực sẵn có mà chưa cần có
một chiến lược marketing toàn diện. Tuy nhiên, các yếu tố môi trường thường
xuyên biến đổi, quy luật đào thải không bỏ qua bất cứ ai, bất kỳ sự vật, hiện
tượng hay địa phương nào. Thực tế cho thấy, các địa phương biết áp dụng những
nguyên tắc cơ bản của marketing trong xây dựng chiến lược phát triển của mình

27
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

luôn có cơ hội thành công cao hơn, cho dù nguồn lực tự nhiên vốn có không quá
nhiều
14
.
Marketing địa phương trong việc thu hút FDI
Vốn đầu tư từ bên ngoài luôn là một trong những nguồn lực quan trọng và cần
thiết để phát triển các điều kiện kinh tế địa phương. Chúng ta có thể chỉ ra một số
những ảnh hưởng tích cực của vốn đầu tư từ bên ngoài tới phát triển kinh tế xã
hội một địa phương:
- Là một nguồn lực quan trọng, tăng cường dòng tài chính thúc đẩy phát
triển kinh tế địa phương: Xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin và
các điều kiện căn bản khác cho phát triển kinh tế;
- Tiếp nhận công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản trị: Theo thời gian, những
công nghệ và kỹ năng này được chuyển giao dần cho các nhà quản lý và
dân cư địa phương;
- Tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, đảm bảo cuộc sống
cho nhiều người khác có liên quan;
- Giúp cho sản phẩm và nhân lực của địa phương tiếp cận với thị trường
quốc tế tốt hơn với khả năng cạnh tranh cao hơn.
Cũng giống như các chiến lược marketing khác, marketing địa phương nhằm thu
hút FDI là sự kết hợp của 4 công cụ marketing - mix 4Ps cơ bản: Sản phẩm –
Products; Giá cả - Price; Kênh phân phối - Place; và Truyền thông marketing –
Promotion. Tuy nhiên, yếu tố sản phẩm luôn được đặt lên hàng đầu.
Sản phẩm ở đây không được xem xét một cách đơn giản là các chính sách mà nó
cần được hiểu là môi trường đầu tư. Tất cả những gì mà nhà đầu tư nhận được từ
địa phương, cả những yếu tố khách quan (cứng) như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng,
tài nguyên thiên nhiên và những yếu tố chủ quan (mềm) như chính sách, cơ chế,

thái độ và trình độ nhân lực.
Khái niệm giá cả trong marketing địa phương rộng hơn khái niệm giá cả với các
sản phẩm thông thường. Giá cả là tất cả các loại chi phí liên quan đến quá trình

14
Kotler, Rein and Haider (1999a: 4), Marketing Place Europe, Prentice Hall
28
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
đầu tư mà nhà đầu tư phải bỏ ra để nhận được những sản phẩm mà địa phương
cung cấp cho họ. Nhà đầu tư quan tâm tới cả những chi phí chính thức và chi phí
không chính thức khi kinh doanh tại địa phương. Đôi khi những chi phí không
chính thức trở thành yếu tố cản trở quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư. Những
chi phí này phát sinh từ chính những “yếu tố sản phẩm” mà địa phương cung
cấp. Chính vì vậy, các nhà đầu tư thường đánh đồng yếu tố giá vào trong sản
phẩm. Giá cả trong marketing địa phương phụ thuộc phần lớn vào sản phẩm địa
phương cung cấp cho khách hàng.
Kênh phân phối ở đây không nên hiểu là địa điểm hay quyết định về việc phân
phối sản phẩm mà nó phản ánh việc nhà đầu tư có nhận được những giá trị lợi
ích mà địa phương cam kết cung cấp hay không. Rõ ràng, nếu kênh phân phối
không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả thì mọi nỗ lực marketing sẽ trở
nên vô nghĩa; sản phẩm không thể đến được với khách hàng. Tuy nhiên, kênh
phân phối với marketing địa phương lại phụ thuộc vào chủ thể của địa phương và
phụ thuộc cả vào nhà đầu tư nữa. Do đó, về mặt bản chất, nó lại thuộc về sản
phẩm. Nếu sản phẩm trong marketing địa phương được nhà đầu tư nhận định tốt
thì có nghĩa là kênh phân phối đã hoạt động hiệu quả.
Truyền thông nhằm thu hút FDI thể hiện ở phương thức mà địa phương thông tin
đến cho các nhà đầu tư mục tiêu về những gì địa phương đã và đang làm giúp họ
đạt được mục tiêu. Việc truyền thông phải làm sao để nhà đầu tư nhận thức chính
xác môi trường đầu tư của địa phương, rằng họ có thể nhận được gì khi đầu tư
vào địa phương và họ phải làm gì để nhận được lợi ích đó. Việc quảng bá qua

các báo, tạp chí quốc tế, qua mạng internet, qua văn học, qua khách du lịch, hay
tham gia hội thảo, triển lãm đầu tư là những công việc mà địa phương nên làm để
xúc tiến đầu tư. Bên cạnh đó, hành vi của các tổ chức, doanh nghiệp và cộng
đồng tạo nên hình ảnh của địa phương trong nhận thức của nhà đầu tư; nó cũng
cần được coi là một phương thức truyền thông trong marketing địa phương.
Trước kia, các địa phương thường tìm cách phát huy các nguồn lực tự nhiên
nhằm đạt được mục tiêu định lượng trong thu hút vốn FDI mà thiếu đi sự quan
tâm tới nhu cầu của nhà đầu tư. Ngày nay, với mục tiêu phát triển bền vững, các
29
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

quyết định marketing của địa phương xuất phát từ nhu cầu của chính nhà đầu

15
nhưng đồng thời, các địa phương cũng quan tâm nhiều hơn tới ảnh hưởng
liên vùng cũng như bảo vệ môi trường.
2. Tình hình dòng vốn FDI vào Việt Nam và Hà Nội
Xu hướng dòng vốn FDI trên thế giới
Theo Báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD, dòng vốn FDI trên toàn thế giới có
dấu hiệu phục hồi trong năm 2004 kể từ sau khi đạt mức 1.400 tỷ USD năm
2000
nhưng giảm liên tục ba năm sau đó. Năm 2003, tổng dòng FDI trên toàn cầu chỉ
đạt 653 tỷ USD. Năm 2004, theo tính toán của UNCTAD, FDI toàn cầu đạt mức
755 tỷ USD so với 633 tỷ USD năm 2003.
Châu Á vẫn là miền đất hấp dẫn nhất thế giới với các nhà đầu tư, hiện đang tiếp
nhận lượng vốn FDI nhiều nhất trong số các nước đang phát triển. Trong đó, các
nước giàu tài nguyên trở nên hấp dẫn và thu hút được nhiều FDI hơn. Trung
Quốc đứng đầu danh sách 10 nước tiếp nhận FDI nhiều nhất thế giới năm 2003,
tiếp đến là Hồng Kông, Singapore, Ấn Độ và Hàn Quốc. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện, hội nhập khu vực đã khuyến

khích đầu tư liên khu vực và thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia tham gia vào
khu vực này. FDI vào Đông Nam Á vẫn tăng nhanh cho dù khu vực này chịu ảnh
hưởng không nhỏ của dịch bệnh SARS. Dòng vốn FDI tập trung chủ yếu vào
một số ngành như dịch vụ, thiết bị điện và điện tử, phương tiện cơ giới.

15
Ai Len là quốc gia đã rất thành công trong việc thu hút FDI với tôn chỉ này. Lượng vốn
FDI của họ thu hút được tính trên đầu người ở đây là 100.000 USD/người. Để có được kết
quả như vậy, ủy ban đầu tư nước ngoài của họ đã ứng dụng một chiến lược marketing
khôn khéo. Họ tiếp cận một cách trực tiếp tới hơn 700 tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu
thế giới và bằng các câu hỏi “Ai Len phải làm gì để họ đến đầu tư?” Khi có câu trả lời, họ
về nước xem có thể được là đáp ứng ngay. Chính vì vậy, cho dù Ai Len không phải là
điểm đến đầu tiên các nhà đầu tư nghĩ tới nhưng lại là lựa chọn cuối cùng của rất nhiều
nhà đầu tư lớn. Năm 2005, Ai Len được đánh giá là quốc gia có khả năng cạnh tranh cao
nhất châu Âu, trên cả Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Sỹ và Luxembourg.
30
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
Dòng vốn FDI vào Việt nam trong những năm gần đây
Cùng với xu hướng dòng FDI đang chuyển dịch dần tới các quốc gia có chi phí
thấp, giàu tài nguyên thiên nhiên, dòng vốn FDI vào Việt nam cũng đang dần hồi
phục. Thực tế, trong gần 2 thập kỷ đổi mới, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam đã trải qua 3 giai đoạn
16
.
Biểu đồ 1: Dòng vốn đầu tư mới vào Việt nam qua các thời kỳ











Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2006
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Vốn đăng ký
(t

USD)
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000

2001
2002
2003
2004
2005
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
Số dự án
10
Lượng vốn đăng ký Vốn thực hiện Số dự án (hiển thị trên cột bên phải)
[
Giai đoạn thứ nhất, từ 1988 đến 1996 - thời kỳ mở đầu với mức đầu tư thấp nhưng
tăng liên tục. Trong 9 năm này, có 1.998 dự án với số vốn đăng ký đạt 30,395 tỷ
USD, chiếm 48,2% tổng vốn đăng ký cho đến nay. Bình quân mỗi năm FDI đạt
3.377,2 triệu USD.

16
Tất cả số liệu trong báo cáo này được thu thập từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
www.mpi.gov.vn
31
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội


Giai đoạn thứ hai từ năm 1997- 2002, số vốn đăng ký mới và bổ sung đã liên tục
sụt giảm. Trong 6 năm này, 2.695 dự án được cấp phép mới, với tổng vốn đăng
ký mới và bổ sung đạt 10.9 tỷ USD, bình quân đạt 1.8 tỷ USD mỗi năm.
Giai đoạn thứ ba tính từ năm 2003 đến nay, số vốn đăng ký mới và bổ sung đã
liên tục tăng lên; trong giai đoạn này đã có 1.920 dự án được cấp phép mới, với
tổng vốn đăng ký mới và bổ sung đạt 12.6 tỷ USD, bằng 41,3% so với 9 năm đầu
và cao hơn tổng vốn trong 6 năm từ 1997-2002, bình quân hàng năm đạt hơn 4 tỷ
USD, cao nhất trong 3 giai đoạn.
Có thể thấy rằng, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam nói chung hiện nay đang
tăng lên theo thời gian cả về số lượng các dự án lẫn tổng lượng vốn đầu tư. Tính
đến nay, Việt Nam đã thu hút được những dự án mới có quy mô vốn lớn, nhiều
dự án đang hoạt động xin tăng vốn. Trong đó, vốn đầu tư đăng ký tập trung chủ
yếu trong công nghiệp và dịch vụ.
Cho dù tốc độ tăng trưởng không giống nhau nhưng thực tế, lượng vốn đầu tư và
cả số lượng dự án đăng ký đầu tư vào Việt Nam đã và đang tăng lên. Tuy nhiên,
tỷ lệ vốn thực hiện tương đối thấp, chỉ đạt khoảng 49%. Việt Nam đã hấp dẫn
được một số nhà đầu tư quy mô lớn với tổng số vốn đăng ký cao như dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển CDMA của Luxembourg với số vốn đăng ký
lên đến 665 triệu USD. Hơn nữa, rất nhiều dự án xin tăng vốn đầu tư ở Việt
Nam, đặc biệt trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Bảng 1 cho thấy,
Tp.HCM là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với 1.834 dự án và lượng vốn
đăng ký lên tới 12,2 tỷ USD, tính đến thời điểm tháng 3/2006.
32
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
Bảng 1: Một số địa phương có lượng vốn FDI lớn nhất
tính đến 3/2006
Đơn vị tính: Triệu USD

Thành phố Số dự án Tổng vốn
đăng ký

Vốn chủ sở
hữu
Vốn thực hiện
1 Tp.HCM 1.834 12.208 5.856 6.058
2 Hà Nội 646 9.227 3.948 3.385
3 Đồng Nai 696 8.442 3.316 3.831
4 Bình Dương 1.055 4.933 2.057 1.855
5 BR-VT 120 2.892 1.031 1.250
6 Hải Phòng 185 2.010 840 1.228
7 Dầu khí ngoài khơi 27 1.891 1.384 4.556
8 Vĩnh Phúc 93 765 302 414
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2006
Bảng 2 sau đây liệt kê 9 nhà đầu tư lớn tại Việt Nam, trong đó, 5 quốc gia Đài
Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông có lượng vốn đăng ký lớn
nhất. Các nhà đầu tư từ Hoa Kỳ, Úc hay Luxembourg đang có xu hướng tăng lên
với lượng vốn đầu tư tập trung chủ yếu vào hai năm gần đây. Cùng với đó là sự
dịch chuyển dòng FDI từ Nhật tới Trung Quốc sang Việt Nam do xu hướng bài
xích hàng Nhật đã và đang tạo cơ hội cho Việt nam tiếp nhận dòng vốn FDI đầy
tiềm năng, cả về số lượng và chất lượng của các dự án đầu tư. Lượng vốn đầu tư
từ Luxembourg vào Việt Nam tăng nhanh trong 2 năm gần đây nhưng hầu hết
trong số đó là vốn trung chuyển từ các công ty mẹ đầu tư vào Luxembourg và
một phần dòng vốn đó được chuyển hướng đầu tư vào Việt Nam.
Theo nhận định của Trung tâm thông tin và dự báo quốc gia, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, UNCTAD, Ngân hàng Thế giới năm 2005, Việt Nam là một trong
mười nước châu Á có tiềm năng nhất trong thu hút FDI, trên Thái Lan một bậc.
Điều đó chứng tỏ, cộng đồng doanh nhân thế giới có đánh giá tốt về môi trường
kinh doanh ở Việt Nam. Khả năng thu hút FDI của Việt nam không chỉ dừng lại
33
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội


ở mức trên 2 tỷ USD như năm 2005, dù đã có cải thiện so với 2 năm trước. Tiềm
năng FDI vào Việt Nam là trên mức 5 tỷ USD/năm.
Bảng 2: Lượng vốn đầu tư từ một số nhà đầu tư lớn nhất tại
Việt Nam tính đến tháng 8 năm 2005
Đơn vị tính: triệu USD

Quốc tịch Số dự án
Tổng số vốn
đăng ký
Vốn chủ sở
hữu
Vốn thực
hiện
1 Đài Loan 1.422 7.769 3.364 2.830
2 Singapore 403 7.610 2.831 3.620
3 Nhật Bản 600 6.289 2.860 4.670
4 Hàn Quốc 1.064 5.338 2.307 2.590
5 Hồng Kông 360 3.728 1.576 1.986
6 Trung Quốc 357 739 409 183
7 Hoa Kỳ 265 1.456 750 746
8 Úc 115 664 297 342
9 Luxembourg 15 810 726 21
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2006
Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội
Vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội bắt đầu từ năm 1989 và đạt mức kỷ lục năm
1996, sau đó giảm dần đến năm 2000. Từ sau năm 2000, lượng vốn FDI vào Hà
Nội bắt đầu tăng chậm trở lại. Năm 2005 là năm khởi sắc nhất của Hà Nội trong
thu hút FDI với tổng số dự án đăng ký là 113, lượng vốn đăng ký mới xấp xỉ 1,2
tỷ USD. Số dự án đầu tư nước ngoài tại Hà Nội đến tháng 3/2006 đạt tới 634 với
tổng số vốn đăng ký đạt 9,32 tỷ USD. Năm 2005 là năm Hà Nội dẫn đầu cả nước

về thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bảng sau đây thể hiện tổng quan dòng vốn đầu
tư vào Hà Nội tính tới tháng 1/2006. Có tới 59% số vốn đăng ký vào các ngành
dịch vụ với các hoạt động cụ thể như phát triển hệ thống bưu chính viễn thông,
văn phòng, khách sạn, khu vui chơi, ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ công
nghiệp khác. Vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp chiếm 38.9%, tập trung chủ
yếu vào phát triển hạ tầng cơ sở, phát triển khu công nghiệp, sản xuất ô tô, xe
máy, các ngành công nghệ cao và may mặc. Dưới 3% là lượng vốn đầu tư vào
34
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
lĩnh vực nông lâm, tập trung vào sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến và nuôi
trồng thủy sản nước ngọt, cung ứng hạt giống lai cho sản xuất nông sản rau quả.
Bảng 3: Tổng quan về tình hình thu hút FDI trên địa bàn Hà Nội tính đến
tháng 3 năm 2006
Số dự án còn hiệu lực 646 dự án
Tổng vốn đầu tư đăng ký 9,3 tỷ USD
Vốn đầu tư thực hiện 3,3 tỷ USD
Quan hệ hợp tác với 42 quốc gia và vùng lãnh thổ
Tổng doanh thu 12 tỷ USD
Kim ngạch xuất khẩu 3.25 tỷ USD
Tạo việc làm cho 48,000 người
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, 2006
Những chỉ số FDI vào Hà Nội
Lượng vốn đầu tư vào Hà Nội tăng dần từ 1989 và đạt đỉnh cao năm 1996. Do
khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, FDI giảm đột ngột và tiếp tục giảm
dần cho tới năm 2000, tổng FDI mới đầu tư vào Hà Nội chỉ còn khoảng 100 ngàn
USD (bằng khoảng 4% so với năm 1996).
Biểu đồ 2: Tình hình thực hiện vốn FDI tại Hà Nội qua các năm








0
500
1000
1500
2000
2500
3000
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng vốn
đăng ký

(tỷ USD)
0
20
40
60
80
100
120
Tổng vốn đăng ký Vốn thực hiện Số dự án
Số
d

án
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2006
35
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Bảng 4 sau đây thể hiện tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội qua
các thời kỳ trong mối quan hệ với vốn FDI vào Việt Nam. Tỷ lệ số dự án đầu tư
vào Hà Nội đang có xu hướng giảm sút nhưng thay vào đó, tỷ trọng vốn đầu tư
lại tăng lên do các dự án đầu tư vào Hà Nội ngày càng lớn hơn, vào các lĩnh vực
đòi hỏi công nghệ cao hơn.
Bảng 4: Thu hút đầu tư nước ngoài của Hà Nội
so với cả nước qua các thời kỳ
Số dự án Vốn đăng ký (1000 USD)
Giai đoạn
Cả
nước

Nội

Tỷ
trọng
Cả nước Hà Nội
Tỷ
trọng
1988-1990 213 12 5,6% 1.793.000 343.258 19,1%
1991-1995 1.330 203 15,2% 16.683.000 3.332.045 20%
1996-2000 1.672 227 13,5% 20.623.000 4.672.000 22,6%
2001-2005 3.522 322 9% 10.629.000 2.964.000 27,8%
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, 2006
Luồng vốn FDI và hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Hà Nội đóng một vai
trò quan trong trong phát triển kinh tế địa phương cũng như có đôi chút tác động
tích cực tới phát triển kinh tế liên vùng
17
. Bảng 5 thể hiện đóng góp của bộ phận
FDI vào phát triển kinh tế địa phương.
Bảng 5: Đóng góp của khối FDI vào phát triển kinh tế Hà Nội
Hạng mục 1990-1995 1996-2000 2001-2005
Đầu tư xã hội 45% 26% 15%
Giải quyết việc làm 23% 15% 10%
Kim ngạch xuất khẩu 28% 46% 21%
Nộp ngân sách 12% 15% 10%
Giá trị sản xuất công nghiệp 30% 41% 34%
Đóng góp GDP 17% 23% 15%
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, 2006

17
Xin tham khảo thêm vấn đề này ở Chương 6 – TS. Lê Hà Thanh
36
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…

Tính đến tháng 3/2006, có 42 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Hà
Nội, đứng đầu là Singapore với tổng số vốn đăng ký là 2,530 tỷ USD trong 42 dự
án; tiếp đến là Nhật Bản, Hàn Quốc. Nhóm tiếp theo là Úc, Thái Lan, Hồng
Kông, Thụy Sĩ và Pháp. Đó là thứ tự tính theo số vốn đăng ký.
Tuy nhiên, nếu tính theo số dự án thì số dự án của Nhật Bản vào Hà Nội là nhiều
nhất. Sở dĩ số dự án của Nhật vào Hà Nội là rất nhiều nhưng số vốn không nhiều
như Singapore bởi vì có các dự án là liên doanh và vốn phía Nhật Bản chỉ chiếm
một phần. Bên cạnh đó, còn có một số nhà sản xuất nhỏ đi theo các nhà sản xuất
lớn cung cấp các linh phụ kiện nên số vốn đầu tư cũng không quá cao. Số vốn
trung bình cho một dự án của Trung Quốc là nhỏ nhất (chỉ khoảng 1,5 triệu
USD). Các nhà đầu tư mang quốc tịch Luxembourg có số vốn trung bình cho
một dự án là cao nhất với giá trị trung bình là 54 triệu USD.
3. Đánh giá về môi trường đầu tư Hà Nội của chuyên
gia và của chính quyền Hà Nội
Những đánh giá của giới nghiên cứu về môi trường đầu tư Hà Nội
Nói chung, Việt Nam được thế giới nhận định là một quốc gia có những tiến
bộ đáng kể trong cải thiện môi trường kinh doanh, là một trong 10 nước có
tốc độ cải cách nhanh nhất trong hoạt động kinh doanh năm 2005. Những cải
cách về luật pháp trong các lĩnh vực đăng ký kinh doanh, đăng ký tài sản,
bảo vệ các nhà đầu tư, cưỡng chế tuân thủ hợp đồng và phá sản doanh nghiệp
cùng những nỗ lực gia nhập WTO là động lực mạnh mẽ giúp hoàn thiện môi
trường pháp lý. Cùng với sự thay đổi trong cơ chế, và tiến trình cải cách
hành chính của cả nước, Hà Nội cũng đã có một số thay đổi nhằm tạo điều
kiện tốt hơn cho các nhà đầu tư. Do đó, cùng với sự tăng trưởng của dòng
FDI vào Việt Nam, vốn FDI vào Hà Nội cũng có phần khởi sắc.
Khi lựa chọn địa điểm đầu tư, các nhà đầu tư quan tâm tới rất nhiều các yếu tố
khác nhau. Trong nghiên cứu của VCCI trong chương trình đánh giá môi trường
cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam, có 9 chỉ số được các nhà nghiên cứu sử dụng,
đó là: (i) chi phí gia nhập thị trường, (ii) đất đai và mặt bằng kinh doanh, (iii)
37

Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

tính minh bạch và trách nhiệm, (iv) chi phí thời gian vào việc thực hiện các quy
định của nhà nước, (v) chi phí không chính thức, (vi) mức độ thực hiện chính
sách của nhà nước ở các địa phương, (vii) ưu đãi với doanh nghiệp nhà nước,
(viii) tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh, và (ix) chính sách phát
triển khu vực kinh tế tư nhân. Sở dĩ họ sử dụng những chỉ số đó là họ muốn so
sánh giữa các tỉnh và tập trung vào đánh giá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
mà thôi. Trong nghiên cứu đó, năm 2004, Hà Nội được xếp hạng khá, đạt thứ 14
trong số 42 tỉnh thành được xếp hạng với điểm số 60.32 trên tổng số 100 điểm.
Như vậy, Hà Nội còn đứng sau 13 tỉnh thành khác của Việt Nam, trong đó có
Bình Dương, Đà Nẵng, Vĩnh Long, Đồng Nai, Quảng Ninh… Tuy nhiên, Hà Nội
lại đứng trên Tp.HCM, BR-VT, Hải Phòng… Thế nhưng, cho đến năm 2005, chỉ
số năng lực cạnh tranh của Hà Nội giảm sút nghiêm trọng, tụt từ vị trí 14/42
xuống vị trí 40/64 tỉnh thành xếp hạng năm 2005 với 9/10 chỉ số chỉ đạt dưới
mức trung bình thấp. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu tập trung vào các doanh
nghiệp nhỏ và vừa nên nó không thể hiện đánh giá của các nhà đầu tư nước
ngoài.
TS. Vũ Minh Khương (MPDP) trong nghiên cứu nhằm so sánh khả năng cạnh
tranh của 3 tỉnh thành Hà Nội, Tp.HCM và Hải Phòng được thực hiện năm 2004
cũng sử dụng 9 chỉ tiêu để đánh giá khả năng cạnh tranh của các tỉnh. Với mục
đích cơ bản là nhằm xác định các chính sách và các điều kiện cơ bản dẫn tới sự
tăng trưởng kinh tế nhanh, nghiên cứu này đã nhận được sự hưởng ứng của 544
doanh nghiệp ở 3 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và Tp.HCM. Nghiên cứu
đó cho thấy, về mặt tổng thể, Hà Nội tuy có sức cạnh tranh cao hơn Hải Phòng
nhưng lại thua xa so với Tp.HCM. Hà Nội được đánh giá cao về chất lượng
nguồn nhân lực, tài chính, các chính sách vĩ mô và cơ sở hạ tầng. Ngược lại, Hà
Nội lại thua kém Tp.HCM về cạnh tranh nội bộ, các ngành công nghiệp phụ trợ,
tính mở, các thể chế và công nghệ. Tuy nhiên, do nghiên cứu này đề cập tới 3
tỉnh và chú trọng tới mọi doanh nghiệp; đó không phải là kết quả đánh giá của

các doanh nghiệp FDI.
Theo đánh giá của UNCTAD và UNDP, ngoài những yếu tố hấp dẫn về thị
trường, nhân lực, hạ tầng thì trong thời gian gần đây Hà Nội đã thu hút sự chú ý
của các doanh nghiệp nhờ sự cải tiến mạnh mẽ về thủ tục đầu tư, nhất là về đất
đai, kết nối hạ tầng với các tỉnh miền Bắc, sự cải thiện đáng kể của các ngành
38
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
công nghiệp và dịch vụ phụ trợ Điều đó có nghĩa là “sản phẩm” mà Hà Nội
cung cấp cho nhà đầu tư đã có những cải tiến tích cực.
Tính minh bạch và trách nhiệm của các cơ quan quản lý vĩ mô tại Hà Nội bị đánh
giá thấp. Ngoài ra, cùng với hiện trạng chung của Việt Nam, hệ thống ngân hàng
tại Hà Nội cũng chưa theo kịp với hệ thống tài chính quốc tế, tạo rào cản với các
doanh nghiệp kinh doanh tại Việt Nam; hệ thống thuế cũng chưa thực sự hòa
nhập với thế giới cùng với chính sách bảo hộ sản xuất trong nước nên nhiều nhà
đầu tư còn e ngại
18
.
Hà Nội vẫn chưa phát huy thế mạnh thành lực đẩy phát triển kinh tế, chưa liên
kết giữa nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với sản xuất kinh doanh
19
. Quy
hoạch tổng thể Thành phố Hà Nội còn hạn chế về chất lượng, bó hẹp trong địa
giới hành chính, chưa có phát triển liên vùng với các địa bàn lân cận với các mối
quan hệ kinh tế - xã hội, các đô thị vệ tinh nên chưa đáp ứng nhu cầu phát triển
trong vài thập kỷ tới. Ngoài ra, các cơ quan chính quyền của Hà Nội cũng chưa
có được sự phối hợp hài hòa, sự phân công trách nhiệm chưa rõ ràng làm nhiều
nhà đầu tư đau đầu trong việc giải quyết các vấn đề thủ tục hành chính. Bên cạnh
đó, các loại chi phí không chính thức tại Hà Nội được xem là tương đối cao, thủ
tục hành chính phức tạp, chi phí giao thông cũng như khả năng tiếp cận các
nguồn vốn chính thức chính là những vấn đề mà các nhà đầu tư ở Việt Nam nói

chung và Hà Nội nói riêng phải đối mặt. Đó chính là những lý do làm cho môi
trường kinh doanh ở Hà Nội vẫn chưa thực sự hấp dẫn với các nhà đầu tư
20
.
Môi trường đầu tư Hà Nội trong đánh giá của chính quyền địa phương
Các chính khách của Hà Nội trong khi gặp gỡ trao đổi với báo chí và các nhà đầu
tư luôn khẳng định: “Môi trường kinh doanh Hà Nội đang được xây dựng theo
hướng thông thoáng, hệ thống cơ chế cụ thể, sát thực và dễ hiểu, đáp ứng nhu
cầu của các nhà đầu tư. Có thể nói các nhà đầu tư vào đây có thể "đọc" được Hà

18
Thuế nhập khẩu ô tô là ví dụ điển hình. Sau khi điều chỉnh (có hiệu lực từ 1/5/2006),
bên cạnh thuế nhập khẩu tuyệt đối cố định, các loại xe nhập khẩu vẫn phải chịu mức thuế
tiêu thụ đặc biệt là 60% trong khi các sản phẩm xe sản xuất trong nước chỉ phải chịu thuế
40%.
19
Nhận xét của Thủ tướng Phan Văn Khải trong cuộc gặp với UBND TP năm 2004.
20
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, VCCI và VNCI thực hiện 2005
39
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Nội dành gì, làm gì cho mình và mình có thể tồn tại, phát triển hơn ở nơi này”.
Các sở, ngành hiện đang tập trung rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư, giảm
sự phiền nhiễu của các cơ quan công quyền. Hà Nội cũng chịu hết các chi phí
xây dựng những công trình "ngoài hàng rào" như điện, nước, đường xá. Bên
cạnh đó, Hà Nội còn hỗ trợ doanh nghiệp tuyển dụng và đào tạo lao động chất
lượng cao. Ngoài ra, những ứng xử hàng ngày liên quan đến nhà đầu tư như thuế
hay an ninh trật tự cũng được Hà Nội xem trọng, bởi có như vậy mới tạo được sự
an tâm cho nhà đầu tư khi quyết định làm ăn lâu dài

21
. Trong nhiều cuộc gặp,
trong khi rất nhiều các tỉnh thành lân cận “xé rào” để thu hút FDI, Hà Nội luôn
tự hào về việc tuân thủ pháp luật và những quy định của nhà nước trong thu hút
FDI - “như vậy, Hà Nội phải được công nhận là một địa phương kiểu mẫu”.
Trên trang web của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội có liệt kê 8 điểm mạnh chủ
yếu của Hà nội so với các địa phương khác như sau:
• Là Thủ đô của Việt Nam, trung tâm văn hóa và thương mại của cả nước
• Chính trị ổn định, đảm bảo một môi trường kinh doanh an toàn
• Nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản
• Tiềm năng thị trường lớn
• Cơ sở hạ tầng được nâng cấp hàng ngày
• Các chi phí dịch vụ xã hội, sở hữu bất động sản thấp hơn các địa phương
khác
• Có rất nhiều các khu công nghiệp
• Thủ tục hành chính thuận tiện, dễ dàng
Như vậy, có thể thấy, chính quyền Hà Nội còn tương đối lạc quan với tình hình
thu hút FDI và chưa thực sự thấy được vấn đề của mình trong thu hút FDI. Về
mặt bản chất, Hà Nội là một thị trường tiềm năng nhưng điều đó không có nghĩa
là nó đã, đang và sẽ còn rất hấp dẫn với các nhà đầu tư. Khoảng cách từ Hà Nội
đi các tỉnh lân cận đang ngày một gần theo nghĩa tương đối. Do đó, khi các địa
phương khác luôn trải thảm đỏ chào đón các nhà đầu tư thì Hà Nội khó có thể
ngồi yên mà vẫn tồn tại và phát triển.

21
Ông Nguyễn Thế Quang, Phó Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội
40
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
4. Môi trường đầu tư Hà Nội trong đánh giá của các
nhà đầu tư: Cách tiếp cận marketing

Theo lý thuyết marketing, để có thể làm marketing địa phương, cần đứng trên
góc nhìn của khách hàng (nhà đầu tư), với vai trò cung cấp sản phẩm (môi
trường đầu tư) của chính quyền địa phương. Phần này và phần tiếp theo sẽ
xem xét nhu cầu và đánh giá của các nhà đầu tư về các hoạt động marketing
của Hà Nội. Thông tin cho phần này có được từ cuộc nghiên cứu của VDF từ
tháng 9 tới tháng 12 năm 2005. VDF đã gửi bảng câu hỏi đến hơn 100 doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội và một số tỉnh thành lân cận.
Việc hướng tới các nhà đầu tư ở các địa phương khác nhằm nghiên cứu lý do
vì sao họ không chọn Hà Nội để đầu tư. Có 68 bảng câu hỏi được trả lời
trong đó có 55 doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và 13 doanh nghiệp từ các
địa phương khác
22
. Bên cạnh đó, các cuộc phỏng vấn sâu cũng được thực
hiện tới 7 doanh nghiệp Hà Nội và 2 doanh nghiệp ở Tp.HCM. Các doanh
nghiệp trong nghiên cứu này tới từ 9 quốc gia khác nhau. Phần này trình bày
cảm nhận của các nhà đầu tư về các công cụ marketing: Sản phẩm, Giá cả,
Kênh phân phối và Truyền thông marketing mà Hà Nội đã thực hiện nhằm
thu hút FDI.
Thông tin về việc lựa chọn địa điểm đầu tư
Có rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng tới việc lựa chọn địa điểm đầu tư. Theo
nghiên cứu của VDF, tiềm năng thị trường là yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất,
tiếp theo là gợi ý của đối tác, mức độ hấp dẫn của chính sách FDI và cơ sở hạ
tầng giao thông. Các nhà đầu tư còn quan tâm tới hệ thống ngân hàng và tài
chính, mức độ thực thi luật pháp, nguồn nhân lực và các ngành công nghiệp phụ
trợ. Yếu tố có ít ảnh hưởng nhất trong nghiên cứu này là gợi ý của Chính phủ
Việt Nam. Rõ ràng, cần tập trung vào những yếu tố mà các nhà đầu tư cho là
quan trọng thay vì cho họ thấy những yếu tố mà chính quyền nghĩ là quan trọng.
Với cách tiếp cận marketing, chính quyền cần hiểu rõ nhà đầu tư muốn gì và

22

Nghiên cứu thực hiện với sự tham gia của 10 doanh nghiệp Nhật Bản, 10 doanh nghiệp
Hàn Quốc, 8 doanh nghiệp Trung Quốc, 7 doanh nghiệp Singapore, 6 doanh nghiệp Hồng
Kông, 6 doanh nghiệp Hoa Kỳ và 4 doanh nghiệp Úc
41
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

đóng vai trò định hướng, chỉ dẫn để đáp ứng nghiên cứu của nhà đầu tư trên các
khía cạnh mà họ cho là quan trọng.
Bảng 6: Tầm quan trọng của các yếu tố khác nhau tới quyết định lựa chọn
địa điểm đầu tư
Các yếu tố Thấp
nhất
Cao
nhất
Điểm
TB
Độ lệch
chuẩn
Tiềm năng thị trường địa phương 3 5 4,18 0,65
Gợi ý của đối tác 3 5 3,99 0,76
Chính sách thu hút FDI của địa phương 3 5 3,96 0,63
Hệ thống giao thông 2 5 3,94 0,73
Hệ thống tài chính, ngân hàng 2 5 3,87 0,62
Mức độ thực thi luật pháp 3 5 3,87 0,64
Chất lượng và thái độ nguồn nhân lực 2 5 3,82 0,83
Hệ thống dịch vụ, công nghiệp phụ trợ 2 5 3,76 0,76
Mặt bằng và chi phí mặt bằng 2 5 3,68 0,82
Chi phí lao động 2 5 3,51 0,87
Mức độ tham nhũng 2 5 3,50 0,74
Mức độ cạnh tranh 2 5 3,46 0,78

Mức độ quan tâm tới môi trường 2 5 3,24 0,77
Gợi ý của chính phủ Việt Nam 1 4 2,66 0,73
Nguồn: Nghiên cứu của VDF, 2005
Chú ý: Tầm quan trọng của các yếu tố được yêu cầu đánh giá tăng dần từ 1 tới 5.
Điểm trung bình càng cao, yếu tố đó càng quan trọng
Lý do chủ yếu để các nhà đầu tư quan tâm tới thị trường Hà Nội chính là tiềm năng
thị trường. Hà Nội với số dân trên 3,5 triệu người và thu nhập bình quân trên 1.500
USD/người/năm là một thị trường đầy tiềm năng, rất hấp dẫn với các nhà đầu tư. Tuy
nhiên, vẫn tồn tại nhiều khó khăn như hết đất cho xây dựng công nghiệp, giá thuê đất
cao hay sự can thiệp sâu của Chính phủ. Như đã trình bày ở trên, các dự án đầu tư
vào Hà Nội chủ yếu tập trung vào dịch vụ và công nghiệp. Trong nghiên cứu của
VDF, 59% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, gần 35% hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ và chỉ có 6% đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh đó,
2 trong số 4 doanh nghiệp tham gia vào nghiên cứu này đang đầu tư trong lĩnh vực
42
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
nông nghiệp nhưng lại có xu hướng chuyển sang lĩnh vực khác. Bảng 7 thể hiện sự
chuyển dịch này.
Bảng 7: Ngành nghề kinh doanh hiện tại và dự định về ngành nghề của nhà
đầu tư tại Hà Nội
Ngành dự định sẽ kinh doanh


Nông nghiệp Công nghiệpDịch vụ
Tổng
Nông nghiệp
2 2 - 4 (6,1%)
Công nghiệp
- 33 6 39 (59,1%)
Ngành

hiện tại
Dịch vụ
- 3 20 23 (34,8%)
Tổng
2 (3,0%) 38 (57,6%) 26 (39,4%)
Nguồn: Nghiên cứu của VDF, 2005.
Tổng số là 66 bởi có 2 doanh nghiệp không trả lời câu hỏi này.
Sản phẩm - môi trường đầu tư Hà Nội
Hầu hết tất cả các nhà đầu tư đều cho rằng, điểm mạnh nhất của môi trường
đầu tư Hà Nội cũng như của Việt Nam nói chung chính là môi trường chính
trị ổn định. Ở đây, các nhà đầu tư không phải lo lắng quá nhiều tới sự bất
ổn trong chính trị ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của họ.
Một số nhà đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ coi Hà Nội là một thị trường đầy tiềm
năng bởi dịch vụ ở Việt Nam còn rất kém phát triển. Một số doanh nghiệp sản
xuất hướng tới thị trường nội địa cũng coi đây là một thị trường đầy tiềm năng
với lượng cầu đang tăng lên (do nhu cầu trước kia chưa được thỏa mãn cùng lúc
với khả năng chi trả đang ngày một tăng lên).
Về lao động, Hà Nội trong tổng thể môi trường kinh doanh Việt Nam được
tiếng là có lực lượng lao động dồi dào, thông minh và chăm chỉ. Một câu
chuyện được đăng trên báo Tuổi trẻ về lý do vì sao Công ty sản xuất phần
mềm Isclue đến Việt Nam
23
thể hiện rất rõ lợi thế này. “Một đất nước với
những con người có tinh thần làm việc là tư tưởng lớn như vậy sẽ là nơi để

23

43
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội


Isclue đầu tư” là câu trả lời của giám đốc công ty với câu hỏi “Vì sao lại
chọn Việt Nam làm nơi đầu tư?”
Biểu đồ 3: Sản phẩm - môi trường đầu tư Hà Nội
trong đánh giá của các nhà đầu tư



Nguồn: Nghiên cứu của VDF, 2005; Mức độ tích cực tăng dần từ 1 tới 5
Tuy nhiên, cùng với những điểm mạnh đó, Hà Nội còn rất nhiều điểm cần khắc
phục như hệ thống giao thông, tình trạng tham nhũng hay vấn đề thuê nhà xưởng
văn phòng. Các yếu tố này bị đánh giá ở mức rất thấp, được xem như những vấn
đề mà Hà Nội cần quan tâm cải thiện nhằm tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn
hơn với các nhà đầu tư. Các khó khăn khác liên quan đến hệ thống tài chính ngân
hàng
24
, hệ thống giao thông và các yếu tố cứng khác.
Sự thiếu hụt lao động cũng được một số doanh nghiệp nêu ra nhưng chưa thực sự
cấp thiết bởi Hà Nội là trung tâm đào tạo của cả nước. Tuy nhiên, khi nói chuyện
ngoài lề với một số doanh nghiệp, một số họ cho rằng, công nhân nơi đây chưa
thực sự lành nghề và yêu công việc của mình. Một vấn đề ai cũng có thể hiểu đó

24
Xin xem thêm ở Chương 4, TS. Phạm Văn Hùng
44
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
là tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Các nhà đầu tư cho biết, việc tìm kiếm nhân
viên văn phòng không khó nhưng tìm được những kỹ sư và công nhân lành nghề
vẫn còn là điều khó khăn. Ngoài ra, đội ngũ công nhân thường làm việc thiếu kỷ
luật như những nông dân “thích làm thì làm, thích nghỉ là nghỉ”. Tuy nhiên, họ
cũng đánh giá cao phong cách làm việc của công nhân Hà Nội hơn hẳn các địa

phương khác của Việt Nam.
Việc hình thành nên các dự án để kêu gọi vốn FDI cũng không được các nhà đầu
tư hưởng ứng bởi cách làm cũng như nội dung của các dự án đó. Các dự án
thường là quá sơ sài, tính khả thi không cao và người lập dự án cũng dường như
không mấy kinh nghiệm và hiểu biết về cách lập một dự án khả thi.
Các chính sách của Hà Nội cũng chưa thực sự minh bạch nên vẫn có khe hở tạo
điều kiện cho tham nhũng. Tham nhũng chính là một trong những điểm yếu nhất
của Hà Nội trong đánh giá của các nhà đầu tư. Tham nhũng ở mọi cấp, mọi nơi
làm nản lòng các nhà đầu tư.
Hạ tầng giao thông của Hà Nội quá kém làm cho chi phí cả về thời gian và tiền
bạc của các nhà đầu tư tăng lên. Theo đánh giá của một số nhà đầu tư, đó chính
là lý do vì sao họ có kế hoạch dịch chuyển văn phòng của họ tới một số địa
phương khác có giao thông thuận lợi hơn.
Giá cả - chi phí kinh doanh tại Hà Nội đối với các doanh nghiệp FDI
Hà Nội luôn cho rằng, chi phí kinh doanh tại đây thấp hơn so với nhiều thành
phố khác trên thế giới nhưng thực tế cho thấy, chi phí kinh doanh tại Hà Nội lại
bị các nhà đầu tư đánh giá ở mức cao nhất nhì thế giới. Có rất nhiều chi phí
ngoài luồng mà các nhà đầu tư phải bỏ ra.
45
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội

Biểu đồ 4: Giá cả của việc kinh doanh tại Hà Nội


¬
Nguồn: Nghiên cứu của VDF ( 2005) mức độ tích cực tăng dần từ 1 tới 5
Khi được hỏi cụ thể, có doanh nhân khẳng định mức độ tham nhũng ở cấp địa
phương cao hơn nhưng cũng có người khẳng định, tham nhũng ở mọi cấp và với
cấp càng cao thì doanh nhân càng tốn kém. Đây là một thực trạng mà có lẽ có
hầu hết mọi người nhận ra, một điểm yếu mà Việt Nam nói chung và Hà Nội nói

riêng cần phải nhanh chóng khắc phục bởi nó làm xấu hình ảnh Việt Nam trên
trường quốc tế. Tham nhũng đã và đang là yếu tố làm giảm sức cạnh tranh của
nền kinh tế nói chung. Đó cũng chính là lý do cơ bản của việc Việt Nam bị tụt
hạng trong Báo cáo thường niên về Chỉ số tự do kinh tế của Tạp chí Wall Street
Journal, với vị trí 142 trong tổng số 157 quốc gia được xếp hạng năm 2006, tụt 6
hạng so với năm 2005. Các doanh nghiệp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội nói
chung và Việt Nam nói riêng đều cho rằng, họ khó có thể kiểm soát được chi phí
bởi những hành xử của công chức cũng như công an nơi đây.
Tận dụng được lao động giá rẻ chính là một trong những lý do mà các nhà đầu tư
tới với Việt Nam nhưng đó lại không phải là điểm mạnh của Hà Nội. Tuy nhiên,
chi phí lao động ở Hà Nội là mức chi mà các nhà đầu tư có thể chấp nhận được.
Chi phí liên quan tới đất đai của các doanh nghiệp sản xuất cũng là một vấn đề
lớn. Các chi phí liên quan tới giải phóng mặt bằng, tới việc giá đất thay đổi
không thể lường trước được đã làm nhiều nhà đầu tư nản lòng.
46
Môi trường kinh doanh Hà Nội trong đánh giá các nhà đầu tư…
Kênh phân phối
Có thể nói, rất nhiều nhà đầu tư đã không nhận được những gì mà Hà Nội hứa
hẹn cung cấp cho họ. Cho dù Hà Nội có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ
hay hướng dẫn họ trong hoạt động kinh doanh nhưng do kênh phân phối hoạt
động kém hiệu quả, thiếu hợp tác giữa các cơ quan chức năng nên những nỗ lực
trong hấp dẫn hóa môi trường đầu tư của lãnh đạo Hà Nội đã bị công chức làm
cho vô hiệu hóa. Có tới 87% số người được hỏi cho rằng, họ luôn bị các công
chức tại các công sở ở Việt Nam “hành” về thủ tục, giấy tờ. Đây là vấn đề mang
tính hệ thống ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.
Trong môi trường kinh doanh toàn cầu, nhưng những thông tin lẽ ra nhà đầu tư
phải được thông báo thì hầu như họ phải mua hoặc tìm cách có được từ một
nguồn xa lạ chứ không thể có được một cách chính thống. Chính vì vậy, những
chính sách của nhà nước đối với các nhà đầu tư đôi khi họ không thể tiếp cận
hoặc tiếp cận không hoàn toàn. Đó chính là kết quả của một cơ chế quản lý nhiều

cửa hoặc một cửa nhưng quá nhiều khóa mà Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói
chung vẫn đang tìm cách duy trì để đảm bảo quyền lợi cho một số cá nhân nào
đó.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý của Việt Nam quá lỏng lẻo cũng làm cho
việc thực thi chính sách trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó, các chính sách của
Việt Nam nói chung cũng hay thay đổi cùng với việc có quá nhiều giấy phép
con, không thống nhất tạo ra một hệ thống hành chính phức tạp mà rất ít các nhà
đầu tư theo kịp. Mức độ tham dự và tính chất tham dự của các cơ quan chính
quyền được các nhà đầu tư đánh giá không cao, thể hiện ở Biểu đồ 5 sau đây.
Có thể thấy rằng, sự tham dự của các cơ quan chức năng Hà Nội không được
đánh giá tích cực (tính tích cực trong nghiên cứu này được đánh giá từ 1-2).
Hầu hết các cơ quan tham dự vào hoạt động của các doanh nghiệp mang tính
đối phó, không hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp. Nói cách khác, các doanh
nghiệp nhận được rất ít sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý vĩ mô. Sở kế hoạch
và Đầu tư Hà Nội được đánh giá tốt nhất nhưng mức độ vẫn chỉ ở trên mức
0,75 với thang đo -2 tới 2.
47

×