Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

thuyết minh về nguyễn trãi(cực hay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.83 KB, 4 trang )

Đề bài: Giới thiệu tác gia Nguyễn Trãi
Bài làm:
"Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng"
(Tố Hữu)
Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim "ưu thời ái quốc", - thâm
thuý, sắc bén, đầy biến hoá trong tài mưu lược chính trị - nhẹ nhàng mà thanh tao, thi vị trong những
vần thơ về thiên nhiên, cây cỏ, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào vóc dáng dân tộc, tồn tại vĩnh hằng
trong trái tim mỗi người dân Viêt Nam, trong lịch sử dân tộc.
Lắng mình cùng dòng chảy thời gian, trở về với mảnh đất Hải Dương - nơi đã sinh thành, nuôi
dưỡng con người tài hoa Đất Việt Nguyễn Trãi, ta mới thấu hiểu rằng lấp sau mũ quan, áo gấm là
một thời ấu thơ đầy bão dông. Nguyễn Trãi (1380 - 1442) sinh ra và lớn lên tại làng Chi Ngại, là con
của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần nguyên Đán. Thật may mắn khi con người vốn
đã tài hoa, kiệt xuất trời xinh ấy lại được nuôi dưỡng, lớn lên trong một gia đình mà truyền thống
yêu nước, văn hoá, văn học đã trở thành một niềm tự hào sâu sắc.Thế nhưng, hạnh phúc vừa cầm
nắm trong tay thì cuộc đời giông tố đã ập đến khiến Nguyễn Trãi chịu nhiều mất mát đau thương.
Ông để tang mẹ lúc 5 tuổi rồi lại ông ngoại qua đời khi vừa tròn 10 tuổi. Vượt qua những khó khăn,
thiếu thốn về tinh thần, nỗ lực học tập, năm 1440, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cùng cha ra làm
quan dưới triều nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, cha ông bị chúng bắt sang Trung Quốc.
Gánh nặng hai vai là món nợ non sông và mối thù nhà khôn xiết. Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng
của giặc Minh, Nguyễn Trãi từ Đông Quan tìm vào Lam Sơn theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa. Ông
đã trở thành cánh tay đắc lực của Lê Lợi, thực hiện "mưu phục tâm công" giúp cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn đi đến toàn thắng vang dội. Ông hăm hở tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Giặc ngoài
đã dẹp yên, mâu thuẫn nội bộ triều đình phong kiến nổi lên, Nguyễn Trãi bị nghi oan, bắt giam. Sau
đó ông được thả ra nhưng không còn được tin dùng như trước. Thời thế ép buộc con người tận trung
với nước, tận hiếu với dân phải từ bỏ chốn quan trường về ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1442, Nguyễn
Trãi trở về giúp vua Lê Thánh Tông việc nước thì an oán Lệ Chi Viên đổ ập xuống gia đình ông.
Bọn gian thần vu cho ông giết vua, khép tội "tru di tam tộc". Cuộc đời đã đóng sập trước mắt con
người tài hoa bạc mệnh như một sự thật phũ phàng đến nao lòng, là nỗi xót thương nghẹn ngào của
bao con dân khổ cực dưới ách cùm trói thiếu đi một cánh tay che chở, bảo vệ trước dông tố cuộc đời.
Sinh ra từ cát bụi rồi lại trở về với cát bụi hư vô. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi tưởng đã bị


cuốn phăng khỏi guồng quay của thời gian, chuyến hành trình dài của lịch sử nhưng chính bởi hồn
thơ văn chất chứa đã khẳng định tên tuổi, tạc linh hồn vô hình lên vóc dáng dân tộc, để lại cho đời
những tiếng thơ bất hủ, vang dội mà cũng không kém phần lắng đọng, tinh tế, bình dị như chính
những rung động nhẹ nhàng trong trái tim Nguyễn Trãi:
"Nhắc đến tên ông là thấy thơ
Như một nguồn thiêng chẳng bến bờ".
(Tế Hanh)
Nguyễn Trãi - nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại. Ông coi thơ là nơi gửi gắm, truyền đạt con
mắt sự đời tinh tế để công phá quân giặc; là miền đất mơ ước mà ở đó tư tưởng nhân nghĩa, yêu
nước, thương dân thấm nhuần vào hành động, xuyên suốt, chủ đạo như nguồn năng lượng hội tụ
phát sáng kì diệu:
"Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng"
(Quốc âm thi tập)
Trong thơ Nguyễn Trãi, hai tiếng "trung hiếu" và "ưu ái" như một lời nguyền vang vọng, trường tồn
với năm tháng: Yêu nước, thương dân - danh là danh tổ quốc - lợi là lợi tổ quốc. Sống để cống hiến,
suốt đời quên mình vì dân vì nước, vì tư tưởng "nhân nghĩa". Rạo rực, hùng hồn, sắc bén, đây "Quân
trung từ mệnh tập" - vang dội khí phách, tinh hoa, cội nguồn dân tộc đây, mãi là áng "Thiên cổ hùng
văn" ấy là Bình Ngô đại cáo
"Quân trung từ mệnh tập" tuy chỉ là một tập hợp gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những
giao thiệp với triều đình nhà Minh của Nguyễn Trãi nhưng nó lại là tập văn chiến đấu "có sức
mạnh bằng mười vạn quân" (Phan Huy Chú) với ngòi bút tinh thông, sắc sảo, biến hoá, nhất quán
của mưu sư “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” (Lê Quý Đôn). Mỗi bức thư là một khâu,
một mắt xích quan trọng trong cả cuộc luận chiến kéo dài giữa ta và địch, là sự kết hợp tuyệt diệu
giữa lý lẽ lúc thâm thuý, ý nhị, lúc biến hoá, sắc sảo đến gai góc, tài tình với tư tưởng yêu nước,
thương dân đã tạo cho “sức mạnh của ngòi bút Nguyễn Trãi được nhân lên, cú đánh nào của ông
cũng trúng đích” (Nguyễn Huệ Chi). Nếu văn đàn Việt Nam đã từng gặp mối giao thời lịch sử và
văn học sáng rọi giữa Nam Quốc Sơn Hà với chiến thắng trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt
hay Hịch tướng sĩ với chiến thắng chốg quân Nguyên lần thứ II thì Bình Ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi là sự lặp lại một lần nữa mối giao thời rực rỡ, huy hoàng ấy. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa cảm

hứng chính trị và cảm hứng nghệ thuật đến mức kì diệu mà chưa một tác phẩm chính luận nào đạt
tới, là áng văn yêu nước sáng chói non sông, thời đại - một “thiên cổ hùng văn” không tiền khoáng
hậu. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập, bản cáo trạng hùng hồn tội ác của kẻ thù, là khúc
tráng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa phải gắn liền với chống quân
xâm lược, bảo vệ quê hương, lo cho dân cuộc sống “thái bình, thịnh trị”, “xã tắc từ đây vững bền” ;
lòng tự hào dân tộc sâu sắc:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
(Bình Ngô đại cáo)
Lắng sâu trong Bình Ngô đại cáo là dòng máu lúc bừng lên, sôi sục lòng tự hào dân tộc nhiệt huyết,
lúc âm vang, giận dữ, uất hận trào sôi, lúc nghẹn ngào, tấm tức … Nguyễn Trãi luôn ước vọng nhà
nước phong kiến sẽ lấy nhân nghĩa để “trị dân”, “khoan dân” cho viễn cảnh quê hương đất nước tươi
đẹp hiện ra tươi sáng, huy hoàng, rực rỡ hơn:
“Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”. Giọng văn chính luận của Nguyễn
Trãi đã đạt tới mức độ nghệ thuật mẫu mực từ cách xác định đối tượng, mục đích để có biện pháp
khéo léo tạo nên kết cấu sức bén, nhất quán. Với tài năng, đức độ cùng những việc mà Nguyễn Trãi
đã làm và cống hiến cho dân tộc, ông xứng đáng là một nhà cải cách vĩ đại, nhà tư tưởng lớn, một
danh nhân văn hoá thế giới. Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thươn
dân, để cứu nước phải dựa vào dân và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho nhân dân.” Tư
tưởng nhân nghĩa ấy luôn thiết tha, thường trực chuyển thành tâm trạng lo âu, bất an:
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Chẳng nằm thức dậy nẻo canh ba.”
(Bảo kính cảnh giới – 1)
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.”
(Thuật hứng – 5)
Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như quặng quý mà ta cần phải khai thác, nhưng khi lộ
thiên nó lại càng lấp lánh hơn bởỉ tư tưởng, tấm lòng yêu nước, thương dân sáng ngời.
Rạo rực khí phách một thời của vị anh hùng nhưng “Bình Ngô đại cáo” hay “Quân trung từ mệnh
tập”…. chỉ là chất thép bao bọc bên ngoài một tâm hồn, một trái tim biết đau nỗi đau thời thế, biết

yêu, biết sống đẹp, sống vui. Là bậc anh hùng với lý tưởng cao cả nhưng Nguyễn Trãi xót xa và
nghẹn ngào đau xót trước cảnh người dân bị tàn hại vô tội. Ông thương khóc cho “dân đen” đang rên
xiết dưới gót giày quân giặc. Tình yêu thương đồng loại cao cả, vĩ đại lắm thay là một phần xương
máu, tâm can của con người anh hùng ấy!
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi vốn là con người trung thực, ngay thẳng, yêu lẽ phải và sự công bằng nên nỗi đau xót,
buồn rầu, chua chát về thời thế đen bạc, lòng người đổi thay là điều hiển nhiên:
“ …. Càng một ngày càng ngặt đến xương
…. Ở thế nhiều phen thấy khóc cười
…. Bui một lòng người cực hiểm thay”.
Xã hội càng ngang trái, người anh hùng ấy lại càng ngời sáng phẩm chất cứng cỏi, khát khao tự do,
thà chết chứ không chịu làm nô lệ của cường quyền bạo ngược:
“Một tấm long son ngời lửa luyện
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng
Ung dung cứ nói điều ta thích
Uốn gối theo đời không thể vâng
Xã hội càng ngang trái, người anh hùng ấy lại càng ngời sáng phẩm chất cứng cỏi, khát khao tự do,
thà chết chứ không chịu làm nô lệ của cường quyền bạo ngược:
“Một tấm long son ngời lửa luyện
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng
Ung dung cứ nói điều ta thích
Uốn gối theo đời không thể vâng”.
Con người ấy hội tụ đầy đủ vẻ đẹp tâm hồn của tinh hoa đất Việt, người Việt! Sự tôn vinh danh nhân
văn hoá thế giới do UNESCO năm 1980 công nhận đã khẳng định rõ ràng vẻ đẹp của con người ấy.
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà chính trị tài ba mà ông còn là con người của cuộc sống đời
thường, của quên hương xứ sở, gắn bó với “Một cày, một cuốc thú nhà quê” của cuộc đời lao động
chân lấm tay bùn. Đâu chỉ yêu quê hương Côn Sơn có “đá rêu”,có “suối chảy rì rầm”, có “ghềnh
thông mọc như nêm”, có “bóng trúc râm” mà Nguyễn Trãi còn dành cho thiên nhiên một địa vị cao
sang trong thơ qua “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”. Đó là màu xanh của cỏ như “khói bến

xuân tươi”, là bóng thông bên núi, là tiếng cuốc gọi hè, là vẻ kín đáo “Tình thư một bức phong còn
kín” trong Cây chuối, là cành mai, dáng tùng, là sức sông trào dâng của hoa lựu đỏ ngoài hiên ….
Tất cả những điều bình dị, dân dã ấy qua những rung động thẩm mĩ của Nguyễn Trãi đều đi vào thơ
ca nhẹ nhàng như một mảnh tâm hồn. Thiên nhiên đã trở thành nơi ôm ấp, bao bọc con người có tâm
hồn thanh cao, yêu đời ấy. Dù đi đến bất cứ nơi đâu, thiên nhiên đều trở thành một nguồn thơ bất tận
“Túi thơ chứa hết mọi giang sơn” của người thi sĩ này. Nguyễn Trãi sống để bầu bạn với thiên nhiên,
để viết về tình cảm nhân văn giữa con người với con người như ngiã vua tôi, tình cha con sâu sắc:
“Quân thân chưa báo lòng canh cánh
Tình phụ cơm trời áo cha”.
Những vần thơ của Nguyễn Trãi dù viết về thiên nhiên hay tình cha con, tình bạn …. đều biết bao
gần gũi. Chính hình ảnh con người trong thơ đã làm cho Nguyễn Trãi nổi bật rõ hơn vẻ đẹp nhân
bản, nhân văn trong tâm hồn người anh hùng, nâng cao tầm vóc, vị thế của một con người thời đại.
Xuất hiện ở nửa cuối thế kỉ XV, thiên tài văn học Nguyễn Trãi đã trở thành một hiện tượng văn học
kết tinh truyền thống văn học Lý - Trần, đồng thời mở đường cho giai đoạn phát triển mới. Bao trùm
trong thơ Nguyễn Trãi là nguồn cảm hứng yêu nước và nhân đạo sâu sắc. Ông là một nhà văn chính
luận xuất sắc, là nhà thơ có công khai sáng tiếng Việt, đem đến cho nền văn học thơ Đường luật viết
bằng văn học chữ Nôm sáng tạo làm tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học giàu và đẹp.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc, nhà thơ, nhà tư tưởng chính trị lớn
sống mãi trong lòng dân tộc và thế hệ con cháu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp theo tư tưởng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi để đối xử nhân đạo với những tên giặc. Bọn chúng đã gây ra, đem bom đạn
giết hại dân ta, đàn áp đồng bào ta, tàn phá dân tộc ta, gây bao nhiêu tang tóc đau thương trên mọi
miền đất nước. Vậy mà khi bắt sống quân giặc, ta vẫn đối xử nhân đạo với chúng vào khách sạn
Hintơn và sau ngày 30-4-1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là bắt nguồn từ tư tưởng Nguyễn
Trãi? Ta tự hào vì dân tộc ta có một nhân cách lớn như Nguyễn Trãi. Cuộc đời, sự nghiệp ấy sẽ mãi
mãi là tấm gương soi đường, chỉ lối cho những bước ta đi để xây dựng quê hương, đất nước. Thời
gian sẽ không làm phai mờ đi chân dung danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi. Ta vẫn thấy ông ung dung
thanh cao sống giữa cõi đời thanh bình ấy:
“Đạp sóng mây, ôm bó củi
Ngồi bên suối, gác cần câu”.
(Trần tình – 5)

Ta vững bước hướng về một tương lai tươi sáng; sẵn sàng, tự tin bước đi xây dưnựg quê hương khi
biết đằng sau mình vẫn có những con người vĩ đại như thế soi đường, chỉ lối. Ta tự hào đi lên ôi Việt
Nam!

×