Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

SÁCH LINH KHU - THIÊN 5: CĂN KẾT ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.68 KB, 8 trang )

SÁCH LINH KHU
THIÊN 5: CĂN KẾT
Kỳ Bá nói: “Thiên địa cùng cảm nhau, khí lạnh ấm cũng thay đổi
nhau [1]. Đạo (vận hành) của Âm Dương lúc nào ít, lúc nào nhiều ? [2] .
Đạo của Âm thuộc số “chẵn”, đạo của Dương thuộc số “lẻ” [3]. Khí mở
đóng vào mùa xuân, hạ thì Âm khí “ít” và Dương khí “nhiều” [4]. Khí Âm
Dương (trong việc mở đóng) không “điều hòa”, vậy nên bổ như thế nào ? Tả
như thế nào ? [5]
Khi mở đóng vào mùa thu đông thì Dương khí “ít” và Âm khí
“nhiều”, Âm khí thịnh và Dương khí suy, cho nên thân cây, lá bị khô héo, thì
vũ “mưa” khí và thấp khí quay xuống dưới, (như vậy) Âm Dương có chỗ
thay đổi nhau, chúng ta nên tả như thế nào ? Và bổ như thế nào ?[6]
Tà khí bất chính thường cảm ở kinh này rồi chuyển sang chỗ khác,
không biết bao nhiêu cách [7]. Nếu chúng ta không biết (những huyệt) căn
và kết thì khi những cánh cửa và những chốt cửa của ngũ tạng, lục phủ bị
gãy, bị sụp, do đó sự mở đóng không còn (chính xác) khiến cho (chân khí) bị
thoát, khí Âm Dương bị mất lớn, không thể nào lấy lại (đầy đủ) được nữa.[8]
Sự “huyền (diệu)” của cửu châm quan trọng ở “Chung thỉ”, cho nên, nếu
chúng ta biết được lẽ “Chung thỉ” thì chỉ cần một lời nói là diễn tả đầy đủ,
còn nếu chúng ta không biết lẽ “Chung thỉ” thì “châm đạo” bị tuyệt hẳn [9].
Kinh (Túc) Thái dương lấy căn ở huyệt Chí Âm và lấy kết ở huyệt
Mệnh Môn [10]. Huyệt Mệnh Môn ở đây chính là đôi mắt vậy [11].
Kinh (Túc) dương minh lấy căn ở huyệt Lệ Đoài, và lấy kết ở huyệt
Tảng Đại [12]. Huyệt Tảng Đại nằm ở chỗ kiềm thúc bởi vành tai [13].
Kinh (túc) Thiếu dương lấy căn ở huyệt Khiếu Âm, lấy kết ở huyệt
Song Lung [14]. Huyệt Song lung nằm ở giữa tai [15].
Kinh (Túc) Thái dương đóng vai trò “khai: mở cửa”, kinh (Túc)
Dương minh đóng vai trò “hạp: đóng cửa”, kinh (Túc) Thiếu dương đóng vai
trò “khu: chốt cửa” [16]. Cho nên, khi nào “cửa bị gãy” thì bên trong cơ
nhục bị nhiễu loạn và bạo bệnh sẽ dậy lên [17]. Cho nên khi bạo bệnh nên
thủ huyệt ở kinh (Túc) Thái dương, và nên dựa vào tình trạng hữu dư hay


bất túc [18]. Chữ “độc” có nghĩa là phần da thịt bị teo mềm và yếu ớt [19].
Khi nào “cửa đóng bị gãy” thì khí không còn chỗ để ngừng nghỉ và chứng
nuy tật khởi lên [20]. Vì thế, khi nào bị chứng nuy tật lên nên thủ huyệt ở
kinh (Túc) Dương minh, và nên dựa vào tình trạng hữu dư hay bất túc [21].
Câu “không còn có chỗ để ngừng nghỉ” có nghĩa là chân khí bị ngăn lại
nhường chỗ cho tà khí ở [22]. Khi nào “chốt cửa bị gãy” tức phần cốt bị dao
động, không đứng vững trên mặt đất [23]. Cho nên nếu bị chứng “cốt dao”
nên thủ huyệt ở kinh (Túc) Thiếu dương và nên dựa vào tình trạng hữu dư
hay bất túc [24]. Chữ “cốt dao” có nghĩa là cốt tiết bị giãn ra mà không co
(thu) lại được [25]. Cốt dao nói về sự dao động [26]. (Việc chữa trị này) nên
xem xét một cách nghiêm túc cái “gốc” của nó (thuộc khai, thuộc hạp hoặc
thuộc khu) [27].
Kinh (Túc) Thái âm lấy căn ở huyệt Ẩn Bạch và lấy kết ở huyệt Đại
(Thái) Thương [28]. Kinh Thiếu âm lấy căn ở huyệt Dũng Tuyền và lấy kết
ở huyệt Liêm Tuyền [29]. Kinh (Túc) Quyết âm lấy căn ở huyệt Đại Đôn và
lấy kết ở huyệt Ngọc Anh và lạc ở Chiên Trung [30]. Kinh (Túc) Thái âm
đóng vai trò “khai: mở cửa”, kinh “Túc” Quyết âm đóng vai trò “hạp: đóng
cửa”, kinh (Túc) Thiếu âm đóng vai trò “khu: chốt cửa” [31]. Vì thế, khi
“cánh cửa mở” bị gãy thì kho lúa không biết vận chuyển theo con đường
nào, gây thành bệnh “cách động” [32]. Khi nào bị bệnh “cách động” nên thủ
huyệt ở kinh (Túc) Thái âm và nên dựa vào tình trạng hữu dư hay bất túc
[33]. Vì thế khi “cánh cửa mở” bị gãy thì khí sẽ bất túc mà sinh ra bệnh vậy
[34]. Khi “cánh cửa đóng” bị gẫy thì tức là khí bị tuyệt mà hay buồn [35].
Nếu hay buồn nên thủ huyệt ở kinh (Túc) Quyết âm và nên dựa vào tình
trạng hữu dư hay bất túc [36]. Khi “chốt cửa” bị gãy thì mạch có chỗ bị kết
và bất thông [37]. Nếu mạch bất thông nên thủ huyệt ở kinh (Túc) Thiếu âm
và nên dựa vào tình trạng hữu dư hay bất túc [38]. Mạch có chỗ bị kết đều
do ở tình trạng bất túc [39].
Kinh Túc Thái dương lấy căn ở huyệt Chí Âm, nó “lưu” vào huyệt
Kinh Cốt, “chú” vào huyệt Côn lôn, “nhập” vào huyệt Thiên trụ và huyệt

Phi Dương [40].
Kinh Túc Thiếu dương lấy căn ở huyệt Khiếu Âm, “lưu” vào huyệt
Khâu Hư, ù “chú” vào huyệt Dương Phụ, “nhập” vào huyệt Thiên Dung và
huyệt Quang Minh [41].
Kinh Túc Dương minh lấy căn ở huyệt Lệ Đoài, “lưu” vào huyệt
Xung Dương, “chú” vào huyệt Hạ Lăng, “nhập” vào huyệt Nhân Nghênh và
huyệt Phong Long [42].
Kinh Thủ Thái dương lấy căn ở huyệt Thiếu Trạch, “lưu” vào huyệt
Dương Cốc, “chú” vào huyệt Thiếu (Tiểu) Hải, “nhập” vào huyệt Thiên
Song và huyệt Chí Chính [43].
Kinh Thủ Thiếu dương lấy căn ở huyệt Quan Xung, “lưu” vào huyệt
Dương Trì, “chú” vào huyệt Chi Câu, “nhập” vào huyệt Đại (Thiên) Dũ và
huyệt Ngoại Quan [44].
Kinh Thủ Dương minh lấy căn ở huyệt Thương Dương, “lưu” vào
huyệt Hợp Cốc, “chú” vào huyệt Dương Khê, “nhập” vào huyệt Phù Đột và
huyệt Thiên lịch[45].
Đây gọi là những huyệt nên “thủ: chọn” để chữa khí 12 kinh có “thịnh
lạc” [46].
Một ngày một đêm (mạch đi) 50 vòng (Doanh) nhằm cung ứng
(doanh) tinh khí của ngũ tạng [47]. Nếu có tình trạng (sự cung ứng này)
không ứng đúng với con số thì gọi là “cuồng sinh” [48].
Khi nói rằng ‘mạch hành 50 doanh’ tức là nói rằng ngũ tạng đều được
‘thọ khí’ [49]. Chúng ta chỉ cần nắm được mạch khẩu để đếm ‘số chí’, mạch
đến 50 động mà không có một lần ‘đại’, đó là ngũ tạng đều được ‘thọ khí’
[50]. Mạch đến 40 động thì có một lần ‘đại’, đó là có một tạng ‘không được
thọ khí’[51]. Mạch đến 30 động có một lần ‘đại’, đó là có 2 tạng ‘không
được thọ khí’[52]. Mạch đến 20 động có một lần ‘đại’, đó là 3 tạng ‘không
được thọ khí’[53]. Mạch đến 10 động thì có một lần ‘đại’, đó là 4 tạng
‘không được thọ khí’ [54]. Chưa đầy 10 động thì đã có một ‘đại’, đó là cả 5
tạng ‘không được thọ khí’, như vậy là sắp tới thời kỳ chết rồi [55]. Ý nghĩa

trọng yếu của vấn đề này nằm ở thiên “Chung thỉ” [56].
Khi ta nói rằng mạch đến 50 động mà không có một lần ‘đại’ ta xem
đó là ‘thường’[57] . Chúng ta sở dĩ biết được ngũ tạng đang ‘sống’ hay gần
tới chỗ chết, là nhờ vào mạch động khí đến một cách “thường” hay đến một
cách ‘biến’ (thất thường) [58].
Hoàng Đế hỏi: “Vấn đề châm nghịch và thuận đối với 5 loại người có
hình thể (ngũ thể) khác nhau, là có ý nói đến con số của kinh lạc, sự ít nhiều
của huyết, sự dài ngắn của mạch, sự hoạt sắc của khí, sự thanh trọc của
huyết, sự dầy mỏng của làn da, sự cứng mềm của bắp thịt, sự lớn nhỏ của cốt
tiết nơi con người [59]. Tất cả những cái đó ta đều đã biết [60]. Tất cả đây
thuộc về những người áo vải, thất phu [61]. Ôi ! Những bậc vương, công,
đại nhân, những người này ăn (những thứ thức ăn) có máu, thân thể họ yếu
đuối, cơ nhục mềm yếu, huyết khí họ mạnh và hung, hoạt và lợi [62]. Vậy
trong việc châm chậm hay nhanh, cạn hay sâu, nhiều hay ít, cả hai đàng có
giống nhau không ?[63]”
Kỳ Bá đáp: “Món ăn cao lương và món ăn đậu rau, ‘vị’ của nó làm
sao giống nhau được ?[64] Khi nào gặp khí hoạt thì phải rút kim ra nhanh,
khi nào gặp khí sắc thì phải rút kim ra chậm, khi nào gặp khí hãn thì dùng
kim nhỏ mà châm vào cạn, khi nào gặp khí sắc thì dùng kim to mà châm vào
sâu [65]. Châm sâu là có ý muốn giữ lại (lâu) [66]. Châm cạn là có ý muốn
rút ra nhanh [67]. Do đó mà xét, khi nào châm những người áo vải thì nên
châm vào sâu và giữ kim lại lâu, khi nào châm bậc đại nhân thì nên châm
kim nhỏ và châm chậm (nhanh) [68]. Đó là vì chúng ta gặp phải thứ khí
mạnh và hung, hoạt và lợi [69].
Hoàng Đế hỏi: “Vấn đề nghịch thuận của hình khí phải làm thế nào ?”
[70].
Kỳ Bá đáp: “Hình khí bất túc, bệnh lý hữu dư, nên châm tả ngay [71].
Hình khí hữu dư, bệnh khí bất túc, nên châm bổ ngay [72]. Hình khí bất túc,
bệnh khí bất túc, đó là khi cả Âm lẫn Dương đều bất túc, không nên
châm[73]. Nếu châm sẽ gây thành ‘trùng bất túc: 2 lần bất túc’[74]. ‘Trùng

bất túc’ thì làm cho Âm và Dương đều bị kiệt, huyết và khí đều bị tận, ngũ
tạng bị không hư, cân, cốt, tủy đều khô, làm cho người già bị tuyệt diệt,
người trẻ không thể phục hồi được [75].
Hình khí hữu dư, bệnh khí hữu dư, đó là khi cả Âm lẫn Dương đều
hữu dư, nên châm tả ngay tà khí nhằm điều hòa hư thực [76]. Đó là ý nghĩa
của câu: “Hữu dư thì châm tả”, “Bất túc thì châm bổ” [77].
Cho nên nói rằng: Trong phép châm mà không biết lẽ thuận nghịch thì
chân khí và tà khí sẽ đánh nhau, khi mãn (thực) mà châm bổ thì khí Âm
Dương sẽ tràn ngập ra tứ chi, Trường và Vị khí sẽ sung ra da, Can và Phế sẽ
trướng bên trong, Âm khí và Dương khí lẫn vào nhau[78]. Khí hư mà châm
tả sẽ làm cho kinh mạch bị không hư, huyết khí bị khô, Trường và Vị khí bị
tích tụ, bì phu bị mỏng manh, lông và tấu lý bị héo nhăn, gần đến chỗ chết
rồi vậy[79].
Cho nên khi nói rằng, điều quan yếu trong việc dụng châm là ở chỗ
điều hòa Âm khí và Dương khí [80]. Điều hòa được Âm khí và Dương khí
thì tinh khí mới sáng tỏ, nó sẽ làm hòa hợp được hình và khí, khiến cho thần
khí giữ vững bên trong [81].
Cho nên nói rằng: Bậc thượng công có thể làm bình được khí, trung
công có thể làm cho loạn mạch, hạ công có thể làm cho tuyệt khí, nguy hiểm
đến tính mạng[82]. Cho nên nói rằng ở trình độ hạ công, chúng ta không thể
không cẩn thận [83]. Chúng ta bắt buộc phải thẩm đoán cho được cái bệnh
do sự biến hóa của ngũ tạng, sự ứng với ngũ mạch, sự thực hư của kinh lạc,
sự nhu thô của bì phu [84]. Có như vậy, sau đó chúng ta mới thủ huyệt để
châm trị được vậy [85].

×