SÁCH LINH KHU
THIÊN 73: QUAN NĂNG
Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: "Ta đã nghe Thầy nói về vai trò của cửu châm,
nghe đã nhiều rồi, sự phong phú của nó thật là không biết bao nhiêu mà kể,
Ta đã suy rộng ra để thảo luận nhiều lần và đã quy nạp được về 1 mối, nay ta
xin đọc lại cho thầy nghe, thầy nghe cho rõ về cái lý của nó, nếu có điều gì
sai, xin thầy bảo cho ta biết, ta cũng xin được thầy tu chính cho đúng với cái
đạo của nó, làm thế nào để truyền lại cho đời sau mà không có điều gì
hại[1]. Khi nào ta tìm được những người có cái chí thông hiểu như chúng ta
thì ta mới truyền dạy cho, còn nếu như không có được những người như vậy
thì thôi, không dạy”[2].
Ký Bá rập đầu 2 lạy, tâu:”Thần xin kính nghe về cái đạo của bậc
thánh nhân”[3].
Hoàng Đế nói: "Cái lý của sự dụng châm là phải nắm cho được bộ vị
biểu hiện của hình và khí, phân biệt rõ bộ vị trên dưới, phải trái, xét cho
được Âm Dương biểu lý, huyết khí nhiều hay ít, sự vận hành thuận hay
nghịch, những nơi để cho khí xuất từ lý ra biểu, nhập từ biểu vào lý, phải
biết cách chống đỡ, đuổi tà khí, và đừng sai sót trong việc dưỡng sinh[4].
Ngoài ra, phải biết phép giải cho được những kết tụ, phải biết phép bổ hư tả
thực, nắm cho được sự phân bố khí ở các huyệt trên và dưới, phải sáng tỏ vai
trò của khí tứ hải (khí hải, huyết hải, tủy hải, và thủy cốc chi hải)[5]. Phải
nắm cho được bộ vị đau nhức ở chỗ nào, nếu có những chứng trạng hàn
nhiệt vãng lai hoặc mệt mỏi yếu sức[6]. Tà khí xâm nhập vào cơ thể sẽ chạy
đi ở những nơi khác nhau, nên thẩm định hư thực của bệnh, sự vãng lai của
khí để điều hòa nó[7]. Phải nắm cho được các đường kinh toại, với những
đường chi lạc 2 bên tả hữu, nắm cho vững nơi hội họp của nó[8].
Nếu có tình trạng hàn và nhiệt tranh nhau làm cho Âm Dương bất hòa,
ta nên tham hợp các nguyên lý dựa vào bệnh trạng để tiến hành điều trị[9].
Nếu có tình trạng chứng hư và chứng thực gần giống nhau, ta phải biết dựa
vào sự thịnh suy của kinh mạch để sơ thông kinh khí[10]. Nếu tà khí xâm
nhập vào đại lạc bên trái, gây bệnh bên phải, nhập bên phải gây bệnh bên
trái, phải biết tà khí ở bộ vị nào để áp dụng phép châm mậu thích: bệnh bên
trái châm bên phải, bệnh bên phải châm bên trái[11]. Phải nắm rõ lẽ nghịch
thuận để biết rằng thuận thì trị được, nghịch thì không trị được[12]. Nếu tình
huống của tạng phủ Âm Dương không bị lệch mà chỉ do thời lệnh làm hại
đến, do đó ta biết được nguyên nhân gây bệnh là do thời lệnh[13]. Thẩm
định tiêu bản của bệnh, xét đoán lẽ hàn nhiệt để biết được tà khí đang ở tại
đâu, như vậy vạn lần châm không còn lo ngại nữa[14]. Nếu ta nắm được tác
dụng của cửu châm, đó là đạo của châm đã tròn vẹn rồi vậy”[15].
Rõ được vai trò của ngũ du huyệt (Tỉnh, Huỳnh, Du ,Kinh và Hợp),
xét được lẽ hư thực để mà áp dụng phép bổ tả nhanh hay chậm, mạch khí
vận hành co duỗi, xuất nhập, tất cả đều có những điều lý (trật tự) của nó[16].
Âm Dương trong con người cũng phối hợp với ngũ hành, ngũ tạng lục phủ
đều ẩn tàng những quan năng của nó với Âm Dương và ngũ hành, thời lệnh
của bốn mùa và tám hướng đều thuộc Âm Dương, ảnh hưởng đến con
người[16]. Mỗi bộ vị đều biểu hiện Âm Dương và ngũ hành, và ứng lên ở
vùng Minh đường[17]. Các bộ vị này đều biểu hiện bởi những màu sắc
tương ứng với tình huống của ngũ tạng lục phủ[18]. Thẩm sát được những
bộ vị đau trên thân thể rồi kết hợp với những biểu hiện về màu sắc từ trên
,dưới, trái, phải ở trên mặt để biết được bệnh đang thuộc hàn hay ôn, đang
xảy ra tại kinh nào[19]. Thẩm sát được những đặc điểm hàn ôn, hoạt sắc trên
bì phu, ta biết được những bệnh khổ thế nào[20]. Nhân vì màn cách mạc
ngăn làm 2 ngăn thượng và hạ, nhờ đó ta nên biết cho rõ bệnh khí đang ở nơi
nào[21]. Trước hết ta phải nắm cho được con đường thông lộ của kinh mạch,
chọn huyệt nên ít mà tinh, có khi phải châm sâu và lưu kim lâu, nhờ vậy ta
làm cho chính khí phục hồi, quay về đúng đường đi của nó, chống được tà
khí[22]. Nếu như ở thượng bộ phát nhiệt , ta dùng phép châm đẩy hỏa nhiệt
giáng xuống[23]. Nếu như bệnh tà đi từ dưới dần lên trên, ta dùng phép
châm giáng xuống và đẩy lui để trừ nó[24] Đồng thời ta quan sát đến bộ vị
đau nhức trước đây: trước hết ta chọn huyệt nơi đó để tả nó[25]. Có những
bệnh không thích ứng với việc châm, ta nên dùng phép cứu[26]. Khi nào khí
ở trên bất túc, ta dùng phép châm ‘thôi nhi dương chi’[27]. Khi nào khí ở
dưới bất túc, ta dùng phép châm ‘tích nhi tùng chi’[28]. Khi nào Âm Dương
đều hư, cấm châm thích, ta dùng (ngải cứu) hỏa để để cứu là thích hợp
nhất[29]. Khi nào bệnh quyết nghịch mà bị hàn thậm, hoặc phần bắp thịt áp
vào với cốt bị hãm xuống, hoặc hàn khí đã lên đến quá gối, ta cứu huyệt Hạ
Lăng Tam Lý[30]. Những nơi mà Âm lạc đi qua, nếu có hàn tà đến và lưu lại
nơi đó, hoặc hàn tà do lạc mạch đi sâu vào nội tạng, ta dùng phép châm ‘thôi
nhi hành chi’ để đuổi hàn tà[31]. Nếu có tình huống mà kinh mạch bị hãm
lại, ta phải dùng ngải cứu để cứu (đốt nóng) là đúng nhất[32]. Khi nào lạc
mạch kết lại thành những đường cứng, ta cũng dùng ngải cứu để trị[33]. Nếu
có chứng đau nhức mà không có bộ vị nhất định, ta chọn huyệt Thân Mạch
là nơi mà mạch Dương kiểu đi qua, hoặc huyệt Chiếu Hải là nơi mà mạch
Âm kiểu đi qua; ở người đàn ông thì ta chọn mạch Dương kiểu, ở người đàn
bà thì ta chọn mạch Âm kiểu[34]. Nếu ta chọn Âm cho đàn ông, chọn
Dương cho đàn bà, kết quả sẽ ngược lại, đó là điều mà người thầy thuốc giỏi
không làm[35]. Tóm lại, trên đây ta đã đề cập đến những nguyên tắc trị liệu
liên quan đến tạng phủ, Âm Dương, hàn nhiệt, hư thực, biểu lý, thượng hạ,
bổ tả, nhanh chậm như thế là những lập luận chủ yếu của việc châm thích
đã đầy đủ rồi vậy”[36].
Trong quá trình học tập phép dụng châm, ắt phải theo đúng phương
pháp và chuẩn tắc[37]. Bên trên phải biết xem những ánh sáng (nhật nguyệt,
các vì sao ) bên dưới phải nắm cho được luật vận hành của bát chính (tám
tiết chính), nhằm tránh được những tà khí bất chính của tứ thời, phải biết
sống cho đúng với nền ngũ luân của trăm họ (những người chung quanh ta),
phải thẩm định cho được những chính phong (thực), những tà phong (hư)
đừng để chạm phải những tà khí quái lạ[38]. Nếu có những bệnh do mưa gió
của Trời, hoặc gặp phải những thời lệnh bất chính thường của tuế khí, người
thầy thuốc lại không thông hiểu những điều kể trên, họ sẽ làm cho bệnh
nhân bị nặng thêm[39]. Vì thế, người thầy trị bệnh phải biết rõ những thời
lệnh thuận hay kỵ của Trời, mới có thể nói đến vấn đề châm ý[40].
Phải bắt chước và vận dụng cho được học thuật của cổ nhân, nghiệm
cho được vào hoàn cảnh hiện tại[41]. Ví dụ: Phải nhìn nắm cho được những
gì xảy ra nơi sâu thẳm nhất, vận hành, biến hóa bên trong của doanh vệ,
huyết khí, phải truyền thông, phải đạt được cho đến muôn đời sau[42].
Những biến hóa của doanh vệ, huyết khí bên trong rất sâu xa là những điều
mà người thầy thuốc vụng về không thể biết và thấy được, nhưng ngược lại,
nó là những dữ kiện qúy báu của những người thầy giỏi[43]. Những biến
hóa của doanh vệ, huyết khí, không thể biết nó nhưng biết những hình tích
cụ thể, mà nó chỉ bộc lộ ra như thần khí như có như không”[44].
Tà khí trúng vào người làm cho người ta bị sợ lạnh run rẩy, chính là
trúng vào người, bệnh nhẹ, trước hết nó chỉ biểu hiện lên ở sắc diện, nhưng
ở thân mình thì chưa thấy có gì, dường như đang có bệnh, nhưng không có
vẻ gì là bệnh, dường như khỏi đi, dường như đang còn bệnh, bên ngoài
dường như có dạng hình người bị bệnh, nhưng cũng có khi chẳng có dáng gì
là bệnh cả, khó mà nắm được bệnh tình[45].
Vì thế, người thầy thuốc giỏi trong lúc thủ khí để chữa bệnh, họ cứu
được bệnh trong lúc còn manh nha sơ khởi, những người thầy thuốc vụng
về, họ chỉ lo lắng, theo dõi trong lúc bệnh đã thành, họ chỉ nương theo đó để
làm bại hoại không bệnh hình mà thôi[46].
Vì thế, người thầy khéo dụng châm, họ phải biết mạch khí đang ở chỗ
nào để mà gìn giữ cánh cửa xuất nhập của nó[47]. Họ cũng phải biết phương
pháp điều hòa khí huyết, phải biết lúc nào nên bổ, lúc nào nên tả, phải biết ý
nghĩa của việc châm nhanh hay chậm, phải biết huyệt nào nên chọn[48]. Nếu
châm tả, nên dùng thủ thuật nhuần nhuyễn, theo sát với bệnh để mà xoay
kim, như vậy tà khí mới lui và khôi phục lại chính khí[49]. Khi châm thì
châm vào nhanh nhưng rút kim ra chậm hơn, được vậy tà khí mới theo kim
mà xuất ra[50]. Nếu châm bằng phép nghênh đón để tả, ta phải lắc kim làm
cho miệng của vết kim to ra, được vậy khí xuất ra mới nhanh[51]. Nếu châm
bổ, ta phải có thái độ đoan chính, thung dung, trước hết phải xoa nắn bên
ngoài da, làm thế nào để tà khí ở nơi nào đó trên kinh mạch sẵn sàng ở vùng
của huyệt đã chọn, tay trái ta xoa trên huyệt vị, tay phải ta ấn lên da, ta xoay
nhẹ mũi kim rồi châm kim vào 1 cách chậm chậm, thủ thuật và dáng điệu
phải đoan chính, phải an tĩnh, phải kiên tâm không nóng nảy, lưu kim 1 cách
nhẹ nhàng, đợi khi nào mạch khí điều hòa, ta mới rút kim thật nhanh, sau khi
rút kim xong, ta dùng tay xoa nhẹ trên da và đồng thời bịt kín vết kim lại,
nhờ vậy mà chân khí mới giữ lại được[52]. Cái quan yếu của việc dụng
châm là không nên quên, không nên lơ là đến vấn đề thần khí”[53].
Lôi Công hỏi Hoàng Đế "Trong điều gọi là châm luận mà bệ hạ đã
nói, khi nào có được người thích ứng với công tác châm trị, ta sẽ nhận và
dạy cho họ, nếu không phải là những người ấy thì không nói đến họ; Làm
thế nào để biết được người nào là người thích ứng cho việc truyền thụ (việc
châm trị)”[54].
Hoàng Đế đáp: “Nên chọn đúng cho mỗi người 1 khoa thích hợp, tùy
theo năng lực của họ mà dạy cho họ, nhờ vậy mà làm cho công việc thành
công rực rỡ hơn”[55].
Lôi Công hỏi: “Thần mong được nghe về quan năng như thế nào
?”[56].
Hoàng Đế đáp: “Người nào đôi mắt sáng, ta dạy cho họ cách nhìn về
sắc diện[57]. Người nào có đôi tai thính, ta dạy cho họ cách nghe tiếng
nói[58]. Người nào có ngôn ngữ lưu loát, phát âm rõ ràng, ta dạy cho họ các)
ăn nói để truyền đạt ý tưởng[59]. Người nào ăn nói hòa hoãn, dáng điệu an
tĩnh, thủ pháp khéo léo, nội tâm khéo xét đoán, ta dạy cho họ thao tác châm
và cứu (bằng ngải) nhằm làm sơ thông khí huyết, điều hòa các tình huống
nghịch và thuận, xét được sự biến hóa của Âm Dương kiêm nắm vững các
phương pháp điều trị[60]. Người nào có đôi tay hòa hoãn, gân cốt dịu dàng,
nội tâm điều hòa, ta dạy cho họ phép án ma để hướng dẫn hành khí[61].
Người nào tính hay ghen ghét, lời lẽ khe khắt, độc ác, thái độ khinh người, ta
để cho họ làm khoa thóa ung chủ bệnh[62]. Người nào có móng tay thô
kệch, thủ pháp ác độc, mỗi khi làm việc thường di hại đến kẻ khác, ta dạy
cho họ làm công việc xoa nắn những khối tích tụ, và những chứng tý (tê) lâu
năm[63]. Như vậy, mỗi loại người có 1 việc thích hợp với khả năng của họ,
nhờ vậy mà các phương pháp điều trị mới vận hành thuận lợi, tên tuổi của họ
mới nổi lên khắp nơi[64]. Nếu không gặp được người thích hợp với mỗi
công tác điều trị như đã nói trên, chẳng những công phu của họ không thành
mà ông thầy của họ cũng mất đi cái danh dự ấy[65]. Cho nên mới nói rằng:
Đó là ý nghĩa của câu: Khi nào có được người thích ứng với công tác châm
trị ta sẽ nhận và dạy cho họ, nếu không phải là người ấy thì không truyền
cho[66]. Muốn thử bàn tay độc hiểm, ta sẽ thử cho họ đè lên con rùa, ta để
con rùa bên dưới 1 đồ dùng (cái chậu chẳng hạn), bên trên người đó dùng
tay đè lên, sau 50 ngày con rùa sẽ chết[67]. Nếu người nào mà bàn tay hòa
hoãn (dịu dàng) thì con rùa sẽ sống lại như cũ”[68].