Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

SÁCH LINH KHU - THIÊN 78: CỬU CHÂM LUẬN ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.06 KB, 11 trang )

SÁCH LINH KHU
THIÊN 78: CỬU CHÂM LUẬN

Hoàng Đế hỏi: "Ta đã nghe thầy nói về cửu châm, ý nghĩa thật là dồi
dào và rộng rãi, nhưng ta vẫn chưa thể lãnh hội được, dám xin hỏi thầy cửu
châm được sinh ra như thế nào ? Do lý do nào mà mỗi loại đều có những tên
gọi riêng ?”[1].
Kỳ Bá đáp : "Cửu châm được hình thành do ở sự biến hóa của Âm
Dương trong Trời Đất mà thành đại số, con số đó bắt đầu ở nhất mà chấm
dứt ở cửu[2]. Cho nên nói rằng: Nhất là nhằm phỏng theo Thiên, Nhị nhằm
phỏng theo Địa, tam phỏng theo Nhân, tứ phỏng theo Thời, ngũ phỏng theo
Âm (thanh), lục phỏng theo Luật, thất phỏng theo Tinh, bát phỏng theo
Phong, cửu phỏng theo Dã”[3]
Hoàng Đế hỏi: "Số kim châm ứng với số 9 như thế nào ?”[4].
Kỳ Bá đáp : "Ôi ! Bậc thánh nhân bắt đầu được con số hình thành
Thiên Địa, đó là từ 1 đến 9, do đó mà phân thành 9 khu vực (Dã), 9 lần 9 là
81, thế là bắt đầu bằng con số Hoàng chung, và cũng từ đó 9 loại kim được
xuất hiện để ứng với con số ấy [5].
Nhất thuộc Thiên, Thiên thuộc Dương, trong ngũ tạng thì Phế ứng với
Thiên, Phế là nắp đậy của ngũ tạng lục phủ, bì phu là chỗ hợp của Phế, thuộc
vùng Dương phận của con người, Vì thế cây kim tạo ra để châm trị, ắt phải
đầu to đuôi nhọn, nhằm không cho châm vào sâu, chỉ để cho Dương tà xuất
ra mà thôi[6].
Nhị thuộc Địa, Cơ nhục của con người ứng với Thổ, Vì thế cây kim
tạo ra để châm trị, ắt phải có thân kim thẳng hình trụ, mũi hình bầu tròn,
nhằm làm sao để đừng làm thương tổn đến vùng phận nhục, bời vì làm
thương vùng này sẽ làm cho (Tỳ) khí bị kiệt[7].
Tam thuộc Nhân (người), Con người sở dĩ thành người và có sự sống,
đó là nhờ ở huyết mạch, Vì thế cây kim tạo ra để châm trị, ắt thân kim phải
to mà chuôi phải tròn, khiến cho án được mạch mà không hãm vào, làm lưu
thông và dẫn đạo chính khí, làm cho tà khí phải xuất ra 1 mình[8].


Tứ thuộc Thời, Thời ở đây là nói về tứ thời bát phong ở khách trong
kinh lạc, gây thành chứng bệnh lựu, Vì thế cây kim tạo ra để châm trị, thân
mình phải thẳng theo hình trụ còn mũi thì phải bén nhọn, khiến cho ta có thể
châm tả được nhiệt, xuất huyết, làm cho các bệnh ngoan cố phải lành[9].
Ngũ thuộc Âm (âm thanh), Âm thanh ở đây là nói đến vùng thuộc
mùa đông và mùa hạ, tức là vùng của Tý và Ngọ, Âm và Dương đang ly
biệt, Hàn và Nhiệt cùng tranh, 2 khí này cùng đánh nhau, hợp nhau để thành
ung và mủ, Vì thế cây kim tạo ra để châm trị, phải làm sao cho mũi của nó
phải nhọn như lưỡi kiếm, có thể châm xuất ra nhiều mủ[10].
Lục thuộc Luật, Luật nhằm điều hòa Âm Dương và tứ thời để hợp với
12 kinh mạch, nếu khí huyết không điều hòa, ví như lục luật không điều hòa,
hư tà sẽ ở khách nơi kinh lạc để gây thành chứng bạo tý, Vì thế cây kim tạo
ra để châm trị, đầu ắt phải nhọn như sợi lông, vừa tròn vừa nhọn, thân giữa
hơi to, nhằm đuổi được bạo khí[11].
Thất thuộc Tinh, Tinh tượng trưng cho thất khiếu của con người, Khi
tà khí ở khách nơi kinh, gây thành chứng thống lý, nó sẽ ở lại nơi kinh lạc,
Vì thế cây kim tạo ra để châm trị, phải làm sao cho mũi kim nhọn như mũi
con muỗi, có thể dùng phép chờ đợi thật yên tĩnh để khí đến chậm, nhẹ
nhàng, cho nên có thể lưu kim lâu, chính khí nhờ đó mà dần được sung thực
(phục hồi), bấy giờ chân khí và tà khí đều chịu tác dụng của cây kim, Khi rút
kim ra tà khí sẽ tán và chính khí được phù dưỡng[12].
Bát thuộc Phong, Phong ở đây tượng trưng cho 8 quan tiết thuộc tay
chân, Các hư phong xuất ra từ bát chính (8 phương), bát phong này làm
thương đến con người, bên trong nó sẽ ở khách lại tại các khớp xương, thắt
lưng, cột sống, quan tiết, tấu lý để gây thành chứng tý trong chỗ sâu, Vì thế
cây kim tạo ra để châm trị, thân nó phải thật dài, mũi nó phải thật nhọn, có
thể đi đến chỗ tà khí ở sâu và chứng tý ở xa để đuổi chúng[13].
Cửu thuộc Dã, Dã ở đây ví với các vùng khớp xương và bì phu, Nếu
Dâm tà lưu lại và tràn trong chu thân, nó sẽ như chứng phong thủy, nó sẽ
đọng lại khiến cho khí không đi qua được các quan tiết lớn, Vì thế cây kim

tạo ra để châm trị, hình như cây côn mũi nhọn, mũi của nó nhỏ tròn, dùng để
tả được thủy khí đọng lại nơi các quan tiết”[14].
Hoàng Đế hỏi: "Sự dài ngắn của kim châm có theo con số tiêu chuẩn
nào không ?”[15].
Kỳ Bá đáp : "Thứ nhất: Sàm châm, lấy phép ở cân châm, bỏ mũi đi thì
thân kim còn lại là 1 thốn rưỡi, đầu mũi nhọn như mũi tên, cả cây kim dài 1
thốn 6 phân, nó chủ về trị những bệnh ở đầu và thân mình[15].
Thứ nhì: Viên châm, lấy phép ở nhữ châm, thân kim hình trụ tròn,
mũi như hình quả trứng, dài 1 thốn 6 phân, chủ trị ở vùng phận nhục[16].
Thứ ba : Đề châm, lấy phép ở mũi nhọn của hạt lúa thử, dài 3 thốn
rưỡi, chủ về án lên mạch để lấy được chính khí quay về, và làm cho tà khí
phải xuất ra[17].
Thứ tư: Phong châm, lấy theo phép nhữ châm, thân kim hình trụ tròn,
mũi thật nhọn, dài 1 thốn 6 phân, chủ về chứng ung và nhiệt, châm xuất
huyết[18].
Thứ năm : Phi châm, lấy phép ở độ bén nhọn của lưỡi kiếm, rộng 2
phân rưỡi, dài 4 thốn, chủ về châm lấy mủ nhiều, đó là lưỡng nhiệt cùng
tranh nhau vậy[19].
Thứ sáu: Viên lợi châm, lấy phép ở ly châm, mũi kim hơi to, nhưng
thân lại nhỏ, làm thế để cho dễ châm sâu vào trong, dài 1 thốn 6 phân, chủ
về chứng ung và chứng tý[20].
Thứ bảy: Hào châm, lấy phép ở lông hào mao, dài 1 thốn 6 phân, chủ
về các chứng Hàn Nhiệt và thống tý ở các lạc mạch[21].
Thứ tám: Trường châm, lấy phép ở kỳ châm, dài 7 thốn, chủ về chứng
tý do tà khí vào sâu bên trong[22].
Thứ chín: Đại châm, lấy phép ở Phong châm (giống như kim thứ tư),
nhưng mũi nhọn hơi tròn, dài 4 thốn, chủ về chứng thủy thũng ở quan tiết
không xuất ra được[23].
Như vậy là hình dáng của các cây kim đã đầy đủ lắm rồi vậy, Đây
cũng là phép tạo ra độ lớn nhỏ, dài ngắn của cửu châm vậy”[24].

Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe nói về thân hình con người ứng
với cửu dã như thế nào ?”[25].
Kỳ Bá đáp : "Thần xin được nói về thân hình con người ứng với cửu
dã: Chân trái ứng với tiết lập xuân, trực nhật của nó là ngày Mậu dần, Kỷ
sửu[26], Hông trái ứng với tiết xuân phân, trực nhật của nó là ngày Ất
mão[27], Tay trái ứng với tiết lập hạ, trực nhật của nó là ngày Mậu thìn, Kỷ
tỵ[28], Ngực, cổ họng, đầu mặt ứng với tiết hạ chí, trực nhật của nó là ngày
Bính ngọ[29], Tay mặt ứng với tiết lập thu, trực nhật của nó là ngày Mậu
thân, Kỷ mùi[30], Hông phải ứng với tiết thu phân, trực nhật của nó là
ngày Tân dậu[31], Chân phải ứng với tiết lập đông, trực nhật của nó là ngày
Mậu tuất, Kỷ hợi[32], Thắt lưng, xương cùng, nhị âm (tiền và hậu) ứng với
tiết đông chí, trực nhật của nó là ngày Nhâm tý[33], Lục phủ, ba tạng bên
dưới ứng với trung châu, ngày đại cẩm của nó chính là ngày mà Thái nhất
đang di hành đến ở tại đó và những ngày thuộc Mậu và Kỷ[34]. Phàm 9 nơi
đã nói trên có thể dùng để chờ để biết được khí bát chính đang ở tại đâu[35].
Nếu có những ung thũng nào ứng với bên phải bên trái, bên trên bên dưới
mà ta muốn chữa trị, ta không nên trị vào những ngày tương ứng như nói
trên bằng cách cho vỡ mủ trên những ung thũng đó, Ta gọi đó là những nơi
thuộc những ngày Thiên kỵ”[36].
Hình thể an nhàn mà chí thì khổ não, bệnh sẽ sinh ra ở mạch, phép trị
là phải cứu và châm[37]. Hình thể lao khổ mà chí an lạc, bệnh sẽ xảy ra ở
cân, phép trị là phải chườm cho nóng để dẫn khí[38]. Hình thể an nhàn mà
chí cũng vui vẻ, bệnh sẽ xảy ra ở nhục, phép trị là phải châm hoặc biếm
(thạch)[39]. Hình thể lao khổ mà chí cũng khổ não, bệnh sẽ xảy ra ở vùng
yết hầu, phép trị phải dùng thuốc có vị ngọt để điều dưỡng[40]. Những
người bị nhiều lần kinh khủng (sợ quá nhiều), sẽ làm cho cân mạch không
thông, bệnh thường làm cho bất nhân (tê không cảm giác đau đớn), phép trị
phải dùng phương pháp án ma và uống rượu thuốc[41].
Ngũ tạng khí: Tâm chủ về ợ[42], Phế chủ về ho[43], Can chủ về hay
nói[44], Tỳ chủ về nuốc (hơi chua)[45], Thận chủ về ngáp[46].

Lục phủ khí: Đởm chủ về nổi giận[47], Vị chủ về khí nghịch thành
ói[48], Đại trường và Tiểu trường chủ về chứng tiêu chảy[49], Bàng quang
không ràng buộc được sẽ làm cho hay đái dầm[50], Hạ tiêu tràn ngập nước
ra bì phu thành chứng thủy thũng[51].
Ngũ vị: Vị chua nhập vào Can[52], vị cay nhập vào Phế[53], vị đắng
nhập vào Tâm[54], vị ngọt nhập vào Tỳ[55], vị mặn nhập vào Thận[56], vị
đạm (nhạt) nhập vào Vị, đó gọi là ngũ vị[57].
Ngũ tịnh: Tinh khí tràn nhập vào Can sẽ làm cho lo lắng[58], tràn
nhập vào Tâm sẽ làm cho vui mừng[59], tràn nhập vào Phế sẽ làm cho bi
thương[60], tràn nhập vào Thận sẽ làm cho khiếp sợ[61], tràn nhập vào Tỳ
sẽ làm cho sợ hãi[52]. Đây gọi là khí của ngũ tinh tràn nhập vào tạng
vậy[63].
Ngũ ố (ghét): Can ố Phong[64], Tâm ố Nhiệt[65], Phế ố Hàn[66],
Thận ố Táo[67], Tỳ ố Thấp, Đây là khí của ngũ tạng có những điều sở ố
(ghét) [68].
Ngũ dịch: Tâm chủ về mồ hôi[69], Can chủ về nước mắt[70], Phế chủ
về nước mũi[71], Thận chủ về nước dãi[72], Tỳ chủ về nước miếng, Đây là
những nơi xuất ra các chất nước nhờn[73].
Ngũ lao : nhìn lâu làm thương đến huyết[74], nằm lâu làm thương đến
khí[75], ngồi lâu làm thương đến nhục[76], đứng lâu làm thương đến
cốt[77], đi lâu làm thương đến cân, Đây là 5 loại lâu làm thương thành bệnh
vậy[78].
Ngũ tẩu (chạy): Vị chua chạy về cân[79], vị cay chạy về khí[80], vị
đắng chạy về huyết[81], vị mặn chạy về cốt[82], vị ngọt chạy về nhục, Đây
gọi là ngũ tẩu vậy[83].
Ngũ tài (giảm bớt): Bệnh ở tại cân, không nên ăn vị chua[84], Bệnh ở
tại khí, không nên ăn vị cay[85], Bệnh ở tại cốt, không nên ăn vị mặn[86],
Bệnh ở tại huyết, không nên ăn vị khổ[87], Bệnh ở tại nhục, không nên ăn vị
ngọt[88], Cho dù miệng thèm ăn, cũng không nên ăn nhiều, ắy phải tự tiết
giảm, đó gọi là ngũ tài[89].

Ngũ phát: Âm bệnh phát ra ở cốt[90], Dương bệnh phát ra ở
huyết[91], Âm bệnh phát ra ở nhục[92], Dương bệnh phát ra ở mùa
đông[93], Âm bệnh phát ra ở mùa hạ[94].
Ngũ tà : Tà nhập vào Dương sẽ thành bệnh cuồng[95], tà nhập vào
Âm sẽ thành chứng huyết tý[96], tà nhập vào Dương, chuyển ra thành chứng
điên tật[97], Tà nhập vào Âm, chuyển ra thành bệnh câm[98], Dương nhập
vào Âm, bệnh xảy ra ở tình trạng tĩnh[99], Âm xuất ra từ Dương, bệnh
thường hay nổi giận[100].
Ngũ tàng: Tâm tàng thần[101], Phế tàng phách[102], Tỳ tàng ý[103],
Thận tàng tinh, chí[104], Can tàng hồn[105].
Ngũ chủ: Tâm chủ mạch[106], Phế chủ bì[107], Can chủ cân[108], Tỳ
chủ cơ nhục[109], Thận chủ cốt[110].
Dương minh nhiều khí huyết[111], Thái dương nhiều huyết ít
khí[112], Thiếu dương nhiều khí ít huyết[113], Thái âm nhiều huyết ít
khí[114], Quyết âm nhiều huyết ít khí[115], Thiếu âm nhiều khí ít
huyết[116]. Cho nên nói rằng: châm Dương minh cho xuất cả huyết lẫn
khí[117], châm Thái dương chỉ cho xuất khí mà không nên cho xuất
huyết[118], châm Thái âm nên cho xuất huyết không nên cho xuất khí[119],
châm Quyết âm nên cho xuất huyết mà không nên cho xuất khí[120], châm
Thiếu âm nên cho xuất khí mà không cho xuất huyết[121].
Túc Dương minh và Thái âm cùng làm biểu lý nhau[122], Thiếu
dương và Quyết âm cùng làm biểu lý nhau[123], Thái dương và Thiếu âm
cùng làm biểu lý nhau[124]. Đây gọi là Âm Dương của Túc (cùng làm biểu
lý)[125]. Thủ Dương minh và Thái âm cùng làm biểu lý nhau[126], Thiếu
dương và Tâm chủ cùng làm biểu lý nhau[127], Thái dương và Thiếu âm
cùng làm biểu lý nhau[128]. Đây gọi là Âm Dương của Thủ (cùng làm biểu
lý nhau)”[129].

×