Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

SÁCH TỐ VẤN - Thiên ba mươi sáu: THÍCH NGƯỢC pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.5 KB, 6 trang )

SÁCH TỐ VẤN
Thiên ba mươi sáu: THÍCH NGƯỢC

Chứng Ngược phát từ kinh Túc Thái dương, khiến người yêu đau, đầu
nặng, rét từ phía lưng phát sinh, trước hàn sau nhiệt, hơi nóùng bừng bừng
ngùn ngụt Lúc nhiệt, mồ hôi toát ra mà bệnh vẫn không đứt. Thích ở huyệt
Uûy trung cho ra huyết [1].
Bệnh phát từ mạch Túc Thiếu dương, khiến người thân thể mỏi mệt,
không hàn lắm, không nhiệt lắm, ghét thấy người, thấy người phấp phỏng sợ
hãi Nhiệt nhiều, hãn ra nhiều Nên thích ở huyệt Túc Thiếu dương. Hiệp
khê [2].
Bệnh ngược phát từ Túc Dương minh, khiến người trước rờn rợn ghê
rét Dần dần lâu mới nhiệt, đến lúc nhiệt giảm, hãn ra, thấy nhật nguyệt
quanh và hỏa khí, đều lấy làm thích Thích huyệt Túc Dương minh, xương
dương [3].
Bệnh ngược phát tứ Tức Thái âm, khiến người không vui, thường thở
dài, không thiết ăn, hàn nhiệt nhiều một khi hãn ra thời bệnh lại phát, phát
thời ọe, ọe khỏi thời bệnh lui. Nên thích ngay. Công tôn [4].
Bệnh ngược phát từ Túc Thiếu âm khiến người nóùân thổ nhiều, nhiệt
nhiều hàn ít, chỉ muốn đóng kín cửa lại để nằm Bệnh này khó khỏi [5].
Bệnh ngược phát từ Túc quyết âm, khiến người yếu đau, thiếu phúc
mãn, tiểu tiện không lợi, như long bế, mà không thật long bế, nhưnng lại
muốn tiểu luôn, ý chí như sợ sệt, khi bất túc, trong bụng thường áy náy khó
chịu Nên thích túc Quyết âm. Thái xung [6].
Bệnh ngược phát tù Phế khiến người Tâm hàn, hàn rồi lại nhiệt, nhiệt
đỡ lại hay sợ, như trông thấy vật gì Thích Thủ Thái âm, Dương minh, liệt
khuyết, Hợp cốc [7].
Bệnh ngược phát từ Tâm, khiến người trong Tâm rất phiền, chỉ muốn
uống nước mát, lại hàn nhiều nhiệt ít Nên thích Thủ Thiếu âm. Thần môn
[8] .
Bệnh ngược phát từ Can, khiến người sắc mặt tái xanh, hay thở dài,


như người sắp chết Nên thích Túc Quyết âm, cho ra máu. Trung phong [9].
Bệnh ngược phát từ Tỳ, khiến người hàn, trong bụng đầy, nhiệt thời
ruột sôi, sôi rồi hãn ra. Nên thích Túc Thái âm. Thương khâu [10].
Bệnh ngược phát từ Thận, khiến người nhờn nhờn ghét, yêu tích đau,
phải uốn éo luôn, đại tiện khó, mắt trông trơ tráo mà không tỏ, tay chân
lạnh Thích Túc Thái dương, Uûy Trung, Thiếu âm, Đại trung [11].
Bệnh ngược phát từ vị, khiến người hay đói mà không ăn được, ăn
vào lại đầy nghẽn, bụng to, thích tức dương minh, Giải khê, Túc tam lý,
hoành mạch ở Túc Thái âm cho ra huyết [12].
Bệnh ngược phát rồi mình mới nóùng, thích động mạch ở trên xương
khoai, lay châm cho rộng, chờ cho ra huyết, sẽ mát ngay [13].
Bệnh ngược đương lúc muốn hàn, thích Thủ Dương minh, Thiếu
dương thái uyên, Thái âm, Túc Dương minh Thái âm [14].
Ngược mạch mãn và đại cấp dùng “trung châm” thích Bối du, và bên
năm Khư du, mỗi huyệt một châm, theo đúng người béo gầy, chờ cho ra
huyết [15].
Ngược mạch tiểu thực và cấp, “Cứu” huyệt Thiếu âm ở ống chân,
thích huyệt Chỉ tỉnh [16].
Ngược mạch mãn, đại và cấp, thích Bối du, năm khư du, mỗi nơi một
lần, chỉ để vừa hành huyết thời thôi [17].
Ngược mạch hoãn và quá hư, nên dùng thuốc uống, không nên dùng
châm [18].
Phàm trị bệnh ngược, trước khi phát bệnh bằng một bữa ăn (ước nửa
giờ đồng hồ) mới có thể chữa. Nếu quá lúc đó, sẽ lỡ, không nên chữa [19].
Các bệnh ngược, nếu không thấy biểu hiện ra ở mạch, thích mười đầu
ngón tay cho ra huyết, huyết ra tất khỏi. Lại xem ở mình có những nóùát đỏ
và nhỏ như hạt đậu, cũng thích cả đi [20].
Mười hai chứng ngược, lúc phát ra không giống nhau và cùng một
lúc, phải nên xem xét bệnh hình, để biết thuộc về Tàng nào [21]
Biết lúc bệnh phát, trước một lát bằng bữa ăn cơm, sẽ thích [22]. Một

lần thích thời tà khí suy, hai lần thích thời bệnh bớt, ba lần thích thời khỏi.
Nếu chưa khỏi, thích hai mạch ở dưới lưỡi cho ra huyết, nếu vẫn không
khỏi, thích huyệt Uûy trung cho ra huyết, lại thích luôn cả Khư du và Bối du,
tất khỏi. Hai mạch dưới lưỡi, tức là Liêm tuyền [23].
Thích bệnh ngược, phải thích vào khoảng giữa nơi bệnh sẽ phát[24].
Nếu trước nhức đầu và chân đi khó khăn nên thích trên đầu với hai bên
Huyền lô trán, khoảng giữa hai lông mày trước, cho ra huyết [25]. Nếu cổ và
lưng đau trước, thích trước ở các huyệt đó [26]. Nếu yêu tích đau trước,
thích huyệt Uûy trung cho ra huyết [27]. Nếu tay và cánh tay đau trước,
trước thích ở huyệt Thủ Thiếu âm, Dương minh [28]. Nếu ống chân đau
nhức trước, thích mười ngón chân thuộc Túc Dương minh trước, cho ra
huyết [29].
Về chứng phong ngược, khi bệnh phát thời hãn ra và ố phong. Thích
bỏ huyết ở Tam dương kinh và Bối du [30].
Oáng chân đau quá, bóp mãi không khỏi, gọi là “Phụ tủy bệnh” dùng
“Xàm châm” thích xâu vào xương huyết ra, khỏi ngay [31].
Thân thể hơi đau, thích Chí âm [32].
Các Tỉnh huyệt thuộc âm kinh, chưa ra huyết, nên cách ngày thích
một lần [33].
Ngược không khát, cách ngày bệnh phát, thích Túc Thái dương, khát
mà cách ngày bệnh phát, thích Túc Thiếu dương [34].
Oân ngược, hãn không ra được, nên thích năm mươi chín huyệt [35].

×