Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG - ÂM DƯƠNG VÀ Y HỌC potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.16 KB, 24 trang )

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
Phần 3

ÂM DƯƠNG VÀ Y HỌC
1. ÂM DƯƠNG VÀ CƠ THỂ
a) Trên là âm, dưới là dương
Theo cách phân chia này thì Đầu là âm và chân là Dương. Thực tế cho
thấy, đầu (cụ thể là trán) sờ vào lúc nào cũng thấy mát và chân (dưới) luôn
thấy ấm. Khi cơ thể bệnh (có rối loạn thăng bằng âm dương) thì đầu (phía
trên) sờ vào thấy nóng (trán nóng, mắt đỏ, mặt đỏ bừng ) thay vì mát, và
chân (phía dưới) thấy lạnh (ẩm, ra mồ hôi, đau ê ẩm ) thay vì nóng. Cách
chữa bệnh đơn giản nhất là dùng khăn lạnh đắp vào trán (thêm âm vào để
đẩy dương ra) hoặc ngâm chân vào nước nóng (thêm dương vào để đẩy âm
ra). Cách điều trị trên chủ yếu nhằm thực hiện lại thế quân bình (điều hòa âm
dương) đã bị xáo trộn vì bệnh gây ra, vì thế, đã có một nhận xét hết sức lý
thú : "Hãy giữ cho đầu bạn mới mát (âm) và chân bạn luôn ấm (dương) thì
bạn sẽ không cần đến thầy thuốc".
Theo các nhà nghiên cứu : Ở tư thế nằm, đầu thấp, chân cao sẽ dễ nhớ
và tiếp thu nhanh hơn, họ cho rằng vì máu dồn về não giúp não làm việc tốt
hơn. Có thể hiểu như sau : Máu (âm) dồn về đầu (âm) tức tăng thêm âm,
giúp cho dễ nhớ hơn. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cũng thấy rằng ở tư thế
này rất dễ buồn ngủ, vì âm mang tính tĩnh.
Xét về 2 quẻ "Thủy hỏa ký tế" và "Thủy hỏa vị tế" ta thấy :
Người khỏe mạnh, trên mát (âm), dưới ấm (dương), tức Thủy giao
xuống dưới, Hỏa giao lên trên, gọi là Thủy hỏa ký tế.
Ngược lại, khi bị bệnh, trên nóng (dương) dưới lạnh (âm) là Thủy hỏa
không tương giao với nhau gọi là Thủy hỏa vị tế.





Trên là quẻ Khảm Trên là quẻ Ly
Thủy, âm Hỏa, dương
__________________________________________________________
Dưới là quẻ Ly Dưới là quẻ Khảm
Hỏa, dương Thủy, âm
THỦY HỎA KÝ TẾ THỦY HỎA VỊ TẾ
b) Bên trái là Dương, Bên phải là Âm
Vấn đề quy định bên phải, bên trái thuộc Âm hay Dương, chưa có tài
liệu nào nghiên cứu 1 cách sâu xa và giải thích thỏa đáng. Tuy nhiên, dựa
vào 1 số công trình nghiên cứu và quan sát tự nhiên, ta thấy :
- Khi khởi động 1 cách tự nhiên, hầu như bao giờ chân trái cũng khởi
động trước. Theo các nhà nghiên cứu, khi chuyển động trái đất tạo nên 1
dòng điện gọi là địa từ lực lôi cuốn mọi vật - Địa từ lực này mang đặc tính
âm. Theo nguyên tắc vật lý, 2 vật cùng tên đẩy nhau, khác tên hút nhau. Lực
của trái đất là âm, do đó sẽ hút lực dương, vì thế có thể coi như chân trái
mang đặc tính dương.
- Theo giáo sư Hirasawa, chuyên viên nghiên cứu sinh lý học thể dục
Trường đại học bách khoa Tokyo, sau 35 năm chuyên nghiên cứu về bàn
chân đã nhận xét rằng : "từ 6-50 tuổi, diện tích tiếp xúc mặt đất của chân trái
phái nam và nữ đều lớn hơn so với chân phải và diện tích tiếp xúc với mặt
đất khi đứng của bàn chân trái lớn hơn. Thời gian chạm đất khi đi phía bên
trái cũng nhiều hơn. Cảm giác ổn định khi đứng 1 chân bằng chân trái cũng
tốt hơn. Vết chân người cổ đại cách đây 3000 năm cũng cho thấy vết chân
trái in sâu hơn xuống đất hơn là chân phải. Các vận động viên, diễn viên
cũng đều dùng chân trái làm trục chống đỡ cơ thể, còn chân phải dùng để
biểu diễn các động tác".
- Các vận động viên điền kinh, đua xe, chạy bao giờ cũng phải rẽ về
bên trái.
- Hình ảnh người chèo đò cho thấy, bao giờ mái chèo cũng nằm bên
trái.

- Bác sĩ Nogier (tác giả môn châm trị liệu loa tai), khi nghiên cứu về 2
bình tai cũng đã nhận xét : "Với các nhà châm cứu, Nhâm mạch (quản lý các
kinh Âm) nằm trên bình tai Phải, của người thuận phải và Đốc mạch (thống
xuất các kinh Dương), nằm trên bình tai Trái (Pour les acupuntures le
RenMo se trouve sur le tragus droigt du droigtier, le Tu Mo sur le tragus
gauche)".
- Viện vật lý và sinh hóa ở Leningrat (Liên Xô) khi tiến hành thí
nghiệm về độ nhạy của tai người đã nhận thấy rằng : tai trái nhạy cảm hơn
tai phải.
Qua các nhận xét trên, tạm thời nêu lên nhận định là bên trái thuộc
Dương và bên phải thuộc Âm. Điều này rất có giá trị trong việc điều trị bằng
châm cứu khi phải chọn huyệt để châm.
c) Trong (bụng, ngực) là Âm, Ngoài (lưng) là Dương
Thiên 'Ngũ Tạng Sinh Thành Luận' (TVấn 10) ghi : "Phù ngôn chi
Âm Dương, Nội vi âm, ngoại vi Dương, Phúc vi âm, Bối vi Dương" (Nói về
Âm Dương, trong thuộc âm, ngoài thuộc dương, bụng thuộc âm, lưng thuộc
dương).
+ Ngay từ trong bào thai, sự sắp xếp theo thứ tự trên cũng khá rõ :
Bào thai nam, dương khí tụ ở lưng nên thường quay lưng ra, do đó, bụng
người mẹ thường có dạng tròn và cứng. Trái lại, bào thai nữ, âm khí tụ ở
ngực nên thường quay mặt ra ngoài, do đó bụng người mẹ thường có dạng
hình bầu dục (gáo nước) và mềm.
+ Hình ảnh người chết đuối trên sông cho thấy, xác nam bao giờ cũng
nằm sấp vì dương khí tụ ở lưng, còn xác nữ bao giờ cũng nằm ngửa vì âm
khí tụ ở ngực.
d) Âm Dương và Tạng Phủ
+ Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" ghi : "Lục phủ giai vi
dương, Ngũ tạng giai vi âm" (Lục phủ thuộc dương, Ngũ tạng thuộc âm).
Như thế Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận thuộc âm, còn Tiểu Trường, Đởm, Vị, Đại
Trường, Bàng quang, Tam Tiêu thuộc dương. Tâm Bào, được coi như 1 tạng

mới, do đó thuộc âm.
+ Giáo sư Ohsawa (tác giả phương pháp dưỡng sinh, người Nhật),
trong sách "Phương Pháp Dưỡng sinh", lại có 1 số nhận xét hơi khác trong
việc phân chia Tạng phủ và Âm Dương. Theo đó, Tâm, Can, Thận thuộc
dương (thay vì thuộc âm) còn Phế, Vị thuộc âm. Ohsawa cho rằng Tim, Gan
và Thận có hình dáng đặc và nặng nên thuộc dương, còn Phổi và Dạ dầy
rỗng, nhẹ nên thuộc âm.
Có gì mâu thuẫn giữa 2 quan điểm phân chia Âm Dương giữa sách
Nội Kinh và Ohsawa không " Sách Nội Kinh là sách kinh điển, tích chứa
kinh nghiệm bao đời của người xưa, Gs. Ohsawa là nhà nghiên cứu có tiếng
trên thế giới, như vậy cả 2 quan điểm đều có lý do của nó.
Có thể tạm hiểu như sau : Theo "Kinh Dịch", mỗi vật thể, hiện
tượng đều do 2 yếu tố : THỂ (hình thể) và DỤNG (công dụng, chức năng)
tạo nên. Một vật nào đó, có thể có hình dạng (thể) là âm nhưng lại có công
dụng là dương hoặc ngược lại, Thể là dương nhưng Dụng là âm.
Thí dụ : Tạng Tâm, xét về hình thể là 1 quả tim, đặc nặng, nên mang
đặc tính dương tức là dương về Thể, nhưng Tâm lại có nhiệm vụ cung cấp
máu cho toàn cơ thể, máu thuộc âm, do đó Tâm mang đặc tính âm xét về
Dụng.
Thí dụ : Quả Ớt, xét về hình thể, quả ớt có màu đỏ, do đó thuộc
dương, nhưng ớt có vị cay, khi vào ruột, làm nở các mao trạng ruột, tiêu
thức ăn nhanh, như vậy, ớt có đặc tính âm nếu xét về công dụng.
2. ÂM DƯƠNG VÀ BệNH LÝ
a) Quá trình phát sinh bệnh
- Mỗi hiện tượng đều có 2 mặt : 1 dương (hưng phấn) và 1 âm (ức
chế). Nếu 1 trong 2 tác động trên mạnh hoặc suy kém khác thường làm cho
mất trạng thái quân bình âm dương, sẽ dẫn tới tình trạng bệnh lý gọi là thiên
suy hoặc thiên thắng.



+ Thiên Thắng : Dương thắng quá, gây chứng nhiệt (sốt, tiểu đỏ )
Âm thắng gây chứng hàn (lạnh, tiêu chảy ).
+ Thiên Suy : Dương hư (lão suy, hưng phấn, thần kinh giảm ) Âm
hư (mất nước, ức chế thần kinh giảm ).
Tuy nhiên, nếu âm suy quá thì âm bị bệnh sinh ra chứng nội nhiệt
(mất nước, mất tân dịch, khát nước, họng khô, táo, tiểu đỏ gọi là âm hư
sinh nội nhiệt). Nếu dương suy quá thì dương bị bệnh và sinh ra chứng hàn ở
ngoài (sợ lạnh, tay chân lạnh gọi là dương hư sinh ngoại hàn).
- Khi 1 mặt âm hay dương ngày càng thịnh và không ngừng phát triển
về 1 phía đối lập, bệnh sẽ diễn biến theo hướng : Nhiệt quá hóa Hàn (nhiệt
cực sinh hàn) như sốt cao kéo dài gây mất nước Hoặc Hàn quá hóa nhiệt
(Hàn cực sinh nhiệt) như tiêu chảy, nôn mửa kéo dài gây mất nước, điện giải
làm nhiễm độc thần kinh gây sốt.
b) Hư chứng, Thực chứng
Bệnh tật (sự rối loạn âm dương) phát sinh ra do nhiều nguyên nhân :
dương thực, âm thực (hưng phấn) hoặc dương hư, âm hư (ức chế).
Thí dụ 1: triệu chứng SỐT :
Sốt có thể do 2 nguyên nhân : do Dương hỏa vượng (hưng phấn) hoặc
do âm hỏa suy không ức chế được dương hỏa, cả 2 trường hợp trên đều gây
nên sốt.
Nếu do dương hỏa vượng thì chứng sốt đó là Thực chứng.
Nếu do âm hỏa suy thì chứng sốt đó là Hư chứng.
Phân tích sâu hơn ta thấy :
- Có khi Âm vượng gây ra triệu chứng dương suy, cần tả âm để bớt ức
chế dương.
- Có khi dương vượng làm âm suy, cần tả dương để bớt ức chế âm.
- Có khi dương suy gây ra triệu chứng âm vượng, cần bổ dương để ức
chế âm.
- Có khi âm suy gây ra dương vượng, cần bổ âm để ức chế dương lại.
Nếu chỉ lo tả dương, là chỉ lo trị ngọn mà bỏ quên gốc, bệnh không hết mà

còn có thể gây biến chứng làm cho âm và dương suy thêm.
Thí dụ 2 : Chứng Âm hư Hỏa vượng.
Người bệnh cảm thấy nóng bừng, sốt nhưng lại sợ lạnh, mạch nhanh
nhưng vô lực. Nhìn triệu chứng sốt bên ngoài làm nghĩ đến hỏa vượng lên,
và trị liệu ở đây là lo tả hỏa nhưng nguyên nhân chủ yếu ở đây lại do âm suy
làm hỏa vượng lên. Nếu chỉ lo tả hỏa, sốt có thể giảm nhưng sau đó sốt lại
trở lại ngay. Ngược lại, vì do âm suy, nếu bổ âm, âm mạnh lên sẽ khắc
dương, làm cho hỏa hạ xuống.
Trên lâm sàng hay gặp chứng Thận Thủy suy, Can hỏa vượng.
Có thể biện chứng như sau : Thận và Gan là 2 cơ quan có chức năng
bài tiết, thanh lọc các chất bên ngoài đưa vào cơ thể : Gan lọc các chất bên
ngoài đưa vào, Thận thanh lọc các chất bên trong đưa ra ngoài. Vì 1 nguyên
nhân nào đó, Thận không làm được chức năng của mình (âm hư), còn lại 1
mình Can hoạt động. Để đảm bảo công việc, Can sẽ phải làm việc gấp đôi,
tức gánh vác thêm công việc mà thận không làm, do đó, Can sẽ phát nhiệt vì
làm việc quá mức. Theo đúng lý, thấy Gan hỏa vượng lên, cần phải tả Can
cho nó mát đi. Can đang làm việc, nay lại bị tả bớt, chắc chắn sẽ bị rối loạn.
Tuy nhiên, nếu hiểu rằng sở dĩ Can phải làm việc nhiều như vậy là do Can
phải gánh thêm nhiệm vụ của Thận, vì Thận hư kém. Nếu Thận khỏe mạnh
lại và làm được nhiệm vụ của mình. Can sẽ bớt gánh nặng và sẽ khỏe. Như
vậy cần phải bổ cho Thận mạnh lên chứ không phải Tả Can.
c) Âm Dương thực giả
Trên lâm sàng, nhiều hội chứng dễ gây lẫn lộn Âm Dương, nếu không
chẩn bệnh 1 cách kỹ lưỡng, đó là các hội chứng chân giả.
- Dương cực tựa âm : Do nhiệt độc tới chỗ cùng cực, phục vào trong
cơ thể gây ra người lạnh, hôn mê giống như âm chứng, chỉ khác ở chỗ là
trong lạnh nhưng không thích đắp ấm, thần khí tuy hôn mê nhưng sắc mặt
vẫn tươi, mạch tuy Trầm nhưng Hoạt và có lực.



Khi trị liệu, phải dùng thuốc Hàn.
- Âm cực tựa Dương : Do hàn tà đến chỗ cùng cực, đẩy dương hỏa ở
trong ra ngoài, gây ra mình nóng, buồn phiền, khát nước, giống như dương
chứng nhưng chỉ khác ở chỗ mình nóng mà thích đắp chăn ấm, miệng khát
mà uống nước lạnh vào lại mửa ra ngay. Mạch thường Trầm Tế, không lực.
Khi trị liệu, phải dùng thuốc nhiệt (ôn nóng), nếu dùng lầm thuốc
hàn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
d) Âm Thăng Dương Giáng
- Huyết thuộc âm, do đó, phải thăng (đi lên), nếu huyết hư, không đi
lên được, phần trên không được huyết nuôi dưỡng, gây chóng mặt, hoa
mắt nguyên nhân do âm hư, cần bổ âm.
- Khí thuộc dương, phải giáng (đi xuống), khí không làm tròn chức
năng, thay vì đi xuống lại đi lên, gọi là khí nghịch gây ra chứng hen suyễn,
khó thở, nguyên nhân do khí nghịch, cần điều chỉnh ở khí.
3. ÂM DƯƠNG VÀ DƯỢC LIệU
Dùng nguyên lý Âm Dương áp dụng vào dược liệu đã được người xưa
áp dụng một cách khoa học và có hiệu quả. Hiện nay, nhiều nước trên thế
giới đã bắt đầu chú ý đến vấn đề này. Việc áp dụng nguyên lý Âm Dương
vào dược liệu không phải là một việc dễ vì đòi hỏi nhiều yếu tố. Ở đây,
chúng tôi tạm nêu ra một số nguyên tắc để tùy nghi áp dụng.
a) Về Tác Dụng
- Các vị thuốc có tác dụng Thăng (đi lên) thuộc âm. Thí dụ : Ma
hoàng, Quế
- Các vị thuốc có tác dụng giáng (đi xuống) thuộc dương. Thí dụ :
Mang tiêu, Mộc hương
b) Về Trọng Lượng
+ Các vị thuốc có trọng lượng nhẹ, xốp, thuộc âm. Thí dụ : Các loại lá
(lá dâu, lá Cối xay ).
+ Các vị thuốc có trọng lượng nặng, cứng, thuộc dương. Thí dụ : Bách
bộ, Mẫu lệ

c) Về Tính Chất
- Các vị thuốc có tính Hàn (lạnh), Lương (Mát) thuộc âm. Thí dụ : Cỏ
mực, Hoàng bá
- Các vị thuốc có tính Nóng (Nhiệt), ấm (ôn) thuộc dương. Thí dụ :
Trần bì, Phụ tử
Việc phân chia âm dương cho dược liệu, chỉ có tính cách tương đối,
trên lâm sàng, nhiều khi còn phải dựa theo Tứ khí, Ngũ vị nữa.
Việc phân biệt đặc tính âm dương của dược liệu rất quan trọng trong
việc trị liệu. Thí dụ : Một bệnh thuộc dương chứng, thực chứng cần phải tìm
vị thuốc mang đặc tính âm để ức chế bớt dương, lập lại sự quân bình âm
dương. Nếu không nắm vững, cho những vị thuốc mang đặc tính dương vào
sẽ làm bệnh tăng hơn (như đổ dầu thêm vào lửa), có khi nguy hiểm đến tính
mạng người bệnh.






4. ÂM DƯƠNG VÀ CHÂM CỨU
A Âm Dương và Kinh Lạc
a) Theo Nguyên Tắc Thăng Giáng
Theo nguyên tắc : "Âm thăng, Dương giáng" (âm đi lên, dương đi
xuống). Đứng thẳng, giơ tay lên trời ta có :
- Các kinh âm ở tay, đi lên, tức đi từ vùng nách, ngực lên ngón tay
(theo chiều ly tâm). Các kinh Dương ở tay, đi xuống, tức từ các ngón tay đi
vào ngực, nách (theo chiều hướng tâm).
- Các kinh âm ở chân, đi lên, tức từ các ngón chân đi lên đầu mặt
(theo chiều hướng tâm). Các kinh dương ở chân đi xuống, tức từ đầu mặt đi
xuống chân (theo chiều ly tâm).

Cần ghi nhớ hướng đi của các đường kinh vì rất cần thiết trong việc
áp dụng nguyên tắc Bổ tả trong châm cứu.
b) Theo Nguyên Tắc Trong Ngoài
Âm trong, dương ngoài thì : Các kinh ở phía trong chân, tay thuộc
âm(Phế, Tâm, Tâm bào, Thận, Can, Tỳ). Các kinh ở phía ngoài chân tay
thuộc dương (Đại trường, Tiểu trường, Tam tiêu, Bàng quang, Đởm, Vị).
Ngoài ra, Bụng thuộc Âm nên Nhâm mạch thuộc âm.
Lưng thuộc dương nên Đốc mạch thuộc Dương.
B. Âm Dương Và Huyệt
Để phân biệt huyệt vị theo âm dương, có thể theo 1 số nguyên tắc sau
:
a) Bên trái là dương, bên phải là âm : Do đó, các huyệt bên trái mang
đặc tính dương (hưng phấn) gọi là Dương huyệt. Các huyệt bên phải mang
đặc tính âm (ức chế) gọi là âm huyệt. Việc phân biệt âm huyệt, dương huyệt
có giá trị rất lớn trong việc chọn huyệt điều trị cho thích hợp.
Thí dụ : Bệnh về Phế.
- Người bệnh đi nắng về, sốt, chảy máu mũi (máu cam). Biện chứng
bệnh như sau : Đi nắng về sốt là bệnh cấp tính, thực chứng. Mũi chảy máu là
do Hỏa khí của Phế vượng (Mũi có liên hệ đến Phế vì Nội Kinh ghi : Phế
khai khiếu ở mũi, Máu màu đỏ, thuộc Hỏa). Đây là thực chứng, áp dụng
nguyên tắc. "Thực tắc tả", do đó, cần tả Hỏa của Phế, tức tả Dương hỏa
huyệt của Phế là huyệt Ngư tế bên trái (Ngư tế là hỏa huyệt của Kinh Phế,
bên trái thuộc Dương).
Người bị bệnh lao phổi lâu năm, ho ra máu. Biện chứng bệnh như sau
: Bệnh lâu năm thuộc Hư chứng. Ho ra máu là hỏa của Phế vượng (vì tiếng
ho là tiếng của Phế, máu màu đỏ thuộc hỏa). Vì đây là bệnh lâu ngày, hư
chứng do âm hỏa suy, không ức chế được dương kiến dương hỏa bùng lên.
Áp dụng nguyên tắc "Hư tắc bổ" cần bổ Âm hỏa huyệt của Phế tức là huyệt
Ngư tế bên phải (Ngư tế là hỏa huyệt của kinh Phế, bên phải thuộc âm).
Cũng bệnh về phế, cũng huyệt Ngư tế mà trường hợp thứ nhất dùng

huyệt ở bên trái, trường hợp 2 lại dùng huyệt bên phải. Nếu không phân biệt
được âm dương của huyệt sẽ không bao giờ sử dụng huyệt 1 cách chính xác
được.
b) Các huyệt của kinh âm (mặt trong chân tay) thuộc âm, các huyệt
của kinh dương (mặt ngoài chân tay) thuộc dương.
c) Các huyệt thuộc Nhâm mạch (đường giữa bụng) thuộc âm. Các
huyệt thuộc Đốc mạch (đường giữa sống lưng) thuộc dương.
d) Những huyệt nào không nằm vào các đường kinh âm hoặc dương
có thể dựa vào vị trí hoặc tác dụng của huyệt để xác định đặc tính âm dương
cho huyệt đó :
Thí dụ : Huyệt Ấn đường, khi kích thích, tiết ra chất Endorphin, làm
giảm đau (có tác dụng ức chế) do đó, mang đặc tính âm.
5. ÂM DƯƠNG VÀ ĐIỀU TRỊ
Điều trị là lập lại sự quân bình Âm dương bằng nhiều phương pháp
khác nhau : Châm cứu, uống thuốc
a) Nguyên tắc chung
Bệnh do dương thịnh, phải làm suy giảm phần dương (Tả dương).
Bệnh do âm thịnh, phải làm suy giảm phần âm (Tả âm).
Bệnh do dương hư phải bổ dương, Bệnh do âm hư phải bổ âm.


b) Về thuốc
- Bệnh về Âm, dùng thuốc Dương (ôn, nhiệt) để chữa.
- Bệnh về Dương, dùng thuốc Âm (hàn, lương) để chữa.
c) Về châm cứu
- Bệnh nhiệt dùng châm, Bệnh hàn dùng cứu.
- Bệnh thuộc Tạng (âm) dùng các Du huyệt ở lưng (dương) để chữa.
- Bệnh thuộc Phủ (dương), dùng các huyệt Mộ ở ngực, bụng (âm) để
chữa.
Dựa theo nguyên tắc : "Theo dương dẫn âm và theo âm dẫn dương.

6. ÂM DƯƠNG VÀ PHÒNG BỆNH
- Người mang nhiều dương tính, nên ăn các loại có tính chất âm,
người mang nhiều âm tính, nên dùng các loại có tính dương.
- Mùa nóng nực, mặc quần áo mỏng, ở nơi thoáng mát, ăn nhiều rau
quả có tính mát để chống lại cái nóng (dương).
- Mùa rét, mặc ấm, ở nơi ấm áp, ăn thức ăn nóng ấm để chống lại cái
rét (âm).
- Vừa đi mưa về, bị mưa ướt trong khi mưa, nước mưa mang nhiều
điện tích dương, nên để chân không, đứng trên đất, dội nước nóng để dẫn
dương xuống.
- Ở thành phố công nghiệp, bầu khí quyển mang nhiều iôn âm do ô
nhiễm không khí, nên đi chân đất và tắm nước nóng để điều hòa âm dương.
- Dương sinh dương, cơn nóng giận, tức tối sẽ sinh nóng giận tức tối
khác cần làm âm hóa chúng bằng những tư tưởng và hành động âm như
nghĩ đến những sự yên tĩnh, hoà bình dùng những lời nói êm dịu, nhẹ
nhàng đến những nơi thanh tĩnh, yên lặng
- Âm sinh âm, sự chán nản, buồn phiền sẽ dẫn đến chán nản buồn
phiền khác Cần làm dương hóa chúng bằng những tư tưởng và hành động
dương : hoạt động tích cực, hăng say dùng những lời nói quyết đoán phấn
khởi đến những nơi sinh hoạt
7. ĐIỀU HÒA ÂM DƯƠNG
- Từ ngàn xưa, cha ông chúng ta đã biết điều hòa âm dương : Vua
Hùng, khi chấp nhận ý nghĩa : Bánh dày, hình tròn, tượng trưng cho trời
(Dương) và bánh chưng, hình vuông, tượng trưng cho đất (Âm), là thức ăn
lý tưởng nhất, đã nói lên được quan niệm hòa hợp âm dương trong thức ăn.
- Lời cầu chúc 'Mẹ tròn con vuông' cho sản phụ khi sinh cũng đã nói
lên ý tưởng hoàn hảo nhất của lời cầu chúc.
- Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng đã biết điều hòa âm
dương khá tốt. Cụ thể là, khi ăn nước mắm, người ta cho vào ít chanh (vị
chua - âm), và cho thêm ít đường (vị ngọt - dương) Đó là những thói quen

rất tốt mà chúng ta cần duy trì.
- Để chống lại với những thay đổi của thiên nhiên, cơ thể chúng ta
cũng tự điều chỉnh để tạo mức quân bình cho cơ thể. Thí dụ : Thân nhiệt của
chúng ta bao giờ cũng khoảng 37
0
C. Khi trời lạnh, máu trong người cũng bị
ảnh hưởng lạnh, khi máu đi ngang qua vùng đồi thị sau não, các trung tâm
Giao cảm ở đó bị kích thích làm cho mạch máu ngoại biên co lại, da gà nổi
lên làm cho thân nhiệt tăng lên. Ngược lại, nếu nhiệt độ quá cao làm cho
máu bị nóng, các trung tâm Đối giao cảm bị kích thích làm dãn mạch máu
ngoại biên, gây xuất mồ hôi làm nhiệt độ giảm xuống.
Như vậy, bình thường, trong thiên nhiên cũng như trong cơ thể ta luôn
có những điều chỉnh hoàn hảo để duy trì, nếu ta biết cách gìn giữ tốt chức
năng qúy báu đó. Khi ta làm xáo trộn trật tự đó, chính là lúc ta bị bệnh.
BIỂU ĐỔ TỒNG KẾT ÂM DƯƠNG
LOẠI

ÂM DƯƠNG
Tính
Chất

Thể
Biểu


Thực
Ngũ
Tĩnh, lạnh, mát,
nước, tối, bên phải, ức chế,
số chaün

Bên trên, bên trong,
phía trước (Bụng), tạng,
huyết


Chua, mặn, đắng.
Động, nóng, ấm, lửa,
ngày, bên trái, hưng phấn,
số lẻ.
Bên dưới, bên ngoài,
phía sau (Lưng), phủ, khí.
Biểu
Thực
Cay, ngọt (nhạt).
Nhiệt, thử, phong.
vị
Ngũ
khí
Châm
cứu
Mạch
Chứng
trạng
Hàn, thấp.
Kinh âm, Nhâm
mạch, huyệt bên phải, ở
bụng, huyệt gây ức chế.
Trầm, Trì, Vi,
Nhược, Không lực.
Mặt xám xanh, nằm

im, tiêu tiểu nhiều, bệnh
phát chậm, mãn tính
Kinh dương, Đốc
mạch, huyệt bên trái, ở
lưng, huyệt gây hưng phấn.
Phù, Hồng, Huyền,
Sác, Hữu lực
Mặt đỏ, hồng, sốt,
khát, nóng nẩy trong người,
đại tiểu tiện khó, ít, bệnh
phát nhanh, cấp tính

Để tổng kết về học thuyết Âm Dương, xin mượn lời của thiên "Âm
Dương Ly Hợp Luận" (TVấn 6) : "Âm Dương giả, sổ chi khả thập, Thôi chi
khả bách, Sổ chi khả thiên, Thôi chi khả vạn vạn chi đại, Bất khả thăng sổ,
Nhiên kỳ yếu nhất giả". (Âm Dương đó, đếm có thể mười, suy rộng có thể
trăm, đếm có thể ngàn, suy rộng có thể hàng vạn, rất to lớn, không thể đếm
hết, song tóm lại chỉ có Một vậy).
- Thiên "Tứ Khí Điều Thần Đại Luận" ghi : "Cố Âm Dương tứ thời
giả, vạn vật chi chung thỉ dã, tử sinh chi bản dã. Nghịch chi tắc tai hại sinh,
tùng chi tắc hà tất bất khởi, thi vị đắc đạo Tùng Âm Dương tắc sinh,
nghịch chi tắc tử " (Cho nên Âm Dương tứ thời là chung thỉ của vạn vật, là
gốc của sự sống chết. Nếu nghịch với nó thì sẽ tai hại, thuận với nó thì bệnh
tật sẽ không thể xẩy ra, đó gọi là đắc đạo Thuận theo Âm Dương thì sống,
nghịch lại với Âm Dương thì chết ".


×