Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Ôn tập triết học duy vật biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.31 KB, 23 trang )

Nội dung 1:
Đề ra đường lối đổi mới, trong Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VI, Đảng coi
việc “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật
khách quan” là một trong những bài học kinh nghiệm quí báu.
Đ/c hãy phân tích cơ sở triết học và thực tiễn của bài học trên và nêu ý
nghĩa của nó trong thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay.
- Cơ sở triết học:
Quan điểm của triết học M-Lênin về vật chất, ý thức và quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức là cơ sở triết học của bài học trên.
1. Định nghĩa:
+ Vật chất: (Nêu định nghĩa vật chất của Lênin)
+ Ý thức? (Nêu bản chất của ý thức)
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a) Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
• Vật chất sinh ra ý thức. Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất
tồn tại khách quan độc lập với ý thức, là nguồn gốc của ý thức. Mọi
sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với thế giới vật chất. Ý
thức tồn tại phụ thuộc vào dạng vật chất có tổ chức cao là óc người.
Óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Do vậy, bộ óc có ảnh
hưởng trực tiếp đến phản ánh có ý thức của con người.
• Vật chất qui định nội dung của ý thức. Sự phản ánh thế giới vật chất
càng phong phú thì nội dung của ý thức càng phong phú.
• Vật chất biến đổi thì sớm muộn ý thức cũng biến đổi theo. Tuy
nhiên ý thức có tính độc lập tương đối nên sự biến đổi của ý thức có
thể không diễn ra đồng thời với sự biến đổi của vật chất.
1
Vai trò của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã hội được bộc lộ ở
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; giữa đời sống vật chất
với các lĩnh vực tinh thần, tư tưởng nói chung.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất
• Ý thức tác động trở lại vật chất theo cả hướng tích cực và tiêu cực.


Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan thì có tác dụng thúc
đẩy, góp phần cải biến thế giới vật chất. Ý thức không phản ánh
đúng hiện thực khách quan thì có thể suy giảm, phá hủy sức mạnh
vật chất.
• Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
của con người. Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt
động, hành động của con người; hình thành nên những mục tiêu,
kế hoạch, ý chí, biện pháp cho hoạt động của họ; nó có thể quyết
định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay
thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
• Xã hội càng phát triển, vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Trong
thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, kinh tế tri thức đã tạo ra những sự phát triển vượt bậc về năng
suất lao động. Con người trong thế giới hiện đại đang khai thác
những sức mạnh vật chất tiềm tàng trong tự nhiên, trong xã hội và
trong chính bản thân mình. Tất cả những việc làm đó là nhờ có tri
thức khoa học dẫn đường, nhờ có ý chí vươn lên để làm chủ xã
hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận của quan điểm
(nguyên tắc) khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm
khách quan đỏi hỏi. (nêu 4 đòi hỏi của quan điểm khách quan)
2
- Cơ sở thực tiễn:
* Trước đổi mới mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
- Bệnh chủ quan duy ý chí là gì?
- Thực chất của căn bệnh này ?
- Nguyên nhân dẫn đến bệnh chủ quan duy ý chí:
+ Bệnh chủ quan duy ý chí là sự thể hiện về trình độ văn hoá, khoa
học của chủ thể nhận thức có thể khẳng định rằng, ở một mức độ nào

đó, người ta không thể có được tư duy biện chứng khoa học khi trình
độ văn hoá, khoa học chưa đạt đến một chuẩn mực cần có. Vì vậy, sự
yếu kém về trình độ văn hoá, khoa học sẽ tất yếu dẫn đến tư duy kinh
nghiệm và phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí.
+ Do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận mà dẫn đến lãng quên việc
thường xuyên chủ động nâng cạo năng lực tư duy lý luận (trong đó
bao gồm cả quá trình học tập lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn). Về
điểm này, Engen đã từng khẳng định: "Tư duy lý luận chỉ là một đặc
tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta. Năng lực ấy cần phái
được phát triển hoàn thiện Vì vậy, để khắc phục tình trạng yếu kém
đó, cách trước tiên và chủ yếu là phải học tập, rèn luyện lý luận. của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Tựu trung, bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận
thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói
riêng.
Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách lược
cách mạng và sự cụ thể hoá đường lối đó bằng các chủ trương, chính sách và
pháp luật, nếu bị sự can thiệp, áp đặt của ý muốn chủ quan tự phát sẽ làm nguy
3
hại nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước mà trước mắt cũng như lâu dài,
hậu quả của nó khó có thể lường trước được.
Có thể sau khi chủ trương, đường lối bị thất bại do bệnh chủ quan gây
nên, những người hoạch định chúng sớm nhận ra sai lầm, do đó chúng có thể
được khắc phục, sửa chữa cho phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu của
thực tiễn. Nhưng cũng có thể xảy ra các tình trạng sau đây: 1) không nhận thức
được nguồn gốc sai lầm về mặt tư duy, nhận thức, 2) nhận thức được nguồn gốc
sai lầm đó nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục.
Trong trường hợp thứ hai, ngoài nguyên nhân hạn chế về trình độ nhận
thức, trình độ lý luận dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa, sai
lầm, theo chúng tôi, còn có nguyên nhân chủ quan khác. Đó là, do tính bảo thủ

hoặc vì lợi ích cá nhân nên chủ thể tìm cách che giấu khuyết điểm, sai lầm chủ
quan, tìm cách thuyết minh cho "sự sáng tạo hợp quy luật" hoặc tìm cách đổ lỗi
cho người khác, hoặc cho nguyên nhân khách quan Trong tình hình đó, thay
cho việc tìm cách khắc phục sai lầm thì có thể là thái độ thời ơ, chờ đợi sự may
rủi và do đó, sai lầm càng trở nên nghiêm trọng.
Như vậy, nguyên nhân lẫn trong hậu quả. Bệnh chủ quan duy ý chí còn
dẫn đến tệ mệnh lệnh hành chính, hình thức chủ nghĩa, bệnh gia trưởng độc
đoán chuyên quyền, ban phát đặc ân, tệ sùng bái cá nhân, tham ô, lãng phí, coi
thường người lao động
Ở Việt Nam, trong thời kỳ xây dựng CHXH trước đây, chúng ta cũng đã
mắc phải căn bệnh này. Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan
trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng
về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu
quá cao trong xây dựng cơ bản và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và xây
dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không có được một đường
lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ
4
quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với
tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Là căn bệnh không chỉ do yếu kém về trình độ nhận thức, trình độ lý luận
mà còn là sản phẩm của một nền sản xuất nhỏ lạc hậu kéo dài, đến lượt nó,
bệnh chủ quan duy ý chí trở thành một trong những nguyên nhân làm cho nền
kinh tế bị đình đốn, sa sút. Do vậy, quá trình khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí phải là sự kết hợp giữa việc nâng cao trình độ nhận thức, trình độ lý luận,
trong đó bao hàm cả việc nắm vững phép biện chứng duy vật với việc đẩy
mạnh đổi mới và phát triển kinh tế.
+ Từ đổi mới đến nay do xuất phát từ thực tiễn VN, Đảng và nhà nước thực
hiện đổi mới toàn diện phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế, kinh tế-xã hội
phát triển.
- Ý nghĩa trong thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay:

+Đổi mới phát xuất phát từ thực tiễn VN
+Phải tuân theo quy luật khách quan, không nóng vội, chủ quan
+Phải chống bệnh chủ quan duy ý chí
+Chống chủ nghĩa khách quan, ỉ lại điều kiện vật chất
+Phát huy vai trò nhân tố chủ quan, ý thức tinh thần,vv…trong đổi mới

Nội dung 2:
Đề ra đường lối đổi mới, trong Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VI, Đảng coi
việc “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật
khách quan” là một trong những bài học kinh nghiệm quí báu.
Dựa vào mối quan hệ giữa vật chất và ý thức phân tích bài học trên và nêu
ý nghĩa của nó trong thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay.
1. Định nghĩa:
5
+ Vật chất: Định nghĩa vật chất của Lênin
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người một cách
tích cực, chủ động, sáng tạo trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a) Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
• Vật chất sinh ra ý thức. Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất
tồn tại khách quan độc lập với ý thức, là nguồn gốc của ý thức. Mọi
sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với thế giới vật chất. Ý
thức tồn tại phụ thuộc vào dạng vật chất có tổ chức cao là óc người.
Óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Do vậy, bộ óc có ảnh
hưởng trực tiếp đến phản ánh có ý thức của con người.
• Vật chất qui định nội dung của ý thức. Sự phản ánh thế giới vật chất
càng phong phú thì nội dung của ý thức càng phong phú.
• Vật chất biến đổi thì sớm muộn ý thức cũng biến đổi theo. Tuy
nhiên ý thức có tính độc lập tương đối nên sự biến đổi của ý thức có

thể không diễn ra đồng thời với sự biến đổi của vật chất.
Vai trò của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã hội được bộc lộ ở
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; giữa đời sống vật chất
với các lĩnh vực tinh thần, tư tưởng nói chung.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất
• Ý thức tác động trở lại vật chất theo cả hướng tích cực và tiêu cực.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan thì có tác dụng thúc
đẩy, góp phần cải biến thế giới vật chất. Ý thức không phản ánh
đúng hiện thực khách quan thì có thể suy giảm, phá hủy sức mạnh
vật chất.
6
• Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
của con người. Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt
động, hành động của con người; hình thành nên những mục tiêu,
kế hoạch, ý chí, biện pháp cho hoạt động của họ; nó có thể quyết
định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay
thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
• Xã hội càng phát triển, vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Trong
thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, kinh tế tri thức đã tạo ra những sự phát triển vượt bậc về năng
suất lao động. Con người trong thế giới hiện đại đang khai thác
những sức mạnh vật chất tiềm tàng trong tự nhiên, trong xã hội và
trong chính bản thân mình. Tất cả những việc làm đó là nhờ có tri
thức khoa học dẫn đường, nhờ có ý chí vươn lên để làm chủ xã
hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận của quan điểm
(nguyên tắc) khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm
khách quan đỏi hỏi.
Thứ nhất, vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức, ý thức chỉ là sự

phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người, Vì vậy, trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ
thực tế khách quan, hành động theo quy luật khách quan. Không được lấy ý
muốn chủ quan thay cho điều kiện khách quan. Cần tránh thái độ chủ quan, duy
ý chí, nóng vội, định kiến, không trung thực.
Thứ hai, ý thức có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, phải thấy được vai trò
tích cực của ý thức, tinh thần để sử dụng có hiệu quả các điều kiện vật chất hiện
7
có. Nghĩa là, phải biết động viên tinh thần, phát huy vai trò tích cực, chủ động,
sáng tạo của ý thức, tinh thần vượt khó vươn lên… Trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn cần phải nâng cao trình độ tri thức, bồi dưỡng, rèn luyện tư duy
trí tuệ, trình độ lý luận.
Thứ ba, cần tránh rơi vào “chủ nghĩa khách quan” tức là tuyệt đối hoá điều
kiện vật chất, ỷ lại, trông chờ vào điều kiện vật chất kiểu “Đại lãn chờ sung”,
không chịu cố gắng, không tích cực, chủ động vượt khó, vươn lên.
Thứ tư, cần chống chủ nghĩa chủ quan - tuyệt đối hoá vai trò của ý thức,
của ý chí, cho rằng ý chí, ý thức nói chung có thể thay được điều kiện khách
quan, quyết định điều kiện khách quan.
- Ý nghĩa trong thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay:
+ Đổi mới phát xuất phát từ thực tiễn VN
+ Phải tuân theo quy luật khách quan, không nóng vội, chủ quan
+ Phải chống bệnh chủ quan duy ý chí
+ Chống chủ nghĩa khách quan, ỉ lại điều kiện vật chất
+ Phát huy vai trò nhân tố chủ quan, ý thức tinh thần,vv…trong đổi mới
Nội dung 3:
Trong "Bút ký triết học", V.I. Lê nin viết: "Phát triển là một cuộc đấu tranh
giữa các mặt đối lập ".
Đồng chí hãy phân tích cơ sở triết học của luận điểm trên và nêu ý nghĩa
của vấn đề này đối với việc “thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình trong

Đảng” trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay?
- Cơ sở triết học của luận điểm chính là quan điểm triết học M-Lênin về
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
8
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được thể hiện thông
qua các khái niệm sau:
Các khái niệm
• Mặt đối lập biện chứng?Nêu VD
• Mâu thuẫn biện chứng ?Nêu VD
• Thống nhất của các mặt đối lập được hiểu theo 3 nghĩa:
Thứ nhất, các mặt đối lập nương tựa vào nhau, làm điều kiện, tiền đề tồn
tại cho nhau.
Ví dụ, đồng hoá cần đến dị hoá và dị hoá cần đến đồng hoá. Giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản phải nương tựa vào nhau.
Thứ hai, giữa hai mặt đối lập có những yếu tố đồng nhất, giống nhau,
tương đồng nhau, do vậy chúng có thể chuyển hoá cho nhau.
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập diễn ra dưới nhiều hình thức.
+ Hình thức thứ nhất là chuyển hoá từng mặt, từng khía cạnh của mặt đối
lập này sang mặt đối lập khác.
+ Hình thức thứ hai là có thể mặt đối lập này chuyển thành mặt đối lập
khác. Ví dụ, trong một số trường hợp cụ thể, thiện có thể trở thành ác và ngược
lại.
+ Hình thức thứ ba là có thể cả hai mặt đối lập đều bị triệt tiêu và chuyển
thành những mặt đối lập mới. Chẳng hạn, khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, cả
hai giai cấp chủ nô và nô lệ căn bản bị triệt tiêu, hai giai cấp mới là địa chủ
phong kiến và nông dân hình thành.
Thứ ba, giữa hai mặt đối lập có trạng thái cân bằng, tác động ngang nhau.
Ví dụ, lúc đồng hoá và dị hoá ngang nhau thì con người không no, không
đói. Trong xã hội, đó là thời kỳ quá độ - thời kỳ đan xen giữa cái cũ và cái mới,
9

chưa cái nào thắng cái nào; cái cũ đã lỗi thời nhưng chưa mất đi, cái mới tuy
tiến bộ nhưng còn non nớt chưa khẳng định được ưu thế của nó.
• Đấu tranh của các mặt đối lập?
Chính thông qua đấu tranh mà các mặt đối lập phải điều chỉnh lại cho
phù hợp với sự vận động biến đổi của chúng cũng như phù hợp với những điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử mới. Chính đấu tranh mới làm cho những cái cũ, cái lỗi
thời có thể mất đi và cái mới, cái tiến bộ có thể ra đời. Trong các xã hội có giai
cấp đối kháng, ở mỗi thời đại, nhờ có những cuộc đấu tranh của quần chúng
nhân dân mà giai cấp thống trị phải điều chỉnh lại các mối quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội và điều đó đã làm cho các hình thái kinh tế - xã hội vận động từ
thấp đến cao.
• Thống nhất giữa các mặt đối lập là tương đối, đấu tranh giữa các
mặt đối lập là tuyệt đối, vì ngay trong sự thống nhất của các mặt đối lập cũng
hàm chứa những nhân tố phá vỡ sự thống nhất đó. Mọi sự thống nhất của các
mặt đối lập chỉ có thể xét về một mặt nào đó, một phương diện nào đó mà thôi.
Đấu tranh của các mặt đối lập diễn ra thường xuyên, liên tục, trong tất cả quá
trình vận động, phát triển của sự vật;
Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
• Theo nghĩa chung nhất mâu thuẫn là sự tác động qua lại của các
mặt đối lập. Theo nghĩa đó, bất kỳ sự vật nào cũng chứa mâu
thuẫn. Không ở đâu không có mâu thuẫn và không bao giờ không
có mâu thuẫn.
• Theo nghĩa thứ hai, mâu thuẫn là sự bất đồng, sự không phù hợp,
sự mất cân bằng giữa các mặt đối lập. Mâu thuẫn trong trường hợp
này được hiểu là điểm đỉnh của sự khác biệt giữa các mặt đối lập,
10
là sự phát triển của các yếu tố không phù hợp, những sự trái ngược
giữa chúng.
• Mỗi sự vật không phải chỉ có một mâu thuẫn mà có thể có rất
nhiều mâu thuẫn và vai trò của các mâu thuẫn này đối với sự phát

triển của sự vật không giống nhau. Vì vậy, triết học mácxít đã chia
mâu thuẫn thành các loại khác nhau.
- Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta chia thành
mâu thuẫn thành bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, người ta
chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển của
sự vật trong một giai đoạn phát triển nhất định, người ta chia thành mâu thuẫn
chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu.
- Căn cứ vào quan hệ lợi ích, người ta chia thành mâu thuẫn đối kháng và
mâu thuẫn không đối kháng.
Dù hiểu mâu thuẫn theo bất kỳ nghĩa nào thì nó vẫn là nguồn gốc của sự
phát triển. Bởi lẽ, khi các mặt đối lập thống nhất với nhau thì sự vật còn là nó.
Nhưng khi mâu thuẫn từ khác biệt trở nên gay gắt cần giải quyết thi khi ấy sự
thống nhất cũ của sự vật mất đi, xuất hiện sự thống nhất mới, chính là sự vật
mới ra đời thay thế sự vật cũ. Sự thống nhất mới này lại mâu thuẫn nhau, rồi lại
được giải quyết, cứ như vậy sự vật vận động, biến đổi, phát triển. Nói cách
khác, khi hai mặt đối lập tác động lẫn nhau, cả hai mặt đối lập đêu biến đổi,
mâu thuấn biến đổi và được giải quyết thì mâu thuẫn cũ mất đi và làm sự vật
không còn là nó. Sự vật mới ra đời, mâu thuẫn mới lại xuất hiện. Cứ như vậy sự
vật vận động, phát triển.
- Ý nghĩa với việc thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình:
11
- Trong Đảng, trong mỗi con người nếu không có đấu tranh giữa cái đúng
và cái sai, giữa thiện và ác, phải và trái, tốt và xấu, giữa tiến bộ và lạc hậu, …
thì sẽ không có bất cứ một sự vận động, phát triển và tiến bộ nào.
- Công tác đấu tranh tự phê bình và phê bình là một trong những động
lực cho sự phát triển, vững mạnh của Đảng ta; đó cũng là nguyên tắc sinh hoạt
của đảng.
- Học tập và quán triệt quan điểm tự phê bình và phê bình của Chủ tịch

Hồ Chí Minh.
+ Tự phê bình trước, phê bình sau
+ Tự phê bình phải trung thực, chân thành
+ Khi phê bình phải có quan điểm KQ, tránh cá nhân, chủ quan (tránh lợi
dụng để bôi nhọ, vùi dập người khác), phải có quan điểm xây dựng trên tinh
thần đồng chí thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, tránh nể nang né tránh, dĩ hoà vi
quí. Nhìn chung, tự phê bình và phê bình phải vì cái chung, vì sự tiến bộ.
+ Tự phê bình và phê bình không chỉ luôn dùng mà còn khéo dùng.
- Tính tất yếu và vai trò của công tác tự phê bình và phê bình trong công
tác chỉnh đốn Đảng ở nước ta hiện nay.
+Muốn đoàn kết thống nhất trong đảng cần phải mở rộng tự phê bình và
phê bình;
+Tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyên đảng viên, nâng cao
trình độ lãnh đạo của đảng;
+Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng; một
đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình rồi tìm mọi cách để sửa chữa là
một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.
+ Tự phê bình và phê bình là 2 mặt thống nhất của công tác xây dựng đảng
+ Tự phê bình là điều kiện, cơ sở để thực hiện phê bình có hiệu quả
+ hê bình có hiệu quả lại là cơ sở để thúc đẩy tự phê bình tốt hơn
12
+ Phê phán quan điểm sai trái chỉ nhấn mạnh tự phê bình không thấy vai
trò của phê bình và ngược lại (liên hệ địa phương); quan điểm dĩ hòa vi quý
Nội dung 4:
Trong "Bút ký triết học", V.I. Lê nin viết: "Phát triển là một cuộc đấu tranh
giữa các mặt đối lập ".
Đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này
trong quá trình hội nhập quốc tế đối với nước ta hiện nay.
Phần giải thích luận điểm nêu nội dung quy luật mâu thuẫn giống như
câu 3

-Ý nghĩa của vấn đề trong hội nhập quốc tế:
Hội nhập quốc tế đối với nước ta hiện nay là quá trình chấp nhận mâu
thuẫn và tích cực giải quyết mâu thuẫn giữa cơ hội và thách thức, giữa nguy cơ
và thời cơ, đối tác và đối tượng, …
- Cơ hội, thời cơ:
+ Lần đầu tiên ta được hưởng qui chế tối huệ quốc, trong quan hệ quốc
tế, ta được bình đẳng không bị phân biệt đối sử; với mức thuế thấp;
+ Hàng vào nước ta nhìn chung rẻ hơn như điện tử, ô tô, …
+ Đầu tư vào nhiều hơn
+ Sự cạnh tranh sẽ thúc đẩy mạnh doanh nghiệp phát triển
+ Thúc đẩy đổi mới cơ chế chính sách trong nước nhanh hơn, thông
thoáng hơn;
+ Chúng ta tham gia vào trật tự kinh tế quốc tế; có nơi để kiện cáo.
- Nguy cơ, thách thức:
13
+ Hoà nhập không cẩn thận sẽ hoà tan, mất độc lập tự chủ (sân chơi, luật
chơi của người ta, chúng ta buộc phải chấp nhận);
+ Cạnh tranh diễn ra gay gắt, quyết liệt hơn;
+ Kết cấu cơ sở hạ tầng (điện, cảng, đường xá, bến cảng, …) không theo
kịp hội nhập;
+ Nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao thiếu, bất
cập.
+ Am hiểu luật nước ngoài bằng tiếng anh yếu kém.
- Hai mặt này tồn tại một cách KQ, vừa đấu tranh vừa thống nhất với
nhau và trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá cho nhau. Những
nguy cơ, thách thức nếu khéo giải quyết lại có thể chuyển thành cơ hội; ngược
lại, cơ hội mà chúng ta không biết tận dụng hoặc bỏ lỡ thì cũng dễ biến thành
nguy cơ. Cái quyết định là nội lực của ta, làm tốt hay không là do ta. Chúng ta
cần tích cực chủ động giải quyết mâu thuẫn bằng cách vừa hợp tác vừa đấu
tranh và tránh 2 thái cực:

+ Hợp tác mà không có đấu tranh thì hoà nhập dễ đi đến hoà tan;
+ Quá đề cao đấu tranh một cách cứng nhắc, ở đâu lúc nào cũng thấy đối
tượng thì lại khó hội nhập.
Độc lập tự chủ hiện nay không phải là đóng cửa, khép kín; mà là tạo nên
sự tuỳ thuộc, phụ thuộc lẫn nhau nhiều nhất (tôi cần anh nhưng anh cũng cần
tôi), càng phụ thuộc lẫn nhau một cách đa dạng bao nhiêu thì càng độc lập bấy
nhiêu.
Tóm lại:
+ Hội nhập quốc tế của ta phải thực hiện vừa hợp tác vừa đấu tranh
+ Hợp tác để thực hiện đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
+ Đấu tranh để đi đến hợp tác cùng có lợi, cùng phát triển
14
+ Phê phán quan điểm sai chỉ nhấn mạnh hợp tác quên đấu tranh, dẫn tới mất
cảnh giác; hoặc chỉ nhấn mạnh đấu tranh quên hợp tác, dẫn tới quá tả…
+ Thời cơ và thách thức; trong thời cơ có thách thức, trong thách thức có thời
cơ,
+ Quan hệ quốc tế và dân tộc; nội lực và ngoại lực,
Nội dung 5 :
Trong bài "Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khoá I trờng Nguyễn Ái
Quốc" ngày 7-9-1957, Bác Hồ viết: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận
hớng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn
là lý luận suông"
Đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này
trong đấu tranh, khắc phục bệnh kinh nghiệm ở cán bộ hiện nay?
- Luận điểm trên có cơ sở lý luận là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn.
- Nêu định nghĩa thực tiễn là gì?
- Đặc trưng của thực tiễn (3 đặc trưng)
Hình thức cơ bản của thực tiễn (3 hình thức)

• Sản xuất vật chất;
• Hoạt động cải tạo xã hội – chính trị cũng như cải tạo các quan hệ
xã hội.
• Hoạt động thực nghiệm khoa học.
15
Mỗi hình thức hoạt động thực tiễn có vai trò, chức năng riêng không thể
thay thế, nhưng chúng quan hệ mật thiết với nhau, liên hệ tác động lẫn nhau.
Trong đó, sản xuất đóng vai trò quyết định đối với các hình thức khác. Giải
thích vì sao?
b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
* Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức.
- Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật
làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất. Trên cơ sở đó con người có hiểu biết
về chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp “vật liệu” cho nhận thức. Không có thực
tiễn không thể có nhận thức.
- Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời.
Nói khác đi, chính thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức phải giải quyết.
Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
- Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan của con người. Các cơ quan
cảm giác được rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn,
nghĩa là, thúc đẩy nhận thức phát triển.
- Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận
thức hiệu quả hơn.
*Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại.
Ngay từ thuở mông muội, để sống con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh,
tức là dể sống, con người phải nhận thức. Nghĩa là ngay từ khi con người xuất
hiện trên trái đất, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn.
Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được
vận dụng vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu

chuẩn đánh giá giá trị của tri thức – kết quả của nhận thức. Vì vậy, những tri
16
thức khoa học kết quả của nhận thức càng có ý nghĩa, giá trị khi càng được
nhiều người vận dụng vào thực tiễn.
Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức,
chủ nghĩa thành tích,… thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng, sẽ phải
trả giá.
*Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Theo triết học duy vật biện chứng, chân lý là những tri thức phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Ví dụ, mọi
kim loại đều dẫn điện… Điều này đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng.
Triết học duy vật duy vật khẳng định, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của
chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thông qua thực tiễn, con người mới “vật chất hoá” được
tri thức, “hiện thực hoá” được tư tưởng. Thông qua quá trình đó, con người có
thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm.
Từ những nội dung trên rút ra quan điểm thực tiễn trong nhận thức. Quan
điểm thực tiễn yêu cầu:
• Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người,
phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học phải gắn với hành. Phải chú trọng công tác tổng kết
thực tiễn để bổ sung, hoàn thành phát triển lý luận.
• Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận.
• Tránh tuyệt đối hoá thực tiễn và coi thường lý luận vì khi ấy sẽ rơi
vào bệnh kinh nghiệm. Tránh tuyệt đối hoá lý luận và coi thường
thực tiễn vì khi ấy sẽ rơi vào bệnh giáo điều.
- Vai trò của lý luận đối với hoạt động thực tiễn.
Lý luận là sự phát triển cao của nhận thức con người. Con người muốn
biến đổi được tự nhiên và xã hội thì cần phải có những hiểu biết về chúng,
nhưng những hiểu biết đó không có sẵn trong con người. Muốn có tri thức, con
17

người phải tác động vào thế giới khách quan bằng hoạt động thực tiễn. Trên cơ
sở đó, con người tích lũy được những tri thức kinh nghiệm. Những tri thức kinh
nghiệm mới chỉ đem lại sự hiểu biết về từng mặt riêng lẻ, bên ngoài của sự vật,
hiện tượng. Để nắm được cái tất yếu sâu sắc nhất, mối quan hệ bản chất của các
sự vật, hiện tượng, con người phải khái quát những tri thức kinh nghiệm thành
lý luận. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong
quá trình lịch sử"
(3)
. Lý luận được hình thành trên cơ sở khái quát kinh nghiệm
thực tiễn, song không phải cứ có kinh nghiệm thực tiễn là hình thành được lý
luận. Lý luận được hình thành thông qua hoạt động tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn của các nhà lý luận. Vì vậy, lý luận không thể ra đời một cách tự phát và
luôn luôn phải được bổ sung, phát triển bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới,
phong phú. Do tính độc lập tương đối của mình, lý luận có thể vượt trước các
dữ liệu thực tiễn. Nhưng xét đến cùng, lý luận không thể không dựa trên cơ sở
kinh nghiệm thực tiễn.
Vai trò của lý luận đối với hoạt động thực tiễn thể hiện ở chỗ: Lý luận
khoa học thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi
thế giới khách quan và chính thực tiễn. Nó đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ
đạo thực tiễn. Nó vạch ra phương hướng và phương pháp cho hoạt động thực
tiễn, nhằm biến đổi hiện thực khách quan theo hướng tiến bộ vì lợi ích con
người.
Lý luận có vai trò to lớn trong việc giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ
chức, tập hợp quần chúng cũng như định hướng họ trong cuộc sống và trong
hoạt động cách mạng. Vì vậy, lý luận khi đã thâm nhập vào quần chúng thì trở
thành sức mạnh vật chất vĩ đại.
(
3
Hồ Chí Minh: TT Nxb CTQG, H. 1996, t. 8, tr.497.

18
Lý luận với sức mạnh nội tại của mình, có thể dự kiến được xu hướng
vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng cũng như của thực tiễn. Nó
giúp con người chủ động, tự giác hơn trong hoạt động thực tiễn, tránh bớt được
mò mẫm, tự phát.
Lý luận có thể tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn.
Lý luận có vai trò tác động tích cực đối với thực tiễn, một khi nó phản ánh đúng
hiện thực khách quan và thâm nhập được vào quần chúng. Nếu lý luận sai lầm,
ảo tưởng, chủ quan, giáo điều, kinh nghiệm v.v sẽ tác động tiêu cực trở lại đối
với thực tiễn. Cho nên, phải coi trọng lý luận nhưng không được coi thường, hạ
thấp thực tiễn và tách rời lý luận khỏi thực tiễn.
-Ý nghĩa khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều:
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Quán triệt nguyên tắc này, có ý nghĩa phương pháp luận
quan trọng trong việc đấu tranh ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều.
Về bệnh kinh nghiệm: Kinh nghiệm đóng vai trò hết sức to lớn trong
nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Nhưng nếu coi kinh nghiệm là
tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi nhẹ lý luận, không chịu học tập lý luận thì
sẽ mắc bệnh kinh nghiệm. Người mắc bệnh kinh nghiệm thường nhân danh đề
cao thực tiễn để hạ thấp lý luận, coi thường lý luận. Bệnh kinh nghiệm có nhiều
tác hại, dễ dẫn tới việc coi thường lý luận, coi thường việc học tập lý luận, coi
nhẹ vai trò của cán bộ lý luận, của đội ngũ trí thức; dễ rơi vào lối suy nghĩ giản
đơn, tư duy áng chừng, đại khái. Trong hoạt động thực tiễn thì mò mẫm, tùy tiện,
sự vụ, gặp đâu hay đó, thiếu nhìn xa trông rộng v.v
Bệnh kinh nghiệm ở nước ta có nhiều nguyên nhân khác nhau: ảnh
hưởng tiêu cực của xã hội nông nghiệp cổ truyền; ảnh hưởng của tư tưởng
19
phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản; vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, không nắm được thực chất mối quan hệ biện chứng giữa kinh nghiệm

và lý luận.
Để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả căn bệnh này phải quán triệt tốt
trên thực tế sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, coi trọng cả lý luận và thực
tiễn; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn; nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân; từng bước khắc phục triệt để tư tưởng phong kiến, tư
tưởng tiểu tư sản. Đồng thời, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, đổi mới công tác
lý luận theo tinh thần Nghị quyết Trung ương năm Khoá IX của Đảng.
Về bệnh giáo điều: Nếu cường điệu lý luận, coi nhẹ thực tiễn, coi lý luận
là bất di bất dịch, tách lý luận khỏi thực tiễn, vận dụng lý luận không căn cứ
vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Ở nước ta có hai loại
giáo điều, đó là giáo điều lý luận biểu hiện ở việc học tập lý luận tách rời với
thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, câu chữ, tầm chương trích cú
v.v Giáo điều kinh nghiệm biểu hiện ở việc áp dụng dập khuôn, máy móc
kinh nghiệm của nước khác vào nước mình, của ngành khác vào ngành mình,
của địa phương khác vào địa phương mình v.v không tính đến những điều
kiện lịch sử - cụ thể. Ở nước ta tồn tại chủ yếu là loại giáo điều kinh nghiệm.
Bệnh giáo điều ở nước ta có nhiều nguyên nhân: sự yếu kém về trình độ lý luận
của cán bộ, đảng viên và nhân dân; tác động tiêu cực của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp; vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn v.v
Để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả cả hai loại giáo điều này, chúng
ta phải từng bước nâng cao trình độ tư duy lý luận cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân; hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; quán triệt tốt sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn v.v
Như vậy cả bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều ở nước ta ngoài những
nguyên nhân khác cùng có chung một nguyên nhân: vi phạm sự thống nhất giữa
20
thực tiễn và lý luận. Đó là thực chất, của cả hai căn bệnh này. Vì vậy, cùng với
các giải pháp khác thì quan trọng là phải quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn.
Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có thể bằng nhiều hình

thức phong phú khác nhau như: tổng kết thực tiễn; vận dụng các lý thuyết khoa
học vào sản xuất, vào cải tạo xã hội; đẩy mạnh sự hợp tác giữa các trung tâm
nghiên cứu với các cơ sở sản xuất; tăng cường hợp tác giữa các nhà lý luận và
các nhà hoạt động thực tiễn trong tổng kết kinh nghiệm thực tiễn v.v Trong
đó, tổng kết thực tiễn là biện pháp cơ bản, trực tiếp, quan trọng nhất.
Tổng kết thực tiễn là quá trình bằng tư duy khoa học với phương pháp
duy vật biện chứng phân tích, đánh giá, khái quát thực tiễn nhằm rút ra những
bài học cho chỉ đạo thực tiễn tiếp theo. Trên cơ sở của tổng kết thực tiễn, chúng
ta mới thấy rõ những ưu điểm của kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời phát hiện
hạn chế của nó, có căn cứ để không ngừng xem xét lại, bổ sung, sửa đổi, phát
triển lý luận. Đồng thời, có cơ sở để khái quát thành lý luận.
Tổng kết thực tiễn giúp chúng ta không bị dừng lại ở những tri thức kinh
nghiệm cụ thể, cá biệt; không bị trói buộc vào một thực tiễn cụ thể nhất định
hay những tình huống cá biệt với những cách thức, phương pháp hành động cũ.
Cho nên, tổng kết thực tiễn đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển
lý luận, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Đồng thời, tổng kết
thực tiễn sẽ góp phần đảm bảo trên thực tế sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Để tổng kết thực tiễn có hiệu quả thì phải đảm bảo được ba yêu cầu cơ
bản: Tính khách quan; tính khái quát cao và tính mục đích đúng đắn.
Những giải pháp khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, thực hiện chúng phải đồng bộ, nhất quán. Có như
vậy, chúng mới mang lại hiệu quả thiết thực.
+ Liên hệ bản thân.
21
Nội dung 6:
Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán",
V.I.Lênin viết: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận nhận thức"
Đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nói rõ ý nghĩa của vấn đề này
trong việc khắc phục bệnh giáo điều ở nước ta hiện nay.

Trong luận điểm trên, Lênin nói về vai trò của thực tiễn đối với lý luận nhận
thức.
Về thực tiễn: Trình bày như ở câu 5 (Định nghĩa, đặc trưng, hình thức
của thực tiễn; vai trò của thực tiễn đối với nhận thức )
Từ những nội dung trên rút ra quan điểm thực tiễn trong nhận thức. Quan
điểm thực tiễn yêu cầu:
• Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người,
phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học phải gắn với hành. Phải chú trọng công tác tổng kết
thực tiễn để bổ sung, hoàn thành phát triển lý luận.
• Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận.
• Tránh tuyệt đối hoá thực tiễn và coi thường lý luận vì khi ấy sẽ rơi
vào bệnh kinh nghiệm. Tránh tuyệt đối hoá lý luận và coi thường
thực tiễn vì khi ấy sẽ rơi vào bệnh giáo điều.
- Ý nghĩa của vấn đề này trong việc khắc phục bệnh giáo điều ở nước
ta hiện nay.
Nếu cường điệu lý luận, coi nhẹ thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch,
tách lý luận khỏi thực tiễn, vận dụng lý luận không căn cứ vào hoàn cảnh lịch
sử - cụ thể sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Ở nước ta có hai loại giáo điều, đó là
22
giáo điều lý luận biểu hiện ở việc học tập lý luận tách rời với thực tiễn, xa rời
cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, câu chữ, tầm chương trích cú v.v Giáo điều
kinh nghiệm biểu hiện ở việc áp dụng dập khuôn, máy móc kinh nghiệm của
nước khác vào nước mình, của ngành khác vào ngành mình, của địa phương
khác vào địa phương mình v.v không tính đến những điều kiện lịch sử - cụ
thể. Ở nước ta tồn tại chủ yếu là loại giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều ở
nước ta có nhiều nguyên nhân: sự yếu kém về trình độ lý luận của cán bộ, đảng
viên và nhân dân; tác động tiêu cực của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn v.v
Để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả cả hai loại giáo điều này, chúng

ta phải từng bước nâng cao trình độ tư duy lý luận cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân; hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; quán triệt tốt sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn v.v
+ Liên hệ bản thân:
23

×