Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Dấu ấn Huế trong văn học nghệ thuật.. pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.41 KB, 7 trang )

Dấu ấn Huế trong văn học
nghệ thuật
Thứ ba, 04 Tháng 1 2011 09:48
Dấu ấn Huế trong văn học nghệ thuật
vùng núi Ngự sông Hương
Cái mơ hồ bay bổng trong câu hò câu hát ở Huế xưa ẩn chứa một
cái gì bí ẩn trong tâm hồn người dân xứ Huế. Cùng với con sông
Hương và nét đẹp của người con gái Huế, cái bí ẩn của Huế tạo
cho Huế trở thành xứ thơ Việt Nam.

Trước tiên xin đề cập đến kiến trúc. Kiến trúc Huế là kiến trúc chắt
lọc những tinh túy của kiến trúc Ðại Việt và kiến trúc Chăm-pa. Bộ
mái với những đầu đao cong nặng nề mất cân đối với thân và đài
của miền Bắc được vuốt thẳng, điều chỉnh cho bộ mái tỷ lệ với
thân và đài (của ngôi nhà). Kích thước của Ngọ Môn, Hiển Lâm
Các khớp với tỷ lệ vàng. Bộ mái của kiến trúc Huế trông nhỏ
nhưng vào bên trong thấy nhà rất rộng. Các nhà lại được nối với
nhau bằng "vỏ cua" (trùng hiềm điệp ốc) để có đủ diện tích cần
dùng. Bộ mái với những đường nét thẳng liên tưởng đến các mái
tháp Chăm. Kiến trúc Huế không những tỷ lệ với chính nó mà còn
phải hài hòa với địa hình, với phong cảnh chung quanh và với kích
thước của chính người Việt Nam tạo dựng ra kiến trúc. Ðó là một
đặc điểm trái ngược với sự đồ sộ của kiến trúc Trung Hoa (ví dụ
kiến trúc Thập tam lăng). Mẫu mực của sự hài hòa này là kiến trúc
lăng Tự Ðức. Người ta thích đi tham quan lăng Tự Ðức nhiều lần
vì thấy những gì con người xây dựng ở ngôi lăng này như con voi,
con ngựa và ông quan đều gần gũi với con người Á Đông. Bước
qua thế kỷ XXI, thế giới rất quan tâm đến kiến trúc phong cảnh.
Bởi thế người ta rất bất ngờ khi tìm thấy từ thế kỷ XIX ở Huế đã
có kiến trúc phong cảnh khá hoàn chỉnh rồi. Cái yếu tố đó đã làm
cho văn hóa Huế "luôn luôn mới" - như UNESCO đã từng ca ngợi.



Nghệ thuật gần gũi với kiến trúc là mỹ thuật nói chung và hội hoạ
nói riêng. Trong thiên nhiên có 3 màu là đỏ vàng xanh, dùng ba
màu đó con người hòa thêm được 4 màu là cam, lục, chàm, tím
làm thành 7 màu căn bản. Với bảy màu đó các nghệ sĩ đã tạo ra
một rừng màu sắc mênh mông. Trong cái rừng màu sắc đó được
chia thành hai loại màu: màu nóng và màu mát (ton chaud và ton
froid). Người xứ lạnh thì thích màu nóng cho ấm, người xứ nóng
thích dùng lạnh cho mát. Người Huế ở vào cái chỗ bản lề của hai
vùng văn hóa Nam Bắc (Indo và Chine) nên họ không thể thích
màu nóng hay màu mát mà phải chọn một màu hòa thành từ hai
màu nóng và màu lạnh kia. Ðó là màu tím hòa từ màu đỏ (nóng) và
màu xanh (mát). Màu tím Huế ra đời từ trong sâu thẳm của ý thức
người Huế. Nhưng mà màu tím chưa tạo thành mỹ thuật. Cái thuật
làm cho màu tím trở nên đẹp là màu tím đó phải khoát lên thân
người con gái Huế tha thước bên dòng sông Hương trong xanh.

"Một chiều lang thang bên dòng Hương Giang, tôi gặp một tà áo
tím " (Trích lời nhạc phẩm Tà áo tím của Hoàng Nguyên)

Màu áo tím và nước sông xanh tạo thành một hiệu lực tương phản
(effet contrastant) làm rung động tơ lòng của nhạc sĩ Hoàng
Nguyên. Cho nên mỹ thuật cũng là cái thuật tìm những màu sắc đặt
cạnh nhau. Các nghệ nhân ghép sành sứ (mosáque) làm lăng vua
Khải Ðịnh là những bậc thầy trong việc tìm đặt những màu sắc
cạnh nhau hài hòa và đẹp. Cách chọn lựa các màu đặt cạnh nhau
thể hiện tình cảm của người nghệ sĩ, của các nghệ sĩ cùng có chung
một bản sắc văn hoá. Hoạ sĩ Phạm Ðăng Trí - cháu bà Từ Dũ Phạm
Thị Hằng, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Ðông Dương, qua nghiên
cứu Pháp lam ở Huế, ông đã tìm được cặp màu đẹp nhất của Huế.

Ðó là cặp màu CHÀM VÀNG. Hai màu chàm - vàng là hai màu
nguyên ủy gốc của hai dân tộc Chăm-pa (Chàm) và Việt (Vàng).
Cặp Chàm - Vàng cũng là màu dành cho các sư sãi của hàng trăm
ngôi chùa Phật ở Nam sông Hương (Chàm cũng gọi là Lam) và
màu vua chúa Nguyễn ở bờ bắc sông Hương (vàng). Phạm Ðăng
Trí vừa là họa sĩ, vừa là nhà nghiên cứu mỹ thuật Huế nên trong
tranh hiện đại của ông thể hiện màu sắc Huế rất rõ nét. Khi xem
triển lãm chung, người sành điệu chỉ cần xem cách sử dụng màu
sắc mà không cần xem tên tác giả họ cũng có thể tìm được đúng
tranh của Phạm Ðăng Trí. Phạm Ðăng Trí là bậc thầy xử dụng màu
sắc Huế cho nên nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật xem Phạm Ðăng
Trí là một trong những người đứng đầu giới họa sĩ Huế thế kỷ XX.

Cái yếu tố Bắc Nam, Chàm Việt rõ nét nhất có thể tìm thấy dễ
dàng nhất trong ca nhạc truyền thống Huế. Trong bất cứ một
chương trình ca Huế nào cũng thường bắt đầu bằng những làn điệu
Bắc vui tươi, mạnh mẽ như Cổ bản, Kim tiền, Xuân phong, Long
hổ, Tứ đại cảnh, Hành vân rồi dần dần nhập vào các làn điệu
Nam da diết sâu lắng như Nam bình, Nam ai, hay Ai giang nam.
Ðể chuyển mạch giữa hai làn điệu Bắc (hay Khách) vui tươi và
Nam thường có những bài hơi Xuân như Nam xuân thoang thoảng
không vui không buồn.

Ca Huế là sản phẩm của giọng Huế. Các nhà nghiên cứu cho rằng
có 4 giọng hát chính: Giọng óc, giọng cổ, giọng ngực và giọng
bụng. Tiếng Huế thuộc giọng cổ ở giữa. Qua nghiên cứu các điệu
hò ở Huế, hồi trước Cách mạng Tháng 8/1945, một khám phá của
nhạc sĩ Phạm Duy cho biết "nhạc Huế thuộc âm giai ngũ cung lơ
lớ, khác hẵn với âm giai điều hòa (gamme tempérée) của Âu Tây
và âm giai ngũ cung đúng của dân nhạc miền Bắc". Các cung bực

của hò Huế (hay ca Huế) có những cao độ (intervalles) non hơn
hay già hơn các cung bậc trong âm giai Âu Tây hay âm giai miền
Bắc. Các nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Phạm Ðình Chương, Phạm
Duy đã vận dụng các âm giai ngũ cung lơ lớ của Huế mà soạn
nên các nhạc phẩm bất hủ như Ðêm Tàn Bến Ngự; Tiếng Sông
Hương, Nước Non Ngàn Dặm Dù lời nhạc có đề cập đến các địa
danh ở Huế hay không, mỗi lần nghe tiếng các bài ca ấy ngân lên
mọi người đều biết đó là âm nhạc Huế. Cái chất lơ lớ của âm giai
ngũ cung ở Huế (theo Phạm Duy) tạo cho các câu hò câu hát của
Huế có không khí mơ hồ bay bổng giống như âm nhạc Chiêm
Thành hay xa hơn nữa là của Ấn Ðộ.

Xuân Diệu đến Huế học chỉ có một năm thôi (1936-1937) nhưng vì
anh mê ca nhạc Huế, anh bị thanh âm của ca nhạc Huế mê hoặc và
anh đã viết nên nhiều tuyệt tác thơ. Nhà thơ Huy Cận tri âm tri kỷ
của Xuân Diệu kể rằng: "Anh Xuân Diệu rất mê ca nhạc Huế, và
anh biết hát (hát khá hay) hầu hết các bài ca Huế từ Nam ai, Nam
bằng, Tứ đại cảnh, Cổ bản đến Phú lục, Lưu thủy, Kim tiền, Bình
bán, Phẩm tiết đến các điệu hò Mái nhì, Mái đẫy. . . Lúc tôi mới
kết bạn với Xuân Diệu (1936), một cái thú của tôi là nghe anh hát
Huế, Việc anh thuộc ca nhạc Huế có ảnh hưởng tốt cho sự phát
triển của thơ anh, chính anh cũng nhận rõ thế".

Chứng minh cho những tâm tình của Huy Cận về Xuân Diệu, tôi
xin trích bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu sau đây:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần!
Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.


Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh,
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình,
Vì nghe nương-tử trong câu hát
Ðã chết đêm rằm theo nước xanh.

Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi.
Long-lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê;
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
(Ngày nay)

Câu thơ kết thúc bài thơ: "Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê". Âm
nhạc là chiếc phi thuyền chuyển tải cái sầu vạn cổ của người dân
xứ Huế lên đến tận sao Khuê. Cái chất "sầu" rất dễ chạm vào tâm
hồn của các nhà thơ xứ Huế. Trước đó một trăm năm, người đồng
hương của Xuân Diệu là Tố Như đã đến Huế làm quan và cũng đã
thấy :

Hương Giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu
(Sông Hương trăng một mảnh/ muôn đời chung mối sầu).

Cái sầu đó đã ăn sâu vào trong hơi thở của người dân xứ Huế. Tố
Hữu đã viết rất đúng:


"Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương
Mái nhì man mác nước sông Hương
À ơi, tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường".

Hay :

"Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên"

Cái sầu trong tâm hồn Huế rất đa dạng. Có thể sầu về thân phận
làm người như "Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm". Sầu về
cuộc đời như "Củi một cành khô lạc mấy dòng". Sầu vì "Trời hành
cơn lụt mỗi năm Mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu ăn" (Phạm
Ðình Chương). Cũng có thể sầu vì nỗi nhớ nước như thi ông Ưng
Bình Thúc Giạ Thị:

"Trước Bến Văn Lâu
Ai ngồi ? / Ai câu ? / Ai sầu ? / Ai thảm ?
Ai thương ? / Ai cảm ? / Ai nhớ ?/ Ai mong ?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông ?
Ðưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non !"

Một đoạn thơ với toàn dấu hỏi (?). Các câu trả lời tác giả dành cho
người đọc. Mỗi người, mỗi hoàn cảnh, mỗi giai đoạn lịch sử có các
câu trả lời riêng. Với hào khí của miền Bắc, Chu Thần Cao Bá
Quát nhìn sông Hương với con mắt mạnh mẽ khác thường:

Trường giang như kiếm lập thanh thiên
(Con sông dài như lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh).


Bản sắc văn hóa Huế trong thi ca như thế đó. Vừa sâu lắng mang
tính siêu hình và vừa dữ dội mang tính cách mạng của đời thường.
Hai cái tính ấy xem như trái ngược nhau nhưng luôn luôn đi với
nhau giống như một câu đối. Không ai treo một vế đối nên không
ai có thể nói Huế là thâm trầm sâu lắng hay Huế là dữ dội cách
mạng. Huế là một đôi: sâu lắng và dữ dội. Huế bây giờ tựa bao giờ
như Bùi Giáng viết:

" Dạ thưa xứ Huế bây giờ,
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương."

Huế vẫn thế, vẫn cái phong cách của một vùng văn hóa đã được
định hình. Tuy nhiên, Huế cũng như sông Hương: sông Hương
ngày thường của thơ nhạc, của "Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng
phượng, Cố gái Kim Long yểu điệu chèo" (Nam Trân) và sông
Hương mùa lũ của mất mát, đau thương, đói khổ. Dù mỗi năm chỉ
xảy ra vài ba lần nhưng trong lòng người Huế vẫn luôn mang nặng
một con sông mùa lũ, đặc biệt là mùa lũ 1904, 1953 và 1999 vừa
qua. "Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương" nhưng dưới chân núi
Ngự, trên mặt nước sông Hương đã không thể nào phai nhạt những
sự kiện lịch sử mà không nơi nào có được.
Nguyễn Đắc Xuân

×