Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

KHÔNG GẮN BÓ VỚI QUÊ HƯƠNG KHÔNG THỂ CÓ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.53 KB, 9 trang )

Không gắn bó với quê hương, không thể có văn học nghệ thuật
Hồi ức của nhà thơ Huy Cận, Mai Hương ghi
"Với người làm văn học nghệ thuật, quê hương có vị trí vô cùng quan trọng. Nó là yếu tố ban đầu,
rất cơ bản tạo nên tâm hồn nghệ thuật, tâm hồn thơ. Không gắn bó với quê hương không thể có
nghệ thuật. Chính vì vậy, nói tới đời của người làm thơ, làm nghệ thuật không thể không nói tới
quê hương họ. Và, tôi cũng bắt đầu từ quê hương tôi".
Tôi sinh ra ở một làng sơn cước, dưới chân núi Mào Gà (núi có hình mào con gà), bên một nhánh
của con sông La là sông Ngàn Sâu (sông La có hai nhánh: Ngàn Sâu chảy qua quê tôi và Ngàn
Phố). Làng tôi hẻo lánh, cảnh hết sức đẹp nhưng nghèo lắm, đến nay vẫn nghèo. Xã tôi cách Linh
Cảm 6 km, cách huyện ly Đức Thọ 8 km, nhưng nó vắng vẻ vô cùng. Xuân Diệu có lần về quê tôi
và bảo: "Quê Huy Cận sao mà vắng vẻ, hắt hiu quá, nếu không vì thương bạn thì cũng chẳng về
thăm". Xã tôi ở sát chân núi nên chiều về sớm, giữa chiều đã sẫm tối như hoàng hôn. Ngày rút
ngắn lại. Ở xã tôi có nhiều cây cọ, ở Hà Tĩnh gọi là cây Tro, tạo không khí một cái gì rất hoang sơ,
cổ sơ, mà sau này Xuân Diệu bảo: "Quê hương này đã cho Huy Cận một vốn đất đai gì sâu thẳm
lắm, một vốn đất đai trong tâm hồn. Nó cô đọng lại tất cả quá khứ hàng trăm năm, hàng thế kỷ còn
vương lại trong làng xã; nó cắm sâu vào tâm hồn Huy Cận làm cho Huy Cận có vốn đất đai trong
tâm hồn".
Xã tôi ở rất đẹp. Chân núi chạy dọc bờ sông, có cánh đồng trải dài, trong đó có gieo cả lúa nước,
nhưng chủ yếu là ruộng cạn. Ruộng cạn cấy lúa trỉa (gieo hạt thẳng), trồng khoai, ngô, đậu đen,
đậu xanh, đậu trắng hoặc trồng mía. Mùa xuân, ngô vừa nhú mầm lên, cả cánh đồng dậy lên mầu
xanh ánh tuyết rất đẹp. Tưởng như có thể cắt xén từng mẩu đất mà nhai, mà nuốt được!
Hồi nhỏ, tôi sống ở quê, sống một tuổi thơ rất thôn dã. Tôi ham thả diều với ông chú (thường thả
buổi trưa ở cánh đồng rộng). Con diều rất to, vừa dài vừa rộng, có ba cái sáo; sáo chiêng gắn ở
giữa, hai sáo đẩu gắn hai bên. Mỗi khi diều lên cao quá núi, sáo kêu vi vu suốt cả mấy làng chung
quanh đều nghe tiếng sáo diều của chú cháu tôi. Tôi nghĩ, nếu buộc dây diều vào lưng thì nó có
thể tha cả người tôi lên cao. Ban đêm diều được buộc vào giậu cây duối (loại cây có rễ bám sâu
chắc). Dây để buộc con diều là những sợi tre to (gần như thanh tre), được luộc cho dẻo, buộc lại
với nhau rất khỏe. Tôi ham thả diều vô cùng. Trưa nào cũng cùng ông chú thả diều ở bãi dam, bãi
cát, (Có hôm bố tôi ra bãi bắt tôi về học, tôi không chịu, ông bực mình cắt đứt dây diều, diều bay
sang bên kia sông La).
Tôi cũng rất thích theo chú tôi đi chòi chim gáy. Cả buổi trưa, hai chú cháu vác sào và lồng chim đi


chọc. Có thể nói, tuổi nhỏ của tôi rất thôn dã, nhưng rất nên thơ. Sau này, tôi có làm thơ về tuổi
thơ ấy như sau:
Tôi sinh ra ở miền sơn cước
Có núi làng xuyên, có tháng ngày
Đất bãi che làm da thịt mát
Gió sông như những mảng hồn bay
Tuổi nhỏ tôi trùm trong nhớ thương
Cách sông chợ Nướt, bến đò Sương
Làng quê chân núi chiều về sớm
Bóng núi dài lan mặt ruộng nương.
Thuở nhỏ tôi cũng hay theo người lớn ra đồng làm việc. Một trong những cái thú của tôi là đứng
trên chiếc bừa đạp (để làm tơi đất), giống như một chiếc xe trâu. Có lần, tôi lấy roi đập cho bò
chạy lồng lên và tôi ngã vào khung xe. Không nguy hiểm, nhưng từ đó tôi bị cấm không cho đi
nữa.
Một kỷ niệm cũng gây ấn tượng sâu trong tôi là ở quê tôi, cứ gần Tết, làng có tục cho trâu lên núi,
làm lễ tế trời. Trên núi cao, chúng tôi đào một hố sâu khoảng 40 cm, rộng cũng khoảng 40 cm, rồi
căng dây vào vách núi, đánh trống, từ đó phát ra những tiếng vọng như tiếng đất. Người ta hướng
về phía núi mà vái, mà cúng trời. Trò chơi cổ sơ, nhưng tiếng trống đất có âm vang gì sâu thẳm,
gây một ấn tượng rất đậm trong tôi.
Về mùa đông, tôi rất thích cưỡi trâu. Mùa đông lạnh, lưng trâu rất ấm. Ngồi trên lưng trâu, thúc hai
chân vào bụng trâu, giật dây thúc cho trâu chạy nhanh như cưỡi ngựa, rất thú. Nhưng một lần, do
thúc nhanh quá, lại gặp vực, trâu dừng đột ngột, tôi lao ngã, may lại ngã về phía vườn nên thoát
chết.
Đại khái tuổi thơ của tôi rất thôn dã, rất cổ sơ trong cảnh quê nhà cũng rất cổ sơ. Nhưng, tất cả
những cái đó đã làm nên cái hồn đầu tiên, làm cho tôi có cảm nhận về không gian mênh mông, bát
ngát, không gian xa vắng và rồi nó ám ảnh trong tâm hồn tôi. Sau này, tôi tâm niệm được rằng,
chính tuổi thơ đã cho tôi cảm giác đầu tiên về không gian, cái cảm nhạy về không gian bát ngát, xa
vắng mãi ám ảnh trong tâm hồn và trong thơ tôi, như là cái "Thi tại ngôn ngoại" của thơ tôi. Cái mà
sau này người ta gọi là cái bát ngát, mênh mông, bâng khuâng trong thơ Huy Cận có ngọn nguồn
từ đấy.

Ấn tượng của tôi về thiên nhiên, tạo vật, quê hương, sông núi nuôi dưỡng hồn thơ tôi là như thế.
Và đến nay, ấn tượng ấy vẫn không hề thay đổi. Truyền thống cách mạng và văn hóa của quê
hương cũng để lại những ấn tượng sâu đậm trong tôi.
Trước hết, nói về truyền thống văn hóa. Xã tôi là một xã nghèo, người mù chữ thì nhiều, người
được đi học ít lắm. Bố tôi là một nhà Nho, giỏi chữ Hán (nhưng cũng chỉ đậu đến Tam trường
thôi). Không kể các cụ ngày xưa học chữ Hán, lớp tân học chỉ có tôi là người đầu tiên đi học,
người đầu tiên đỗ yếu lược, tiểu học; người đầu tiên đỗ Primaire, cũng là người đầu tiên đậu
thành chung, người đầu tiên đỗ tú tài cũng là người đầu tiên đậu kỹ sư trong cả xã, cả huyện. Nói
như vậy để thấy xã tôi rất nghèo và thất học, nhưng văn nghệ dân gian lại vô cùng phong phú. Tôi
nhớ những đêm mùa hè, trăng thanh gió mát có nhiều đêm, cả xóm tôi (xóm Thượng Đình vì ở
đầu xã, sát sông La) kéo nhau ra bãi cát để hát hò ví dặm. Trai gái đối đáp với nhau rất tình tứ. Có
nhiều cụ ông già, không hát nữa nhưng đứng sau "gà" các câu đối đáp rất hay. Trên bãi có con
sông Ngàn Sâu chảy qua (đoạn này gọi là sông Thâm). Ngay cả những người đi thuyền trên sông
(đò chuyến, đò dọc) khi ngang qua cũng tham gia đối đáp. Người trên bãi kẻ dưới sông cùng đối
đáp, không khí hết sức nên thơ. Nhiều khi, bãi bên này hát, bãi bên kia sông cũng nghe và hát đáp
lại. Nhờ những cuộc hát đối đáp như vậy mà nên duyên, người hai bờ nên vợ nên chồng.
Nói đến văn nghệ dân gian, quê tôi còn nhiều ấn tượng đẹp lắm. Làng tôi có lệ tế Thần Hoàng. Có
lần tôi được theo bố tôi lên đình ngủ đêm (thường đêm trước ngày lễ). Trong đình có treo những
bức tranh dân gian: voi, ngựa, các con hạc, các ông Từ... từ đời nhà Lê rất đẹp do người làng làm
quan đi tận thành Thăng Long mang về. Ban đêm, trong giấc ngủ chập chờn, tôi cảm thấy, từ
những bức tranh ngựa, voi cứ đi quanh những đám rước đẹp tuyệt vời. Tỉnh dậy mới biết, hóa ra
là những bức tranh. Ngay sau lễ chính, đám rước Thần đi quanh xã rất đẹp. Rước cờ đuôi nheo đi
quanh làng, từ cánh đồng, vòng quanh núi, rồi về làng. Trên kiệu do bốn người khiêng. Ông Giao
mặc quần đỏ, áo đỏ, mặt mũi phương phi ngồi rất đẹp. Tất cả những cái đó đã in đậm trong ký ức
tôi, thành những ấn tượng đậm đẹp với thiên nhiên, tạo vật và tạo trong tôi một ám ảnh đặc biệt về
không gian. Ở sát xã tôi, bên kia sông La, có anh Giải Thang làm vè rất hay. Mọi chuyện xảy ra
trong làng (từ chuyện trữ tình đến hài hước, trào phúng) đều được anh làm nhóm vè rất hay. Có
thể nói, anh như người thư ký thời đại của vùng tôi. Tôi rất quý và đã làm thơ về anh:
Gieo vần như thể tay gieo hạt
Nhịp sông làm nên những nhịp thơ

Mẹ tôi là người mù chữ, nhưng thuộc Truyện Kiều kinh khủng. Bà có thể đọc Kiều từ đầu chí cuối,
rồi lại đọc ngược từ cuối trở lên đầu. Bà thuộc Kiều và hay vận những câu đau khổ trong truyện
Kiều, đại loại Chém cha cái kiếp má đào, Cởi ra rồi lại buộc vào như không hay Dại rồi còn biết
khôn làm sao đây để nói cuộc đời cay đắng của bà. Không cần biết tác giả truyện là ai, bà vẫn
thuộc và vẫn đọc Kiều...
Trong xã tôi còn có ông Bồ Căn (tên chính của ông là Cù Hoàng Trại), mùa hè ông cứ cầm cái
quạt mo đi khắp xóm làng kể ca dao, tục ngữ và phân tích ca dao cho mọi người nghe. Ông như
người nghệ sĩ lưu động tài ba.
Bố tôi là nhà Nho, thâm nho, bất đắc chí. Ông về nhà cày ruộng, dạy chữ Hán và phân tích giảng
Kiều cực kỳ hay. Có khi ông bình một mình, nhưng cứ như cho cả cử tọa nghe. Khi cao hứng, ông
bình hay đến nỗi, tất cả các nhà chung quanh xóm đều dỏng tai nghe. Đặc biệt, bố mẹ tôi thỉnh
thoảng lại giận nhau (bởi bố tôi là nhà Nho bất đắc chí, hay bỏ nhà đi chơi nên mẹ tôi giận ông
lắm!) Giận nhau, nhưng ban đêm ông vẫn bình Kiều. Mẹ tôi, dẫu giận ông, bà vẫn nghe tường tận,
không bỏ sót một câu nào (Chính ông bà ngoại tôi mê bố tôi hay chữ mà gả mẹ tôi cho ông và mẹ
tôi, cũng vì mê ông hay chữ học giỏi mà lấy ông... Đúng là Chẳng tham ruộng cả ao liền - Tham vì
cái bút cái nghiên anh đồ). Sau một đêm nghe ông bình Kiều, ngâm Kiều, hôm sau mẹ tôi bớt giận
ông và hai ông bà lấy lại hòa khí. (Tiếc là điều đó cứ lặp lại, khiến mẹ tôi buồn khổ).
Tôi muốn nói thêm về tiếp xúc của tôi với văn học truyền thống. Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với
Truyện Kiều như thế nào? Khi tôi còn nhỏ, xã tôi chưa có trường, lên lớp năm tôi đã phải học trên
trường Tổng cách nhà tôi khoảng 3 km. Tôi ở trọ nhà người bà con. Bác họ tôi là người khá giả, có
nhà ngói, có nhà thờ (cửa chữ Thọ). Ông quản gia của nhà bác tôi là ông Văn, người phương phi,
không rõ ông học chữ Hán, chứ Nôm đến đâu, nhưng mùa hè, cứ đêm đêm ông lại ngâm Kiều.
Đặc biệt, những đêm trăng thanh gió mát, nghe ông ngâm đoạn:
Trông chừng thấy một văn nhân
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng
Đề huề lưng túi gió trăng
Sau lưng theo một vài thằng con con
Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha mầu áo nhuộm non da trời...
Dẫu không hiểu đề huề là gì, Lưng túi gió trăng là gì, nhưng tôi rất mê, mà rất thích nghe. Rồi câu

thơ Kiều cứ thế, lọt qua khung cửa chữ Thọ mà vào phòng tôi và cứ thấm vào tôi...
Xã tôi nghèo, nhưng rất đẹp và giàu truyền thống, giàu tiềm năng văn nghệ. Xã tôi cũng là xã có
truyền thống cách mạng kiên cường trong huyện Hương Sơn. Khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
nổ ra, bố tôi cũng tham gia hoạt động bí mật. Ông giả làm lái buôn, làm liên lạc cho Xô Viết. Ông
thường đi liên lạc từ xã tôi xuống Linh Cảm và các xã lân cận. Nhưng về sau, chính quyền Tây
cũng phát hiện ra, chúng kiểm tra rất nghiêm ngặt, bố tôi cũng bị vào sổ đen của chúng.
Núi Mào Gà của quê tôi bản thân nó đã cao, nhưng tận trên đỉnh núi, người dân xã tôi trồng một
cột cờ rất cao, treo lá cờ búa liềm rất to và rất cao. Từ đồn Linh Cảm, giặc đã nhìn thấy cờ và
nhiều lần cho lính đến hạ cờ, nhưng đều bị súng kíp bắn chết. Do đó, lá cờ vẫn tồn tại mãi tới khi
phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh tàn, chúng mới hạ nổi.
Xã tôi cũng là xã có rất nhiều người theo cụ Phan Đình Phùng (gọi là cụ Đình Nguyên, người đỗ
đầu thi Hội) chống Pháp trong phong trào Cần Vương. Mười năm sau khi phong trào bị chết,
những người theo phong trào không về nổi xã nữa. Người chết trận, người lưu vong sang tận Lào,
Xiêm. Có thể nói, lịch sử xã tôi như lịch sử thu gọn của cả một vùng.
Nói cụ thể hơn về gia đình, tôi có ông Can (trên Cố) gọi là cố Hưu Trí (vì đã nghỉ hưu) ông được
làm chức quan thanh tra kho tiền của nhà vua đời Minh Mạng. Ông rất liêm khiết nên được vua
thưởng quỹ "dưỡng liêm" (nuôi dưỡng sự liêm khiết). Cuối đời, ông bị chết dọc đường trong một
chuyến đi thanh tra và được vua ban, chôn cất rất chu tất.
Nhưng ngay từ tuổi nhỏ, tôi đã mang nỗi buồn man mác trước thiên nhiên, vũ trụ, buồn về nhân
thế, xã hội và đặc biệt về gia đình (trong gia đình tôi, bố, mẹ, các cô chú luôn âm ỷ những mâu
thuẫn thầm kín). Chính cái đó là một phần tạo nên những đau khổ trong tâm hồn tôi và tạo nên cái
buồn nhân thế (cái buồn về kiếp người) trong thơ tôi.
Nhà tôi nghèo kinh khủng. Quanh năm ăn cơm độn (sắn, khoai, đậu đen) rất khó ăn. Quần áo
không đủ mặc, anh em tôi luôn phải mặc chung quần áo. Năm 1927 tôi đang học lớp 4, cậu mợ tôi
nhắn mẹ tôi đem tôi xuống bà ngoại để theo cậu mợ vào Huế học. Tôi ra đi gấp gáp lại đúng ngày
mưa buồn, nước lụt. Mẹ tôi dắt díu tôi bì bõm lội từ xóm Thượng Đình của tôi xuống đến xóm dưới
(trên 2km) còn tôi cởi quần áo, sách vở, lội ngập trên đầu gối theo mẹ. Mẹ tôi luôn mồm an ủi:
"Cắn răng mà đi con ạ!".
Cuối cùng mẹ con tôi cũng về được tới Linh Cảm (quê ngoại). Khi về tới quê gặp bà ngoại, mẹ tôi
tủi thân khóc (bởi lấy chồng nghèo, lại bất đắc chí hay đi lang thang). Bà tôi an ủi mẹ: "Thôi đừng

khóc nữa, cho cháu đi với cậu mợ nuôi nó học". Thế là tôi theo cậu mợ vào Huế. Dù có nghĩ đến
một lối thoát khi ra đi, nhưng cái lần đầu xa nhà ấy, tôi cứ mãi da diết buồn.
*
* *
Tôi học ngày càng cao, nhưng càng ngày tôi càng thương mẹ. Còn mẹ, mừng vì tôi được học
hành chu đáo. Năm 1937, tôi đang học tú tài phần I thì gặp Xuân Diệu. Tháng 4-1937, tôi cùng
Xuân Diệu đi đón Gô-đa (đại diện Chính phủ bình dân Pháp). Trở về, chúng tôi bị chính quyền trù.
Với tội này, chúng tôi có thể bị đuổi học, nhưng may có Hội đồng giáo sư (gồm các giáo sư Pháp
và giáo sư người Việt như: Nguyễn Huy Bảo, Phạm Đình Ái, Nguyễn Thúc Hào, Ưng Quả, Đoàn
Nồng, giáo sư Nguyễn Lân, Lê Xuân Phương...) bảo vệ nên tôi không sợ bị đuổi học, nhưng bị cắt
học bổng (Tin này đến tai, khiến mẹ tôi rất buồn, ba ngày ba đêm bà không ăn không ngủ!). Chính
vì thế khi vào năm thứ 2 (năm 1938), tôi phải đi làm gia sư để lấy tiền theo học. Năm thứ ba, do đỗ
đầu trong cuộc thi văn chương Pháp (Prise Concourgénéral), nên tôi lại giành lại được học bổng.
Nhưng tôi cũng không vào ở nội trú nữa mà tiếp tục ở ngoài. Những năm ở Huế, tôi vào loại học
giỏi. Ba người chúng tôi (tôi, anh Nguyễn Tài Chắt và anh Nguyễn Hy Hiền) thay nhau đứng đầu
lớp. Ở Huế, tôi còn có một bạn học nữa, anh Gia Ninh, sau này cũng làm thơ, và anh Nguyễn
Xuân Sanh.
Như vậy, tôi đã sống và học ở Huế chẵn 10 năm (từ 1928 đến hè 1939 khi đỗ Tú Tài toàn phần,
mới rời Huế, ra Hà Nội học đại học Canh nông). Đối với tôi, Huế đã để lại cho tôi bao kỷ niệm, đã
thấm vào tôi in những dấu ấn rất đậm trong tâm hồn tôi. Có thể nói, Huế là quê hương thứ hai của
tôi. Tôi vẫn nói tôi có hai quê hương là vì thế. Nếu tôi chỉ là người Nghệ Tĩnh và ở lại học trường
Vinh chẳng hạn, thì có thể cũng có một nhà thơ Huy Cận, nhưng không phải một Huy Cận như
ngày nay. Tôi đã tự phân tích và cảm nhận được rất rõ: Quê Hà Tĩnh cho thơ tôi phần chân chất,
sâu lắng, nhưng quê Huế cho thơ tôi thêm phần mượt mà, tình tứ... Thành ra, trong thơ tôi, vừa có
cái sâu lắng sâu đậm về cuộc đời và vừa có cả chất mượt mà tình tứ. Tôi rất biết ơn Huế, biết ơn
quê Hà Tĩnh là tất nhiên rồi!), năm 1978, nhân dịp về thăm Huế, tôi đã viết tặng Huế bài thơ Huế
vấn vương.
Xanh mượt bờ cây Huế, Huế ơi!
Cỏ cây đây đã hóa vườn trời
Người đi, bước nhẹ không nghe tiếng

Mà nặng lòng yêu biết mấy mươi.
Huế hoa thiên lý mùi hương thoảng
Huế tím chiều thu dậy ước mơ
Mái đẩy câu hò ngân ánh nước
Sông không trôi bởi luyến lưu bờ.
Tuổi nhỏ đời ta Huế giữ không?
Cho ta xin lại những năm hồng
Cho ta sống lại ngày xưa cũ
Mới hái mùa thơ giữa độ bông.
Tình bạn, tình yêu Huế khéo ương
Hoa xuân trái đậu tháng năm trường
Bâng khuâng nay nhện chiều giăng lưới
Bảng lảng lòng ai Huế vấn vương.
Hè năm 1936, tôi đậu Diplome. Dịp tựu trường vào trường tú tài, Diệu ở Hà Nội cũng vào Huế,
nhưng chúng tôi chưa quen với nhau. Nhà thơ Nguyễn Đình (người Quảng Nam) nói với chúng tôi:
"Hai ông cùng làm thơ, cùng Hà Tĩnh, sao không gặp nhau nhỉ?". Thế rồi một hôm chúng tôi gặp
nhau (có cả Nguyễn Đình) tại sân sau trường Quốc học Huế rất rộng và đẹp. Chúng tôi đọc thơ
cho nhau nghe, thấy tâm đắc với nhau "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Chúng tôi
tức khắc kết bạn (cho tới khi Xuân Diệu mất là vừa chẵn 50 năm). Khi ấy Xuân Diệu đã nổi tiếng,
thơ đăng nhiều trên các báo Phong Hóa, Ngày Nay... Còn tôi, mới chỉ có một số bài thơ đăng ở
Huế.
Về tình bạn của chúng tôi, tôi đã có dịp viết và trích đăng trên báo. Tôi có viết: "Chúng tôi cùng
chung một hoài bão thiết tha về văn hóa dân tộc, tâm niệm góp phần khiêm tốn của mình bồi đắp
cho văn hóa nước nhà. Chúng tôi cùng một hoài vọng và quan niệm về thơ là đi trên con đường
lớn của thơ, tức là thơ của cuộc đời, thơ của con người". Rất nhiều bè bạn, cả các đồng chí lãnh
đạo đều quý tình bạn văn chương tri âm tri kỷ của chúng tôi.
Làm bạn với nhau, Huy Cận - Xuân Diệu đã làm được những gì trong văn chương?
Năm 1939, tôi rời Huế ra học trường Canh nông ở Hà Nội. Xuân Diệu lúc này dạy văn ở trường
Thăng Long, viết sách, làm báo. Chúng tôi dành tiền của Xuân Diệu và phần học bổng của tôi,
trước hết tái bản tập Thơ thơ của Xuân Diệu vào năm 1940. Chúng tôi đề Huy - Xuân xuất bản

(sau này trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có nhắc đến việc này). Thực ra, đó chỉ là nhà xuất
bản tưởng tượng, dự định lập. Sau đó chúng tôi mua một vài bản thảo khác để xuất bản, trong đó
có bản thảo Tây Sương Ký của Nhượng Tống dịch, bản dịch rất hay, với giá 90 đồng (số tiền khi
ấy rất lớn, trị giá 11 tạ gạo). Nhưng sau đó, chúng tôi bị lừa, đưa cho NXB Tân Việt mượn và bị
mất bản thảo. Sau này, tôi nghĩ lại và thấy rất may. Chúng tôi bị mất 90 đồng, nhưng còn được
bản in Tây Sương Ký đến ngày nay, nếu chúng tôi giữ thì chưa chắc đã in được.
Nhưng xuất bản sách chỉ là một phần thôi. Năm 1942 khi ấy Xuân Diệu ở Mỹ Tho, tôi cho ra cuốn
Kinh Cầu Tự do NXB Mới của anh Lê Văn Dự in. Kinh Cầu Tự được viết vào cuối năm 1940 ở Hà
Nội và đầu 1941, khi tôi đi thực tập Canh nông ở Tuyên Quang.
Mặt khác, chúng tôi đổ xô vào nghiên cứu văn học cổ Việt Nam. Sau này, Xuân Diệu ra được cuốn
Các nhà thơ cổ điển Việt Nam cũng là do những nung nấu từ ngày ấy. Khi Xuân Diệu học Thành
chung ở Quy Nhơn, Xuân Diệu đã học tập văn học cổ rất công phu: học từ văn phú lục, phú Nôm,
các thể thơ ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát, cả thể từ (của Trung Quốc). Chẳng những nghiên cứu,
Xuân Diệu còn tập làm theo các thể đó. Sau này Xuân Diệu viết Các nhà thơ cổ điển Việt Nam cực
kỳ sâu sắc là nhờ thế.
Còn tôi, năm 1938, tôi ra Hà Nội hai lần: lần đầu tiên vào Tết Mậu Dần (1938) và lần sau, vào hè
năm 1938 khi ấy Xuân Diệu đang ở đê Yên Phụ (ở nhà của ông nội anh Đỗ Nguyên Phương, Bộ
trưởng Y tế). Tại đây, tôi đã làm một số bài thơ, trong đó có bài Buồn đêm mưa, Đi giữa đường
thơm, sau này là vào loạt những bài thơ đặc sắc trong tập Lửa thiêng.
Việc đầu tiên khi ra Hà Nội là tôi đến phố Hàng Gai, mua tất cả các tập truyện Nôm do NXB Quang
Thịnh in thành từng tập mỏng bán với giá 5 - 10 xu một quyển (sách này thường được bày bán ở
vỉa hè hoặc do người quẩy bồ đi bán rong ở các chợ nông thôn). Phải nói NXB Quang Thịnh rất có
công với việc truyền bá văn học dân tộc. Sách tôi mua gồm: Phan Trần, Nhị Độ Mai, Phạm Tải

×