Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Khám phá châu Á pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.99 KB, 8 trang )

Khám phá châu Á

Marco Polo vượt xa mọi nhà thám hiểm Kitô giáo về kinh nghiệm,
thành tựu và ảnh hưởng của ông. Những thầy dòng Phanxicô hành
trình đến Mông Cổ và trở về trong không đầy ba năm và ở đó với tư
cách là những nhà truyền giáo - ngoại giao. Hành trình của Marco Polo
kéo dài hai mươi bốn năm.
Marco Polo vượt xa mọi nhà thám hiểm Kitô giáo về kinh nghiệm,
thành tựu và ảnh hưởng của ông. Những thầy dòng Phanxicô hành trình đến
Mông Cổ và trở về trong không đầy ba năm và ở đó với tư cách là những
nhà truyền giáo - ngoại giao. Hành trình của Marco Polo kéo dài hai mươi
bốn năm. Ông đi xa hơn những người đã đi trước mình, vượt qua Mông Cổ
đến tận trung tâm của Trung Hoa. Ông rong ruổi khắp đất Trung Hoa cho
đến tận đại dương và ông nắm giữ những vai trò khác nhau, trở thành cận
thần của Kublai Khan và tổng trấn của một thành phố lớn Trung Hoa. Ông
thông thạo ngôn ngữ và say mê tìm hiểu đời sống và văn hóa Trung Hoa.
Đối với mọi thế hệ châu Âu, những bài mô tả dồi dào, sống động và hiện
thực của ông về lối sống đông phương chính là cuộc khám phá châu Á.
Venice thời đó là một trung tâm thương mại lớn ở Địa Trung Hải và
xa hơn. Marco vừa tròn 15 tuổi vào năm 1269, khi ông Nocolò, cha của
Marco và ông Maffeo Polo, chú của Marco từ Venice trở về sau một cuộc
hành trình 9 năm sang phương Đông. Một người chú khác của Marco cũng
tên là Marco Polo, có những trung tâm buôn bán ở Constantinople và
Soldaia ở Crimea; hai ông Nicolò và Maffeo cùng đến đó năm 1260 để hợp
tác với chú em. Trong phần mở đầu cuốn sách của mình, Marco Polo đã kể
lại những cuộc hành trình này mà ông không tham dự. Hai ông Nicolò và
Maffeo có ở Constantinople một kho dự trữ đá quý. Họ chuyển bằng đường
biển tới Soldaia, rồi từ phía đông bắc đi dọc sông Volga đến cung điện nguy
nga tráng lệ của Barka Khan, con của Genghis Khan. Barka Khan không chỉ
tiếp đãi hai anh em rất lịch sự và long trọng, nhưng điều đáng nói hơn, ông
đã mua toàn bộ đá quý của họ, khiến "hai anh em nhận được gấp đôi giá trị


thật của nó", theo như Marco Polo nhận định.
Khi một cuộc chiến nổ ra giữa Barkha Khan và một hoàng tử Tartar
khác cắt đứt đường về Constantinople của hai anh em, họ quyết định tiếp tục
công việc mạo hiểm kinh doanh xa hơn về phía đông. Một cuộc hành trình 7
ngày qua sa mạc đưa họ tới Bokhara, ở đây họ nhập đoàn với một số sứ giả
Tartar khác đang trên đường đến cung điện của Đại Vương Khan là Kublai
Khan. Những sứ giả này cho hai anh em Polo biết rằng vua Kublai Khan
chưa từng gặp hai ông và sẽ tiếp đãi hai ông một cách long trọng và hào
phóng. Những sứ giả này hứa sẽ bảo vệ hai ông dọc đường. Hai anh em Polo
nhận lời mời của họ và sau một năm dài hành trình, "được tận mắt nhìn thấy
đủ thứ kỳ diệu", họ tới được cung điện của vua Kublai Khan. Vua Khan tiếp
đãi họ hết sức thân thiện như những sứ giả đã nói trước và tỏ ra là một con
người say mê tìm hiểu, thông minh linh lợi và muốn biết mọi điều về
phương Tây.
Cuối cùng vua đề nghị hai ông làm sứ giả của vua đến Giáo hoàng,
thỉnh cầu Giáo hoàng phái một trăm nhà truyền giáo thông thạo về Thất
Nghệ để dạy cho dân của ông về Kitô giáo và khoa học của phương Tây.
Ông cũng xin đem về cho ông ít dầu từ cây đèn ở Mộ Thánh tại Giêrusalem.
Khi hai ông Nicolò và Maffeo lên đường, họ mang theo Bảng Vàng của vua,
giấy bảo đảm an toàn trên đường và lệnh của vua cho mọi người phải giúp
đỡ hai ông trên đường. Khi về tới Acre vào tháng 4, 1269, hai anh em được
tin Giáo hoàng đã qua đời và chưa có người kế vị. Họ trở về Venice để đợi
kết quả bầu tân Giáo hoàng. Khi Đức Gregoriô X trở thành tân Giáo hoàng,
ngài không cử một trăm nhà truyền giáo như đã được yêu cầu, nhưng chỉ
phái hai tu sĩ Đaminh đi theo hai anh em Polo.
Năm 1271, khi hai anh em Nicolò và Maffeo Polo rời Venice để lên
đường trở về với Kublai Khan, họ cho con trai của Nicolò là Marco đi theo.
Khi ấy Marco 17 tuổi và sẽ là người làm cho cuộc hành trình của họ đi vào
lịch sử. Tại Lajazzo trên bờ đông Địa Trung Hải, hai tu sĩ Đaminh hoảng sợ
đã bỏ cuộc, chỉ còn lại ba người của gia đình Polo. Họ tiếp tục đi đến

Baghdad, rồi đến Ormuz ở cửa Vịnh Ba Tư. Từ Ormuz, lẽ ra họ đã có thể
làm một cuộc hành trình dài bằng tàu qua biển ấn Độ, nhưng họ đã chọn đi
đường bộ lên phía đông bắc qua Sa Mạc Kerman của Ba Tư tới vùng đồi núi
giá lạnh ở Badakhshan, nổi tiếng về ngọc thạch, lam thạch và ngựa quý.
Macro kể lại, ở đây có những con ngựa "sinh ra từ những con ngựa cái đã
phối giống với con ngựa Bucephalô của hoàng đế Alexandro và tất cả chúng
khi sinh ra đều có một sừng trước trán giống như con Bucephalô". Họ ở lại
đây một năm chờ cho Marco khỏi bệnh nhờ hít thở không khí miền núi trong
lành.
Họ lại lên đường qua sa mạc và đến Tangut, phía cực tây bắc Trung
Hoa, băng qua những thảo nguyên Mông Cổ và đến cung điện của Vua
Khan, sau một cuộc hành trình gian nan ba năm rưỡi.
Vua Khan ngay lập tức giữ Marco lại phục vụ ông và phái ông
đi làm đặc sứ của mình tại một nước trong sáu tháng. Ngày nay, khi đọc
những cuộc hành trình của Marco Polo, tất cả chúng ta hiểu rõ được kết
quả sự say mê tri thức của vị vua Mông Cổ ở thế kỷ 13 ấy
Vua Kublai Khan tiếp đón những công dân Venice hết sức long trọng.
Linh cảm được những tài năng của cậu bé Marco 21 tuổi, vua Khan ngay lập
tức giữ Marco lại phục vụ ông và phái ông đi làm đặc sứ của mình tại một
nước trong sáu tháng. Ngày nay, khi đọc những cuộc hành trình của Marco
Polo, tất cả chúng ta hiểu rõ được kết quả sự say mê tri thức của vị vua
Mông Cổ ở thế kỷ 13 ấy.
Nhiều lần, khi các sứ giả của vua đi thăm các miền khác nhau trên thế
giới trở về, họ chỉ báo cáo cho vua những gì liên quan tới nhiệm vụ của họ,
ngoài ra họ không biết thêm điều gì khác. Vua coi họ chỉ là những kẻ ngốc
nghếch vô tích sự và vua nói: "Ta muốn biết nhiều điều xa lạ và hay ho ở xứ
người, những phong tục của các dân tộc khắp nơi trên thế giới, chứ không
muốn biết những công việc của các nước đó". Biết được ý vua, nên mỗi khi
Marco Polo đi đi về về, ông đều tìm hiểu cặn kẽ mọi điều thuộc mọi lãnh
vực khác nhau của các xứ sở xa lạ mà ông đến thăm, rồi thuật lại tất cả cho

Đại Khan. Ông tìm hiểu tất cả những gì ở những miền đất xa xôi mà ông biết
là vua rất thích, khiến cho vua rất hài lòng và đem lòng yêu mến sủng ái
Marco lắm. Vua cho rằng Marco biết nhiều hơn bất cứ một ai và đối với vua
Khan, chỉ có Marco Polo là biết dùng cặp mắt của mình!
Chúng ta không biết thêm gì về những năm tháng hai ông Nicolò và
Maffeo Polo sống ở triều đình vua Khan, chỉ biết rằng sau 17 năm, họ đã "có
rất nhiều vàng bạc châu báu". Càng ngày vua càng muốn giữ Marco lại bên
mình, không muốn ông rời xa ông. Nhưng năm 1292, vua cần có một người
hộ tống một công chúa Tartar sang làm dâu cho nhà Ilkhan của Ba Tư. Các
phái đoàn của Ilkhan đã không thành công trong việc đưa công chúa 17 tuổi
này về Ba Tư bằng đường bộ. Họ trở lại hoàng cung của Kublai Khan và đề
nghị đưa công chúa đi qua đường biển. Đúng lúc đó Marco đã trở về sau một
chuyến công vụ trên đường biển tới ấn Độ. Phái đoàn Ba Tư đã biết danh
tiếng của người Venice trên đường biển, nên đề nghị vua cho phép Marco hộ
tống họ và công chúa trên đường biển. Vua Khan lệnh cho chuẩn bị 14
thuyền lớn, với một đoàn hộ tống sáu trăm người và lương thực đủ cho hai
năm. Sau một chuyến hành trình hiểm nghèo qua Biển Đông tới Sumatra rồi
qua biển Ấn Độ, chỉ còn mười tám người trong số sáu trăm người trong đoàn
sống sót, công chúa Tartar đã tới được triều đình của Ba Tư an toàn. Công
chúa rất quyến luyến những người Venice và đã khóc lúc họ chia tay.
Những người của gia đình Polo trở về quê nhà bằng đường bộ qua
Babriz bắc Ba Tư, qua Trebizond ở bờ biển nam Hắc Hải, rồi đến
Constantinople, từ đó họ về tới Venice vào mùa đông 1295, sau 24 năm xa
nhà. Gia đình Polo từ lâu tưởng họ đã chết. Người ta kể lại rằng sau khi ba
người lạ ăn bận xốc xếch xuất hiện, trông họ giống như những người Tartar
hơn là người Venice, những người bà con quý tộc Venice của họ không biết
phải đối xử với họ ra sau. Nhưng những ký ức xa xưa của họ đã trở lại ngay
trong tâm trí họ khi những người phiêu bạt này giật bung những đường chỉ
của những bộ áo quần bẩn thỉu của họ ra và lôi ra kho châu báu bí mật của
họ - toàn là ngọc bích, kim cương và ngọc thạch. Thế là họ ôm choàng lấy

nhau và tổ chức một đám tiệc hội ngộ linh đình, kể cho nhau nghe những
câu chuyện kỳ lạ.
Đó là những năm xảy ra những cuộc sát phạt cay đắng giữa Venice và
Genoa để giành quyền buôn bán trên biển Địa Trung Hải. Ngày 6 tháng 9,
1298, cuộc chiến đạt tới tột đỉnh giữa người Venice và Genoa ở Curzola
ngoài bờ biển vùng Dalmatia, người Genoa thắng trận, với bảy ngàn tù binh.
Trong số những tù binh này, có một "thuyền trưởng quý tộc" của chiến
thuyền Venice, đó là Marco Polo. Bị xiềng và đưa về một nhà tù ở Genoa,
ông đã kết thân với một tù binh khác từng bị bắt trong một cuộc chiến trước
đây giữa người Genoa và người Pisan. Tên ông ta là Rustichello. Rustichello
vốn là một văn sĩ từng viết các truyện hiệp sĩ và đã nổi tiếng với các truyện
về Vua Arthur và chiếc Bàn Tròn. Tuy không hẳn là một thiên tài văn
chương, Rustichello vẫn là một bậc thầy trong loại hình truyện cổ của mình.
Qua những hồi ức của Marco, Rustichello tìm thấy những chất liệu cho một
loại hình truyện cổ mới của ông - "Truyện Thế Giới" - và ông đã thuyết phục
Marco hợp tác. Chắc hẳn Marco Polo đã phải thu thập những ghi chép của
mình ở nhà. Thế rồi, lợi dụng những giờ rảnh rỗi trong tù và vì hai người bị
giam chung phòng với nhau, Marco Polo đã kể lại hàng giờ kho chuyện
phong phú về các cuộc hành trình của mình cho Rustichello và ông này đã
viết thành sách.
Từ trước tới nay, chưa từng có cuốn sách nào cung cấp nhiều thông
tin trung thực như cuốn sách này, hay mở rộng tầm nhìn của con người về
một châu lục như thế.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×