Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Y ÁN VỀ HỆ HÔ HẤP - TIM ĐẬP CHẬM, TIM ĐẬP LOẠN NHỊP pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.42 KB, 7 trang )

Y ÁN VỀ HỆ HÔ HẤP
TIM ĐẬP CHẬM – TIM ĐẬP LOẠN NHỊP
(Trích trong ' Tạp Chí Đông Y’ số 193/ 1985, Việt Nam).

Nguyễn Văn Tr, 35 tuổi, sinh viên y khoa, trước đây 10 năm, bị viêm
bao tử, tá tràng, điều trị vẫn chưa khỏi. Lúc 8 giờ sáng, đang ngồi đọc sách,
bỗng người bàng hoàng, chân tay run rẩy, choáng váng, mắt tối sầm, cảm
giác như người rơi từ trên cao xuống, phải nằm xuống giường. Bắt mạch
thấy 45 lần/phút, rất nhỏ. Kế tiếp mấy ngày sau, người rất mệt, choáng váng,
đi lại không vững. Bốn ngày sau, lúc đứng dậy cố gắng ra sân đi tiểu thì bị
ngất, mạch 40 lần/phút, rất nhỏ, phải tiêm Atropin vào tĩnh mạch. Chừng 15
phút thì đỡ dần, nhưng vùng chẩm rất buốt, đỉnh đầu cũng đau hơn những
ngày trước, toàn thân gầy sút nhanh, chóng mặt, không đi lại được, mạch
luôn dưới 50 lần /phút, đi rất nhỏ, có cảm giác như không bắt được mạch.
Điều trị ở bệnh viện Bạch Mai 20 ngày bằng rượu Belladone, có đỡ ít,
nhưng sau đó, bệnh trở lại nặng.
Khám thấy da xanh, môi thâm, hình thái mỏi mệt, rất khó ngủ, trong
lòng buồn bực, bứt rứt, tiếng nói mệt, khó thở, mạch chậm, thường khoảng
48 - 50 lần/phút, đầu đau, đi lại loáng choáng không vững, hơi khát nước, 5 -
7 ngày lại lên một cơn ngất, khi sắp ngất thì buồn ói và choáng váng nhiều,
khi ngất, mạch 40 hoặc 45 lần/phút, ăn kém, rêu lưỡi thường, chất lưỡi hơi
nhớt, da thịt mềm nhão, 6 bộ mạch đều Trầm, Trì, Nhược. Bụng có cảm giác
nóng rát ở vùng thượng vị, hố chậu phải; đè vào hố chậu phải thì đau và nổi
thừng, còn vùng thượng vị không đau.
Tâm chủ huyết mạch, thần minh. Mạch chậm, mỗi khi quá chậm thì bị
ngất, cố nhiên là bệnh ở tâm rồi. Nhưng muốn chần đoán cho chính xác, cần
phải tìm hiểu ra nguyên nhân nào đã gây trở ngại đến sự vận hành của huyết
mạch làm cho tim đập chậm và tà độc nào đã che lấp Tâm làm cho bị ngất.
Hơn 10 năm nay, đã bị viêm bao tử, tá tràng và đại tràng chưa khỏi, bụng có
cảm giác nóng rát vùng thượng vị và hố chậu phải, biểu hiện Tỳ Vị bị suy
yếu, chức năng kiện vận kém sút, thủy ầm đình trệ làm trở ngại đến sự vận


hành của huyết dịch, do đó, tim bị ảnh hưởng mà mạch chậm và bị ngất,
nhất là trước khi ngất thì buồn nôn, choáng váng nhiều, trong khi ngất, mạch
lại chậm hơn, chứng tỏ khi đó huyết mạch bị trở trệ hơn. Buồn nôn là thủy
ẩm ứ đọng ở vị quá nhiều, trọc khí nghịch hành lên gây ra, trọc khí không
giáng xuống thì thanh khí không thăng lên được, gây ra hoa mắt, chóng mặt,
đầu đau, đi lại loạng choạng, lảo đảo. Trọc khí xúc phạm vào Tâm làm che
lấp tâm khiếu khiến bị ngất. Người mệt mỏi nhiều, chân tay run rẩy đều là
huyết dịch tuần hoàn trở trệ không vinh dưỡng được cơ thể và tứ chi. Da
xanh, quầng mắt thâm, chất lưỡi hơi nhợt, hình thái mỏi mệt, biểu hiện
chứng huyết hư khí trệ. Rất khó ngủ, và trong lòng buồn bực, bứt rứt, cổ khô,
hơi khát nước là do Tâm hỏa thắng. Tiếng nói yếu, khó thở, do Tỳ thổ hư
không sinh được Phế kim, da thịt mềm nhão cũng do Tỳ khí kém vì Tỳ chủ
cơ nhục Tóm lại: Nguyên nhân phát bệnh do Tỳ mà hậu quả là tại Tâm.
Điều trị: Kiện Tỳ, đạo trệ, tiêu đờm, và dưỡng Tâm, thanh Tâm,
hoạt huyết.
Dùng bài Ôn Đởm Thang Gia Vị:
Bán
hạ
12g

Đảng
sâm
20g

Thiên
ma
12g

Trần


8g
Ích
mẫu
12g

Sinh
khương
2g

Chỉ
xác
8g
Phục
linh
12g
Mạch
môn
20g
Ý dĩ

16g

Cam
thảo
6g

Trúc
nhự
8g


Uống 10 thang, mạch lên 62 lần/phút và bớt yếu, không bị ngất nữa.
Trong 2 tuần, mạch 58 - 65 lần/phút, sức khỏe tiến bộ hơn, ăn được, ngủ còn
kém, đại tiểu tiện thường, còn hơi khó thở. Uống tiếp 6 thang trên, thêm Táo
nhân (sao đen) thì mạch lên 66 lần/phút, bình thường hòa hoãn, hết khó thở,
ngủ khá, đi lại hết choáng váng trong tuần, mạch trung bình 64 - 70 lần/phút.
Mạch chậm coi như đã khỏi, sức khỏe tiến bộ khá. Cho uống tiếp 4 thang
nữa, thử cho đi học vàng hỉ thuốc một thời gian xem sao. Cách 18 ngày sau,
kiểm tra lại thấy mạch 66 lần/phút. Hai tuần qua, mạch trung bình (4 - 7)
lần/phút. Tuy đi học và bị cảm sốt, mạch chỉ xuống tí chút rồi lại lên như
thường. Sức khỏe khá, ăn ngủ thường. Cho uống 4 thang trên. Hai tuần sau
kiểm tra lại thấy mạch hòa hoãn, 66 - 72 lần/phút. Sức khỏe tốt, làm việc tốt,
trực đêm tốt, ăn ngủ đều, mạch chậm, khỏi hẳn. Bệnh nhân đến nay vẫn
khỏe mạnh, đỗ bác sĩ và công tác tốt.






TIM ĐẬP NHANH
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’ của Lý Văn Lượng, Trung
Quốc).
Trương X, nam, 40 tuổi. Bệnh đã hơn một năm. Chứng trạng chủ yếu
là tim đập nhanh, thở dốc, mất ngủ, hay quên, u uất, hoa mắt, mệt nhọc, mặt
xanh bệch, gò má đỏ, người gầy gò, vẻ ngoài buồn khổ, không yên, môi lưỡi
nhạt, lưỡi không rêu, thở gấp, mạch Cấp Sác, không lực, đập 130 lần/phút.
Đây là chứng âm suy dương phù, Tâm Thận bất giao, tim hồi hộp.
Điều trị: Ích tinh, bổ Thận, ích khí, sinh huyết, dưỡng Tâm, an thần.
Dùng bài Bát Vị An Thần Hoàn Gia Vị:
Thục địa l5g Sao táo nhân 30g


Sơn thù nhục 15g

Phục thần 15g

Bạch nhân sâm 12g

Đương quy 12g

Hổ phách 12g

Chích cam thảo 9g
Nhục thung dung 12g

Câu kỷ l5g

Long cốt 30g

Cửu tiết xương bồ 12g

Tán bột, tất cả, luyện mật làm hoàn, mỗi hoàn 9g. Ngày uống 2 lần,
mỗi lần 1 hoàn. Uống hết 1 liều, tim đỡ hồi hộp, mạch chuyển sang Hoãn
Hoạt, mỗi phút giảm còn 94 lần. Uống hết 2 liều, các triệu chứng đều hết.
Người bệnh này bị chứng tim đập nhanh, là Thận âm suy tổn, không
thể giúp cho tim, âm dương không giao nhau, thần không giữ yên chỗ, như
ông Lưu Hà Gian đã nói: "Thủy suy hỏa vượng, tâm hung táo động" là nghĩa
như vậy. Vì thận âm suy tổn, âm dương hỗ căn mất sự điều hòa, dương hư
vượt lên, làm rối loạn tâm thần sinh ra hoa mắt, tim đập hồi hộp, mất ngủ,
hay quên, u sầu. Thận âm không thể lên giúp đỡ Tâm dương, Tâm dương
độc cuồng thì chắc chắn Tâm âm bị hại. Tâm khí bị tổn thương làm cho

mạch chạy nhanh (Cấp Sác), không lực.
Điều trị: Phải dùng Thục địa, Thù nhục, Câu kỷ, Nhục thung dung, lấy
vị ngọt chua, mang tính ấm, bình mà tư âm, ích tinh, để bổ Thận; Đương quy,
Nhân sâm bổ huyết, ích khí để dưỡng Tâm; Long cốt, Táo nhân, Xương bồ,
Hổ phách vị ngọt, chua, hơi cay, tính bình để dưỡng Tâm, an thần. Thận âm
mà đủ, ở trên, đối với chứng bệnh tim do Thận âm suy tổn là thuộc loại hư
mà "hư thì phải bổ", tuy nhiên, dương hư vượt lên là do âm thiếu không thể
kìm dương lại.
Điều trị: Phải dùng các thuốc ngọt, ấm tính bình, có tác dụng tư âm,
ích tinh, bổ Thận, thêm các thuốc dưỡng tâm an thần, âm đủ thì dương bình
mà thần yên.

×