/>NHỮNG RỐI LOẠN CHỨC NĂNG CỦA HỆ THỐNG THẬN – TIẾT
NIỆU
Để hiểu rõ chức năng của hệ thống thận – tiết niệu, cần phải nhắc lại một số
chức phận của thận.
I. NHIỆM VỤ CỦA THẬN
1. Nhiệm vụ thải tiết một số chất trong cơ thể.
1.1. Thải một số chất như:
Urê, creatinin, indol… một số thuốc sau khi vào cơ thể cũng được loại trừ qua
đường thận như sunfamit, penixilin, vitamin B1. khi nhiệm vụ này bị rối loạn, một
số chất đó sẽ bị ứ đọng lại trong máu nhất là urê mà trong lâm sàng thường biểu
hiện dưới hình thái “hội chứng urê máu cao”.
1.2. Thải nước tiết.
Thận tham gia trong quá trình chuyển hoá nước để giữ thăng bằng khối lượng
nước trong cơ thể ở một tỷ lệ nhất định(76% trọng lượng cơ thể). Bài tiết nước
giảm đi sẽ gây phù, một triệu chứng thường gặp của bệnh thận.
1.3. Bằng cách thải tiết các chất điện giải (Na, K, Cl, Ca, Mg…),
Thận tham gia vào quá trình chuyể hoá các chất đó, để giữ chúng ở một tỷ lệ
nhất định ở trong máu. Khi bài tiết các chất điện giải bị rối loạn như Na đào thải ít
đi và gây ứ đọng trong máu và gây phù, K đào thải tăng lên sẽ gây hội chứng
giảm K máu ảnh hưởng tới quá trình chuyển hoá của tế bào
1.4. Nhờ việc thải tiết các chất điện giải,
Thận tham gia vào vai trò điều hoà áp lực thẩm thấu thành mạch, áp lực thẩm
thấu tăng sẽ gây phù.
1.5. Thận còn đóng vai trò giữ thăng bằng axit kiềm trong máu.
Thực hiện các nhiệm vụ trên là nhờ hai quá trình: quá trình lọc của thận và quá
trình tái hấp thu của các ống thận. Quá trình lọc cầu thận là một quá trình có chọn
lọc, cũng như quá trình tái hấp thu của ống thận cũng là một quá trình có chọn
lọc, cho nên bình thường trong nước tiểu không có anbumin, đường… trái lại một
số chất khác lại có nhiều như urê, axit uric…
Khi cầu thận và ống thận bị tổn thương, các nhiệm vụ trên bị rối loạn.
2. Nhiệm vụ nội tiết.
2.1. Thận bài tiết hocmon làm tăng huyết áp:
Renin. Khi thận bị thiếu máu (hẹp động mạch thận, xơ tiểu động mạch thận…)
chất này sẽ tăng lên. Bệnh thận và tăng huyết áp có quan hệ chặt chẽ với nhau.
2.2. Thận sản xuất ra yếu tớ sinh hồng cầu
(facteur érythropoíetique) có tác dụng làm tuỷ xương hoạt động bình thường. Khi
suy thận yếu tố này giảm đi và gây hiện tượng thiếu máu.
Những rối loạn trên đây là những rối loạn về mặt sinh hoá, muốn phát hiện phải
xét nghiệm sinh hoá mới biết được, khi có những biểu hiện lâm sàng thường đã
muộn.
II. CÁC RỐI LOẠN HỆ THỐNG THẬN – TIẾT NIỆU BIỂU HIỆN
TRÊN LÂM SÀNG.
1. Những rối loạn bài tiết nước tiểu do tổn thương cầu thận và ống thận. Đái
nhiều, đái ít vô niệu.
2. Những rối loạn thải tiết nước tiểu: đái khô, đái rắt, đái buốt, bí đái, đái dầm…
nước tiểu được bài tiết phải đi qua hệ thống dẫn nước tiểu để ra ngoài từ đài
thận đến bể thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo. Khi hệ thống dẫn nước
tiểu đó có tổn thương như viêm, tắc, sẽ gây rối loạn trên.
3. Những rối loạn không ảnh hưởng đến quá trình bài tiết và thải tiết nước tiểu
nhưng làm thay đổi tính chất núơc tiểu: đái mủ, đái máu, đái dưỡng chấp…
4. Những rối loạn do nhiệm vụ nội tiết bị tổn thương: những biểu hiện của tăng
huyết áp, thiếu máu.
5. Những biểu hiện do rối loạn quá trình chuyển hoá: nôn, nhức đầu, khó thở…
do urê máu cao, thay đổi thăng bằng axit kiềm.
6. Những dấu hiệu chức năng: đau vùng thắt lưng và cơn đau quặn thận.
Năm rối loạn trên, sẽ nói tới trong các bài riêng. Dưới đây chỉ nói đến những
dấu hiệu chức năng:
6.1. Đau vùng thắt lưng:
Người bệnh có cảm giác hó chịu đau âm ỉ ngang thắt lưng cùng L
2
– L
3
, đau một
bên hay cả hai bên. Khi làm việc nặng, mệt nhọc, thay đổi thời tiết thì đau
nhìêu hơn. Triệu chứng này chỉ có tính chất gợi ý mà thôi, không có giá trị đặc
hiệu. Có nhiều nguyên nhân khác cũng gây đau vùng thắt lưng. Triệu chứng đặc
hiệu có giá trị là cơn đau quặn thận.
6.2. Cơn đau quặn thận:
Có là cơn đau bụng cấp tính xảy ra rất đột ngột, sau một cử động mạnh, sau khi
làm việc, bị mệt hau khi đang uống thuốc lợi niệu, nước suối…
6.2.1. Triệu chứng:
- Giai đoạn trước cơn đau: thường xảy ra rất đột ngột, nhưng đôi khi có những
triệu chứng báo hiệu trước như đau ngang vùng thắt lưng, đái khó hoặc đái ra
máu.
- Giai đoạn cơn đau: đau rất giữ dội, đau quằn quại, hướng lan của cơn đau là
lan xuống dưới, xuống bìu hoặc bộ phận sinh dục ngoài. Các loại thuốc giảm
đau thông thường không có tác dụng.
Người bệnh lúc đó vã mồ hôi, mặt tái đi, lo lắng, sợ sệt, sốt, nôn mửa, có cảm
giác buồn đái (ténesme vésicale). Khi khám thấy mạch nhanh, ấn vùng thận phía
sau lưng rất đau, ấn các điểm dau niệu quản phía bụng rất đau.
Cơn đau có thể kéo dài từ 1-2 giờ đến một ngày.
- Giai đoạn sau cơn đau: người bệnh đi đái rất nhìêu hoặc đái khó, có thể kèm
theo đái máu hoặc đái mủ.
6.2.2. Thể lâm sàng:
Trên đây là cơn đau điển hình, nhưng cũng có trường hợp cơn đau quặn thận
mà đau nhẹ thoáng qua, hoặc ngược lại rất đau kéo dài từ 1 ngày đến 2,3 ngày.
6.2.3. Chẩn đoán:
Dựa vào mấy đặc tính sau:
- Cơn đau đột ngột, dữ dội, lan xuống bìu hoặc bộ phận sinh dục ngoài.
- Có đái ra máu, đại thể hoặc vi thể.
- Các điểm đau vùng thận và niệu quản dương tính (+).
- Tiền sử đã có những cơn đau quặn thận.
6.2.4. Chẩn đoán phân biệt.
Rất dễ nhầm cơn đau quặn thận với những cơn đau bụng cấp tính khác.
6.2.5. Bên phải hay nhầm với:
- Cơn đau quặn gan: đau vùng hạ sườn phải, lan lên vai, sau khi đau có sốt và
vàng da. Khám ấn vùng gan túi mật đau. Dấu hiệu Murphy (+).
- Đau ruột thừa: đau vùng hố chậu phải, ấn điểm Mac-Burney (+) người bệnh có
sốt, bạch cầu cao trong máu cùng với tăng đa nhân trung tính.
6.2.6. Bên trái có thễ nhầm với:
- Cơn đau thắt ngực: những trường hợp không điển hình, cơn đau thắt ngực
không lan lên trên cánh tay mà lan xuống bụnh. Hay ngược lại, có cơn đau quặn
thận không lan xuống dưới mà lam lên ngực, vùng trước tim. Trường hợp này
hiếm.
6.2.7. Chung cho cả hai bên có thể nhầm với:
- Cơn đau do loét dạ dày thủng dạ dày: đau vùng thượng vị không lan xuống bìu.
Nếu thủng dạ dày, ấn vùng thượng vị có phản ứng. Tiền sử có hội chứng loét dạ
dày tá tràng.
- Viêm tuỵ tạng chảy máu hoại tử: đau rất dữ dội vùng thượng vị, nôn mửa, ấn
vùng thượng vị và điểm sừong lưng đau. Người bệnh trong tình trạng sốc, vã
mồ hôi, tái mặt, huyết áp hạ. Thử Amylaza trong máu rất cao.
- Cơn đau dạ dày trong bệnh tabét: đau dữ dội và đột ngột vùng thượng vị, mất đi
cũng đột ngột, có tiền ssử giang mai, thử BW (+). Hết cơn đau người bệnh khoẻ
như thường.
- Tắc ruột: đau bụng, nôn, bí ỉa, bí trung tiện. Bụng có triệu chứng rắn bò.
- Đau bụng chì: những người nhiễm độc chì có thể có những cơn đau bụng,
đau toàn bụng, táo bón, tăng huyết áp, chân răng có viền đen. Thử máu tỉ lệ chì
cao.
6.2.8. Cơ chế:
Cơn đau thận là do hiện tượng giãn đột ngột các đùi thận và bể thận gây nên.
Khi chụp thận ngược dòng (UPR) nếu bơm nhanh, mạnh thì cũng gây nên cơn
đau quặn thận nhân tạo.
Đôi khi do các phản xạ thần kinh. Ví dụ nguyên nhân ở bên này nhưng lại gây
đau ở bên kia.
6.2.9. Nguyên nhân:
- Sỏi thận niệu quản: là nguyên nhân thường gặp. Có thể làm tắc ở bể thận hoặc
niệu quản. Những sỏi nhỏ hay gây nên cơn đau thận hơn những sỏi to, vì sỏi nhỏ
dễ di chuyển hơn. Triệu chứng thông thường của sỏi thận là: cơn đau quặn thận
và đái ra máu. Chụp Xquang sẽ thấy hình sỏi.
- Lao thận: đôi khi cũng gây nên cơn đau thận, nhưng ít hơn. Triệu chứng chủ
yếu của lao thận là đái ra máu và viêm bàng quang. Thử nước tiểu có những
thay đổi bất thường, cấy nước tiểu có thể tìm thấy vi khuẩn lao. Chụp Xquang
thận tĩnh mạch, có những thay đổi điển hình.
- Ung thư thận: cũng có thể gây cơn đau quặn thận, nhưng ít hơn. Triệu chứng
chủ yếu của ung thư thận là đái ra máu. Khám thấy thận to, giãn tĩnh mạch bìu.
Chụp Xquang thận, thấy thận to và những thay đổi đặc hiệu ở đài thận.
III. KẾT LUẬN.
Những rối loạn chức năng của hệ thống thận tiết niệu có rất nhiều, cần phải hỏi
bệnh một cách tỷ mỉ mới phát hiện được, đặc biệt phải chú ý tới những rối loạn
của quá trình bài tiết và thải tiết, đến tính chất của nước tiểu (màu sắc, khối
lượng) và đến cơn đau quặn thận. Tổng hợp các triệu chứng đó lại sẽ giúp thầy
thuốc hướng được vào một số hội chứng và một số bệnh.
KHÁM LÂM SÀNG HỆ THỐNG THẬN – TIẾT NIỆU
Khám lâm sàng hệ thống thận tiết niệu gồm có: khám thận, niệu quản, bàng
quang, niệu đạo. Ở đàn ông có thêm tuyến tiền liệt nằm ở vùng cổ bàng quang.
Hệ thống thận tiết niệu không thể tách rời khỏi cơ thể, cho nên khi khám có hệ
thống với hệ thống thận tiết niệu phải thămkhám toàn thân.
I. KHÁM HỆ THỐNG THẬN TIẾT NIỆU.
1. Nhắc lại giải phẫu của hệ thống thận – tiết niệu.
Mỗi người có hai thận nằm hai bên cột sống, trong hố thận, bờ trong là bờ ngoài
cơ đài chậu, cực trên ngang mỏm ngang đốt sống lưng 11, cực dưới ngang
mỏm ngang đốt sống lưng 3, thận phải thấp hơn thận trái. Trong trường hợp dị
dạng có người chỉ có một thận, hoặc 3 thận, hoặc không nằm trong hố thận mà
nằm ngoài hố thận, ở bất cứ nơi nào trong ổ bụng. Đối chiếu thận lên thành
bụng, ở phía trước là vùng mạn sườn, phía sau là vùng hố thắt lưng. Hố thận là
một mô liên kết rất lỏng lẻo. Có thể vi thận nằm trong hố thận như quả trứng
lửng lô trong nước muối. Cho nên đặc tính giải phẫu học của thận là rất di động
và bình thừong ta không sờ thất được thận vì nhỏ và bị các cơ quan khác
trong ổ bụng che lấp. Nhưng khi thận to lên ta có thể sờ được.
Từ thận đi xuống có hai niệu quản chạy dọc hai bên cột sống. Sỏi khi nằm ở niệu
quản hoặc đi qua có thể gây cơn đau. Hai niệu quản đổ vào bàng quang. Nước
tiểu từ bàng quang đi ra ngoài qua niệu đạo. Riêng ở nam giới có tiền liệt tuyến,
tuy nằm ngoài đường tiết niệu và thuộc về bộ máy sinh dục nhưng có liên quan
mật thiết với bộ máy tiết niệu vì nó nằm ngang ở vùng bàng quang bao quanh
niệu đạo ở phía sau. Khi tiền liệt tuyến bị viêm hoặc có u sẽ có những biểu hiện
về rối loạn tiểu tiện.
Do đó khám bộ máy tiết niệu cần khám có hệ thống từ trên xuống dưới theo thứ
tự giải phẫu đó.
2. Cách khám thận
2.1. Nhìn:
Nhìn vùng hố thắt lưng xem có sưng không, nhìn bụng có thấy khối u nổi lên
không.
2.2. Sờ:
Là phương pháp quan trọng nhất để khám thận to
2.2.1. Tư thế người bệnh nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng:
Thầy thuốc ngồi bên phải hay bên trái tuỳ theo khám thận phải hay thận trái. Hai
người cần ngồi gần nhau để tránh phải gắng sức. Người bệnh nằm yên lặng, thở
đều, mềm bụng, sờ lúc người bệnh thở ra vì khi đó các cơ mềm, dễ sờ. Các
phương pháp sờ:
- Dùng một bàn tay hay hai bàn ấn thật sâu ra phía sau để tìm khối u ở sâu còn
nhỏ. Aán nhè nhẹ phía trên: khi khối u to, ở nông.
- Dùng hai tay, một tay luồn xuống phía dưới, vùng hố thắt lưng, một tay đặt trên
bụng phía đối diện, hai tay ép dần sát vào nhau (hình 1).
Trong khi sờ, chú ý cảm giác đau của người bệnh và phản ứng bụng.
- Tìm dấu hiệu chạm thắt lưng (contact lombaire): dùng một bàn tay đặt phía sau
vùng hố thắt lưng, còn bàn tay kia sờ nhẹ và ấn lên khối u. Nếu thận to, sẽ thấy
có cảm giác chắc chắc ở bàn tay. Dấu hiệu này rất quan trọng để chẩn đoán
thận to.
- Tìm dấu hiệu bập bềnh thận: người bệnh nằm ngửa, chân duỗi thẳng, một tay
đặt phía hố thắt lưng, một tay để trên bụng, vùng mạn sườn. Tay trên để yên,
tay dưới dùng ngón tay ấn và hất mạnh lên, rồi làm ngược lại, tay dưới để yên,
dùng đầu ngón tay trên đẩy xuống, làm khi người bệnh bắt đầu thở ra. Cần đẩy
nhanh và hơi mạnh nếu đẩy chậm sẽ không có kết quả. Khi có thận to, tay trên
có cảm giác như có một cục đá chạm vào rồi mất đi.
2.2.2. Tư thế người bệnh nằm nghiêng:
Người bệnh nằm nghiêng, một chân duỗi. Muốn khám thận bên nào thì nằm
nghiêng bên đối diện, thầy thuốc ngồi phía sau lưng. Ví dụ muốn khám thận bên
phải, người bệnh nằm nghiêng về bên trái, thầy thuốc ngồi sau lưng, dùng tay
trái đặt ở hố thắt lưng, tay phải đặt ở phía bụng. Ngón trỏ cách xương sườn thứ
10 khoảng 2 khoát ngón tay. Khi người bệnh hít vào sâu, thận được đẩy xuống,
ta sờ thấy thận.
Người bệnh có thể nằm nghiêng như trên nhưng nằm hơi cong để các cơ được
chùng hơn, kê một gối vào mạn sườn phía trên, thăm khám được dễ hơn.
Phương pháp này rất tốt trong trường hợp thận thay đổi chỗ hoặc khối u thận
quá to.
Trong các phương pháp sờ nắn trên, phương pháp thu bập bềnh thận là
phương pháp tốt nhất dẽ khám thận to vì nó đơn giản và chính xác, khi có dấu
hiệu bập bềnh, thường khối u đó là thận to. Tuy nhiên có trường hợp bập bềnh
thận không có hoặc không chắc chắn, phương pháp nằm nghiêng sẽ bổ sung
thêm.
Bằng các phương pháp sờ trên đây, nếu có thận to hay sa thận, ta sẽ sờ thấy.
Nếu thận không to, ở vị trí bình thường không sờ thấy được.
3. Tìm điểm đau của thận và niệu quản.
Bình thường thận và niệu quản không đau. Trong bệnh lý có thể đau ở các điểm:
3.1. Phía trước có các điểm đau (Hình 2)
3.1.1. Điểm niệu quản trên hay điểm cạnh rốn: kẻ một đường ngang qua rốn gặp
bờ ngoài cơ thẳng to, hoặc 3 khoát ngón tay cách ngang rốn. Tương ứng với L2
(1)
3.1.2. Điểm niệu quản giữa: Kẻ đường ngang qua hai gai chậu trước trên. Chia
làm 3 phần: hai đầu của đoạn 1/3 giữa là điểm niệu quản giữa tương ứng với
khớp L4 – L5.
3.1.3. Điểm niệu quản dưới: phải thăm trực tràng và âm đạo mới thấy.
3.2. Phía sau có các điểm (Hình 3,4).
3.2.1. Điểm sườn lưng: điểm gặp nhau của bờ dưới xương sườn 12 và bờ ngoài
khối cơ lưng to.
3.2.2. Điểm sườn cột sống: góc xương sườn 12 và cột sống. Ngoài ra người ta
còn làm thêm phương pháp vỗ thận để tìm dấu hiệu rung thận (Patenôpxki)
giống như dấu hiệu rung gan; để một bàn tay lên vùng thận rồi dùng mép bàn
tay kia vỗ lên trên. Bình thường, khi làm nghiệm pháp này, người bệnh không
đau, nhưng nếu có bệnh lý ở thận, nhất là ứ nước và ứ mủ thận làm nghiệm
pháp này rất đau.
4. Khám bàng quang.
4.1. Bình thường. không có cầu bàng quang nên không khám thấy bàng quang
được.
4.2. Bệnh lý: khi ứ nước tiểu bàng quang. Khám sẽ thấy cầu bàng quang.
4.3. Cách khám:
4.3.1. Nhìn: nếu có cầu bàng quang, vùng hạ vị nổi lên một khối u tròn nhỏ bằng
quả cam hay to lên tận rốn.
4.3.2. Sờ: khối u rất tròn nhẵn, có cảm giác căng căng, không di động.
4.3.3. Gõ: đục, vùng đục hình tròn đỉnh lồi lên phía trên.
4.3.4. Thông đái: lấy được nhiều nước tiểu, khối u xẹp ngay. Đó là phương pháp
chắc chắn nhất để phân biệt với các khối u khác.
Nếu nghi sỏi bàng quang, thông bàng quang bằng ống thông kim loại, có thể
thấy tiếng lạch cạch.
4.3.5. Thăm âm đạo trực tràng: cũng thấy u tròn, nhẵn căng. Khác hẳn một số
khối u tiểu khung. Nếu có sỏi to ở bàng quang hoặc sỏi nhỏ ở “ niệu đạo thành”
cũng có thể sờ thấy được.
Thăm trực tràng âm đạo còn giúp cho biết các lỗ rò trực tràng bàng quang âm
đạo.
4.4. Chẩn đoán phân biệt.
Các khối u tiền khung: có thai, u xơ tử cung, u nang buồng trứng,… bằng cách
thăm trực tràng, âm đạo và thông đái.
5. Khám niệu đạo.
Nâng quy đầu lên, lấy tay nặn từ phía trong ra, bình thường không thấ gì chảy ra
cả. Ở phụ nữ, vạch hai môi to và nhỏ, sẽ thấy lỗ niệu đạo nằm ở trên, dưới âm
vật. Ở cả đàn ông lẫn đàn bà, có thể thấy các tổn thương: viêm tấy đỏ lỗ niệu
đạo, loét miệng sào, hoặc có mủ chảy ra. Nếu có mủ, phải lấy mủ để soi và cấy
vi khuẩn.
6. Khám tiền liệt tuyến.
Phải thăm trực tràng mới thấy được. Nếu người bệnh nằm ngửa, ta quay đầu
ngón tay lên phía trên, khoảng 12 giờ nếu người bệnh nằm sấp, chổng mông
quay mặt trước ngón tay phía xuống dưới, khoảng 6 giờ, thì đầu ngón tay sẽ có
cảm giác chạm vào một khối u nhỏ hơi lồi lên trên mặt của trực tràng. Đó là tiền
liệt tuyến.
Bình thường tiền liệt tuyến là một khối u nhỏ, không sờ thấy hoặc chỉ hơi nổi lên,
có hai thuỳ, ở giữa có một rãnh. Vị trí nằm ở vùng cổ bàng quang ôm lấy niệu
đạo màng, ngang dưới khớp vệ. Ở người già tuyến này bị xơ nên có thể hơi
cứng và to hơn một chút so với người trẻ.
Tiền liệt tuyến có thể to lên trong trường hợp:
6.1. Ung thư tiền liệt tuyến: thăm trực tràng thất tiền liệt tuyến to, rất cứng có khi
sờ thấy nhân ung thư rất cứng, lồi hẳn lên. Aán có thể đau. Có thể to một thuỳ
hoặc cả hai thuỳ.
Vì tiền liệt tuyến nằm ngang ở cổ bàng quang nên khi to sẽ đội cổ bàng quang
lên và đè bẹp niệu đạo, gây rối loạn về “đi tiểu”.
6.2. Viêm tiền liệt tuyến: tiền liệt tuyến to, mềm hơn và rất đau. Khi thăm trực
tràng có thể nặn mủ chảy ra. Lấy mủ đó đem cấy và đem soi vi khuẩn. Viêm tiền
liệt tuyến có thể lan vào bàng quang.
II. THĂM KHÁM TOÀN THÂN MỘT NGỪƠI CÓ BỆNH THẬN – TIẾT
NIỆU.
Ngoài khám bộ máy tiết niệu ra còn phải thăm khám toàn thân. Cần chú ý đến
những triệu chứng sau:
1. Phù.
Phù trong bệnh thận là do proten bị mất đồng thời một số chất điện giải nhất là
Na bị ứ lại trong máu do thận không lọc được; chất andosteron được bài tiết ra
(tù thượng thận) nhiều hơn, lại càng Na lại, kết quả là áp lực keo giảm xuống, áp
lực thẩm thấu tăng lên và nước lại bị ứ lại trong tồ chức, gây phù. Đó là loại phù
mềm, trắng, ấn ngón tay lên mặt trước xương chày sẽ để lại vết lõm “ lọ mực”.
Nếu lâu, phù trở nên “cứng”. Đặc tính của phù thận là phù trước tiên ở mặt rồi
mới tới chân và cuối cùng là phù toàn thể, kể cả bụng, màng tim,màng phổi…
nghỉ ngơi không hết phù.
Phù có thể xuất hiện châm và nhẹ nhàng nhưng có trường hợp xuất hiện nhanh
và năng như trong hư thận nhiễm mỡ, phù tiến triễn nhanh và nhiều.
Muốn phát hiện phù sớm ta chú ý đến những tổ chức mềm, lỏng lẻo như hố
mắt, bình thường lõm nếu có phù sẽ đầy lên, mi mắt cũng “nặng” ra, phần dưới
mắt cá chân trong nếu có phù, ấn vào sẽ lõm.
Trong trường hợp nghi ngờ, ta làm nghiệm pháp Aldrich và Mac Clure: tiêm
trong da 210ml nước muối sinh lý ở mặt trong cảng tay: bình thường sau 50 phút
– 90 phút sẽ tan hoàn toàn. Nếu có hiện tượng ứ nước và muối trong cơ thể thì
nốt phồng tan nhanh hơn, càng phù nhiều tan càng nhanh.
Muốn theo dõi sự tăng giảm của phù, phải cân người bệnh hàng ngày.
2. Tim mạch
2.1. Tim: khi urê máu cao, có thễ gây tình trạng viêm cơ tim và màng ngoài tim;
nghe tim sẽ nghe thấy tiếng tim nhỏ, nhanh, có thể có tiếng cọ màng ngoài tim.
2.2. Huyết áp: như ta đã biết, bệnh thận và tăng huyết áp có liên quan khăng
khít với nhau. Trong viêm thận mạn cũng như viêm thận cấp, tăng huyết áp là
một triệu chứng thường có. Trong viêm thận mạn, tăng huyết áp là một trong 4
triệu chứng mà Widal đã nói tới từ lâu. Trong hẹp động mạch thận cũng gây nên
tăng huyết áp tiên phát.
Ngược lại từ lâu ngày cũng sẽ có biến chứng vào thận gây xơ tiểu động mạch
thận. Theo dõi huyết áp còn giúp cho ta tiên lượng tiến triển bệnh tốt hay xấu.
3. Thiếu máu.
Hiện nay người ta cho rằng thận sản xuất yếu tố sinh hồng cầu giúp cho tuỷ
xương hoạt động bình thường. Khi bị suy thận, yếu tố đó giảm bớt đi, đưa đến
thiếu máu. Thường thiếu máu nhẹ, hồng cầu 2.5 đến 3 triệu. Cho nên những
người viêm thận mạn thường có màu da tái tái. Đôi khi có thễ gây thiếu máu
nặng, hồng cầu dưới 2 triệu.
4. Soi đáy mắt.
Những người viêm thận tăng huyết áp, đáy mắt có thể bị tổn thương:
- Phù gai mắt.
- Võng mạc bị chảy máu thành từng chấm nhỏ, từng mảng. Hay gặp nhất là
chảy máu hình ngọn nến, đôi khi chảy máu thành mảng rộng. Nếu điểm vàng bị
chảy máu thì thị lực sẽ giảm.
- Chảy máu võng mạc: võng mạc như một đám mây trên nền đỏ tập trung vùng
gai mắt và điểm vàng.
Người ta cũng cần chú ý đến tình trạng toàn thân gày yếu, mệt mỏi, ăn, uống,
ngủ, tình trạng mạch, nhiệt