Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

"Sát thủ giấu mặt" viêm gan C potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.7 KB, 5 trang )

"Sát thủ giấu mặt" viêm gan C
Có không ít người đã ngộ nhận viêm gan C là “đàn anh” của viêm
gan B và phải mắc viêm gan B thì mới có nguy cơ bị viêm gan C. Chính
vì hiểu trật lất như vậy nên đã thiếu những ứng xử đúng đắn với siêu vi
này, dẫn đến nguy hiểm cho bản thân.
Một bệnh nhân khá lớn tuổi đến gặp tôi tại phòng khám viêm gan của
bệnh viện đại học Y dược trong một tâm trạng rất lo lắng vì mới nhận được
kết quả xét nghiệm Anti-HCV dương tính và men gan tăng. Ông kể cách đây
20 năm, ông bị xuất huyết tiêu hoá do loét dạ dày và đã được truyền hai đơn
vị máu. Ông thắc mắc tại sao từ đó đến nay, vẫn cảm thấy khoẻ mạnh mà
nay lại đột nhiên kết luận bị viêm gan siêu vi C mạn tính.
Viêm gan sao không vàng da?
Thật ra, mãi đến năm 1989, người ta mới phát hiện được những
trường hợp bị viêm gan xảy ra sau khi truyền máu là do một loại siêu vi
khuẩn được đặt tên là siêu vi viêm gan C gây ra (sau đây gọi tắt là viêm gan
C). Chính vì vậy những trường hợp truyền máu trước năm 1990 như bệnh
nhân nói trên vẫn có nhiều nguy cơ bị nhiễm viêm gan C. Đây là một loại
siêu vi khuẩn có cấu tạo và khả năng gây bệnh hoàn toàn khác với siêu vi A
và B. Do đó, không phải bị nhiễm siêu vi A hoặc B lâu ngày thì sẽ tiến triển
thành siêu vi C. Người ta ước tính có khoảng hơn 200 triệu người đã bị
nhiễm viêm gan C trên toàn thế giới.
Trước kia, viêm gan C chủ yếu lây qua đường truyền máu hoặc khi
tiếp xúc trực tiếp với máu của bệnh nhân mà da niêm của chúng ta bị trầy
xước hoặc bị đâm thủng. Hiện nay, nhờ các xét nghiệm tầm soát và sàng lọc
ở những người cho máu nên tỷ lệ lây nhiễm sau truyền máu đã giảm đáng
kể. Đường lây bệnh quan trọng hiện giờ là do dùng chung kim và ống tiêm.
Hơn 60% những người chích xì ke đã bị nhiễm viêm gan C. Ngoài ra, viêm
gan C còn lây qua đường tình dục, từ mẹ truyền sang con trong lúc sinh
nhưng mức độ lây nhiễm ít hơn viêm gan B gấp 10 lần. Ngoài ra, bệnh còn
bị lây nhiễm do châm cứu, xâm mình, xỏ lỗ tai, dùng chung các vật dụng cá
nhân như bàn chải đánh răng, dao cạo râu của người bệnh. Vấn đề lây


nhiễm trong bệnh viện cũng đáng được quan tâm (do phẫu thuật, nội soi,
chữa răng, nạo thai mà dụng cụ không được khử trùng đúng cách). Cũng
nên lưu ý, có khoảng 20 – 40% trường hợp bị viêm gan C nhưng không biết
nguồn lây rõ ràng.
Viêm gan C thường ít gây ra triệu chứng viêm gan cấp và điển hình
cho nên đa số bệnh nhân không có triệu chứng rõ ràng. Nếu có, cũng là
những triệu chứng không đặc hiệu như mệt mỏi, chán ăn, rối loạn tiêu hoá,
đau tức dưới sườn bên phải. Rất ít khi có vàng da. Việc phát hiện bệnh
thường là tình cờ khi đi xét nghiệm máu hoặc kiểm tra sức khoẻ. Nhiều lúc,
bệnh cứ tiến triển âm thầm đến khi phát hiện thì đã bị xơ gan hoặc ung thư
gan. Do vậy, việc khám sức khoẻ và xét nghiệm máu định kỳ là rất cần thiết
để phát hiện bệnh sớm.
Viêm gan C có điều trị hết?
Một trong những đặc điểm quan trọng của viêm gan C là đa số bệnh
nhân sẽ không có khả năng loại trừ siêu vi ra khỏi cơ thể và họ sẽ trở thành
người nhiễm viêm gan C mạn tính. Trong số đó, 25% bệnh nhân có men gan
hoàn toàn bình thường trong nhiều năm và họ được gọi là “người mang siêu
vi C mạn tính không triệu chứng”. Số bệnh nhân còn lại có viêm gan mạn
tính tiến triển chậm, men gan có lúc tăng, lúc giảm về bình thường. Do vậy,
bệnh nhân thường chủ quan không chịu theo dõi bệnh thường xuyên. Sau 10
– 20 năm, ít nhất có 20% số bệnh nhân viêm gan C mạn tính tiến triển sang
xơ gan rồi thành ung thư gan. Xơ gan có thể xảy ra sớm hơn nếu như bệnh
nhân uống rượu nhiều hoặc bị nhiễm thêm các loại siêu vi khác như siêu vi
B, D, HIV
Một điều may mắn là bệnh viêm gan C có thể chữa thành công trên
50% trường hợp nếu được điều trị đúng cách. Phác đồ điều trị tối ưu hiện
nay là sử dụng kết hợp Peg-interferon (Pegasys hoặc Peg-Intron) với
ribavirine. Peg-interferon là loại thuốc dùng tiêm dưới da, mỗi tuần một lần.
Còn ribavirine là loại thuốc uống mỗi ngày. Thời gian điều trị phải kéo dài
từ 6 đến 12 tháng tuỳ từng trường hợp. Trước kia, người ta dùng loại thuốc

interferon thông thường, tiêm ba lần mỗi tuần, có chi phí thấp hơn nhưng chỉ
đạt được hiệu quả dưới 30%. Quá trình điều trị có thể sẽ đem lại một số tác
dụng phụ. Interferon có thể gây các triệu chứng giống cảm cúm như mệt
mỏi, sốt, ớn lạnh, đau xương khớp, đau mình mẩy. Các triệu chứng này chỉ
xảy ra trong vài tuần đầu điều trị. Ngoài ra, bệnh nhân còn bị chán ăn, rụng
tóc, trầm cảm, giảm số lượng các tế bào máu Ribavirine gây ho, ngứa, mất
ngủ, thiếu máu, có thể ảnh hưởng đến thai cho nên tuyệt đối phải áp dụng
các phương pháp ngừa thai trong suốt thời gian điều trị. Tuy nhiên, các tác
dụng phụ này có thể được khắc phục bằng những biện pháp điều trị bổ sung
và nâng đỡ thể trạng. Tuỳ từng loại triệu chứng mà các bác sĩ sẽ có những
cách điều trị thích hợp.
Người bệnh cũng cần thực hiện một chế độ ăn uống điều độ và cân
đối. Không nên kiêng khem quá mức sẽ gây suy dinh dưỡng. Rượu bia cần
phải hạn chế. Nếu đã bị xơ gan thì phải bỏ rượu hoàn toàn. Các sinh hoạt
thông thường hàng ngày vẫn nên tiếp tục. Cần tập thể dục, thể thao vừa sức
để tăng cường sức khoẻ.

×