Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Bệnh viêm gan : viêm gan A -Viêm gan B- viêm gan C và thuốc chữa ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.53 KB, 6 trang )

Bệnh viêm gan : viêm gan A -Viêm gan
B- viêm gan C và thuốc chữa

Viêm gan (hepatitis) là danh từ chung để chỉ các tình trạng viêm xảy ra ở
gan. Đây có thể là viêm cấp tính hay mãn tính và do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Viêm gan có thể do một nhóm virus gây ra gọi là Viêm gan siêu vi gồm các
nhóm A, B, C, D và E. Các virus khác cũng có thể là thủ phạm gây bệnh như các
loại virus gây nhiễm trùng đơn nhân (virus Epstein-Barr) hay thủy đậu.Viêm gan
cũng có thể dùng để gọi tình trạng viêm xảy ra tại gan do thuốc, nghiện rượu hay
do độc chất có trong môi trường. Người ta cũng có thể bị viêm gan khởi phát từ
các tác nhân khác như chấn thương và quá trình tự miễn, trong đó cơ thể tự sản
xuất kháng thể tấn công gan của chính họ.
HBV thuộc loại siêu vi trùng (hay vi rút ) Hepadna với khả năng tồn tại
cao. HBV bền vững với nhiệt độ :100 độ C virut sống được 30', ở -20 độ C sống
tới 20 năm, HBV kháng ete (eter), nhưng bất hoạt trong formalin(fócmon).
Xét nghiệm máu có thể có 3 loại HBV với kích thước cỡ 22nm, 42nm và
22-200nm. Kháng nguyên HBcAg chỉ có ở virut kích thước 42nm. Trong máu
bệnh nhân có cả hạt nhiễm và không nhiễm (virion).Các hạt không nhiễm không
có genom của virus (dsADN)nên không có khả năng gây bệnh. Nồng độ các hạt
không nhiễm có thể tới 1010 virion/ml. Vì vậy có tới 65% bệnh nhân có HBsAg
không có triệu chứng bệnh, 35% có các triệu chứng của viêm gan.
genome gồm một DNA có phần gập đôi, khoảng 3.2 kilo cặp base, tạo nên
các antigen:
HBsAg (kháng nguyên bề mặt) : thuộc lớp vỏ của HBV - dùng trong xét
nghiệm máu để biết có HBV trong cơ thể
HBcAg (kháng nguyên lõi): thuộc lớp lõi của HBV - dùng để biết HBV
đang phát triển
HBeAg (kháng nguyên nội sinh): nếu có trong máu bệnh nhân đang có khả
năng lây rất cao
gen X : có thể là nguyên nhân tạo ung thư gan
gen P


Sau khi HBV nhập vào cơ thể, hệ miễn nhiễm sẽ tạo kháng thể cho từng
kháng nguyên của HBV (xem hình). Một tuần hay một tháng sau khi nhiễm siêu vi
trùng, HBsAg xuất hiện trong máu, tiếp theo là HBeAg và kháng thể IgM và IgG
cho HBcAg (anti-HBc). Khi HBsAg biến mất, thì kháng thể chống sAg (anti-HBs)
mới xuất hiện.
Một khi anti-HBs xuất hiện người bệnh được coi như hồi phục, trở thành
miễn nhiễm đối với HBV và không lây bệnh qua người khác được. Một số bệnh
nhân không tạo được kháng thể này và tiếp tục mang mầm bệnh HBsAg, sẽ có thể
lây cho người khác.Kháng thể anti-HBc có hai loại: IgM trong thời kỳ bị nhiễm
trùng cấp tính và IgG trong thời kỳ chuyển tiếp. Nếu anti-HBc IgG không hạ
xuống và có HBsAg có nghĩa bệnh nhân đang bị dạng viên gan mạn tính.Nếu
HBeAg dương tính là dấu hiệu cho thấy virus đang nhân lên mạnh mẽ, bệnh nhân
có khả năng lây cao, trường hợp này cần điều trị. Khi thử nghiệm thấy anti-HBe
thì có tiên lượng tốt hơn và khả năng lây không nhiều.
Viêm gan siên vi A, lây nhiễm chủ yếu qua đồ ăn thức uống bị nhiễm phân
và được coi là dạng ít nguy hiểm nhất vì nó tự khỏi không cần phải điều trị và
cũng không gây viêm gan mãn . Virus gây viêm gan A chủ yếu lây nhiễm qua cầm
nắm thức ăn, sống chung nhà, chơi chung đồ chơi ở nhà trẻ, ăn sò ốc chưa nấu
chín kỹ bắt được trong những vùng nước bị nhiễm bẩn.
Viêm gan siêu vi C thường lây truyền qua tiếp xúc với máu hoặc kim dính
máu – kể cả kim xăm da. Mặc dù viêm gan siêu vi C có thể gây triệu chứng nhẹ
hoặc không có triệu chứng nhưng khoảng 20% người bị nhiễm loại virus này sẽ
tiến triển thành xơ gan trong 20 năm.
Viêm gan siêu vi D chỉ xảy ra trên người nhiễm viêm gan siêu vi B và có
khuynh hướng làm bệnh này bộc phát nặng hơn
Viêm gan siêu vi E xảy ra chủ yếu ở châu Á, Mehico, Ấn độ và châu Phi.
Giống như viêm gan A, dạng bệnh này lây truyền chủ yếu qua lây nhiễm phân và
không gây biến chứng ên phụ nữ mang thai vì có thể gây tử vong.
Viêm gan cấp tính
Thời gian ủ bệnh từ 1 - 6 tháng. Một số bệnh nhân có cảm giác như bị cảm

nhẹ, đôi khi không biết mình bị HBV. Một số khác bị vàng da, mệt mỏi, đau nhức,
buồn ói, chán ăn, sốt nhẹ, biến đổi cảm giác (hiện tượng đặc biệt là người ghiền
thuóc lá tự nhiên không thích mùi thuốc lá), đau bụng (dưới sườn bên phải).
Những trường hợp bị viêm nặng sẽ đưa đến gan to, ngầy ngật, khó ngủ, mê muội,
lãng trí hoặc bất tỉnh.
Biểu hiện lâm sàng: Tăng nhiệt độ, vàng da (1 tuần sau khi bị nhiễm và có
thể keó dài đến 1-3 tháng), gan to, lách to. Hiếm khi thấy bàn tay ửng đỏ hoặc
"spider nevi" (mạch máu li ti kết toả thành hình nhện như hoa thị trên da)
Viêm gan mạn tính
Phần lớn khi bị viêm mạn tính cảm thấy bệnh nhân hoàn toàn bình thường.
Một số bị viêm mạn tính nặng thì tiếp tục bị các triệu chứng viêm cấp như mệt
mỏi, chán ăn, đau bụng, và suy gan.
Biểu hiện lâm sàng: Gan to, bàn tay ửng đỏ, spider nevi. Khi bị biến chứng
xơ gan có thể bị ứ nước trong bụng, vàng da, loãng máu, chảy máu trong dạ dày,
tĩnh mạch toả lớn từ rốn (do tăng áp làm giãn tĩnh mạch cửa gan), nam vú lớn như
vú nữ, tinh hoàn teo nhỏ (vì gan yếu làm thay đổi cân bằng của các hormone giới
tính)
Điều trị
Việc điều trị chủ yếu là ngăn chặn sự sinh sôi, nhân lên của virus hoặc các
chất làm rối loạn quá trình tổng hợp, tự nhân lên của virus.

×