Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Nhiệt trị liệu: Hiệu quả cho điều trị thẩm mỹ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.88 KB, 12 trang )

Nhiệt trị liệu: Hiệu quả cho điều trị
thẩm mỹ


Chúng ta vẫn thường nghe đến những thuật ngữ như
phương pháp paraffin hay chiếu tia hồng ngoại… trong trị
liệu thẩm mỹ. Một vài trong chúng ta thường tỏ ra băn
khoăn về tác dụng thực sự của những phương pháp này.
Trên thực tế, đây là những phương pháp trị liệu đã được
khoa học và y khoa chứng nhận, có tác dụng hiệu quả đối
với con người. Chúng được gọi chung bằng cái tên “Nhiệt
trị liệu”.
Nhiệt trị liệu (tiếng Anh: thermotherapy) là phương pháp
điều trị của vật lý trị liệu, trong đó sử dụng các tác nhân
gây nhiệt để mang lại hiệu quả điều trị. Tùy theo nhiệt độ
của tác nhân gây nhiệt, chia thành 2 loại: nhiệt nóng (có
nhiệt độ từ trên 37oC đến khoảng 45- 50oC) và nhiệt lạnh
(thường dưới 15oC). Hiện tại, nhiệt trị liệu đang được ứng
dụng phổ biến tại các trung tâm thẩm mỹ trị liệu, các spa và
clinic.
Nhiệt nóng - Tác dụng lớn

Nhiệt nóng có tác dụng rất lớn đối với cơ thể con người.
Chúng được biết đến với những tác dụng như:
Phản ứng vận mạch: Nhiệt nóng gây giãn động mạch nhỏ
và mao mạch tại chỗ, có thể lan rộng ra một bộ phận hay
toàn thân. Tác dụng giãn mạch làm tăng cường tuần hoàn,
làm giảm co thắt, giảm đau, tăng cường dinh dưỡng và
chuyển hóa tại chỗ, từ đó có tác dụng giảm đau đối với các
chứng đau thần kinh.


Với hệ thần kinh cơ: Nhiệt nóng có tác dụng an thần, điều
hòa chức năng thần kinh, thư giãn cơ co thắt, điều hoà thần
kinh thực vật…do đó có tác dụng tốt với các chứng đau
mãn tính gây co cơ.

Tác dụng giảm đau: Mức độ giảm đau của điều trị nhiệt
phụ thuộc vào loại đau và nguyên nhân đau.

Tác dụng giảm đau do các cơ chế: Tăng cường tuần hoàn
tại chỗ làm nhanh chóng hấp thu các chất trung gian hóa
học gây đau như bradykinin, prostaglandin…Kích thích
nhiệt nóng được dẫn truyền theo các sợi thần kinh to sẽ ức
chế cảm giác đau được dẫn truyền theo các sợi thần kinh
nhỏ và làm thư giãn cơ.

Hiện nay, nhiệt nóng được chỉ định sử dụng trong giảm
đau, giảm co thắt cơ trong các chứng đau mãn tính như:
đau thắt lưng, đau cổ vai cánh tay, đau thần kinh tọa, đau
cơ… Tăng cường dinh dưỡng tại chỗ cho vết thương, vết
loét lâu liền, làm nhanh liền sẹo; Làm giãn cơ để phục vụ
các kỹ thuật trị liệu khác như xoa bóp, vận động…Tuy
nhiên, không nên dùng nhiệt nóng với các ổ viêm đã có mủ,
viêm cấp, chấn thương mới đang xung huyết, các khối u ác
tính, lao, vùng đang chảy máu hoặc đe dọa chảy máu, giãn
tĩnh mạch da.

Các phương pháp điều trị nhiệt nóng

Nhiệt dẫn truyền Paraffin


Paraffin là một hỗn hợp có nhiều hydrocacbua từ dầu hỏa.
Paraffin dùng trong điều trị là loại tinh khiết, trung tính,
màu trắng, không độc. Khi sử dụng thường pha thêm một ít
dầu paraffin để tăng cường độ dẻo, không bị giòn gẫy.

Paraffin có nhiệt dung cao, nhiệt độ của khối paraffin nóng
giảm rất chậm, nên có thể truyền cho cơ thể một lượng
nhiệt lớn trong thời gian tương đối dài. Do vậy nhiệt do
paraffin truyền có thể vào tương đối sâu.

Nhiệt do paraffin cung cấp là nhiệt ấm, tức là khi ép miệng
paraffin nóng vào da sẽ gây kích thích tăng tiết mồ hôi,
nhưng mồ hôi này vẫn còn đọng lại làm cho da luôn ấm,
mềm mại và tăng tính đàn hồi (các phương pháp nhiệt khác
gây bốc hơi mồ hôi làm cho da khô và giòn). Điều trị bằng
paraffin không bị bỏng: khi paraffin nóng chảy ở nhiệt độ
52- 53oC tiếp xúc với da, ngay lập tức lớp paraffin tiếp xúc
sẽ đọng lại và giảm nhiệt độ tạo thành một lớp màng ngăn
cách giữa paraffin nóng với da nên không bị gây nóng.

Ngoài ra, hiện nay còn có các phương pháp nhiệt dẫn
truyền khác như các loại túi nhiệt (hot pack). Đây là các túi
cao su hoặc polime bên trong đựng các chất tạo nhiệt dùng
để chườm đắp vào vị trí đau. Người ta thường dùng các
chất tạo nhiệt như:

Túi paraffin: Cho paraffin vào túi, đuổi hết khí rồi dán kín,
khi dùng đem túi ngâm vào nước nóng 80oC cho đến khi
paraffin nóng chảy hết thì lấy ra để một lát cho lớp ngoài
nguội bớt thì dùng.


Túi silicat: Dùng silicat khô cho vào túi vải, khi ngâm vào
nước các phân tử silicat hút nước làm túi vải phồng ra, khi
đó đem túi đun trong nước cho đến nhiệt độ 50 – 60oC thì
đem ra dùng. Sau điều trị treo túi ở nơi khô thoáng cho cát
khô.

Túi gel đặc biệt: Trong túi chứa một loại chất gel đặc biệt,
bình thường ở dạng lỏng bên trong có một nút bấm tạo
phản ứng dây chuyền. Khi dùng đem bấm nút trong túi để
tạo phản ứng sinh nhiệt làm túi nóng lên đồng thời chất gel
bị kết tủa thành chất bột mềm, khi túi nguội đem đun túi
trong nước sôi cho đến khi chất kêt tủa trở lại hoàn toàn
trạng thái lỏng ban đầu thì đem ra dùng.

Nước nóng: Dùng nước nóng nhân tạo hoặc nước nóng tự
nhiên ở các suối nước nóng. Ngâm tắm nước nóng toàn
thân ngoài các tác dụng cải thiện chức năng tuần hoàn, hô
hấp, thư giãn thần kinh, thư giãn cơ, còn là một biện pháp
có hiệu quả trong điều trị các chứng đau mãn tính ở nhiều
vị trí trong cơ thể như: viêm da dây thần kinh, viêm da
khớp…

Nhiệt bức xạ hồng ngoại

Bức xạ hồng ngoại là bức xạ ánh sáng không nhìn thấy có
bước sóng trong khoảng từ 400.000nm đến 760nm, nguồn
phát có nhiệt độ càng cao thì bức xạ ra tia hồng ngoại có
bước sóng càng nhỏ. Là bức xạ có nhiệt lượng cao nên còn
gọi là bức xạ nhiệt.


Do đó tác dụng của hồng ngoại chủ yếu là tác dụng nhiệt,
vùng da chịu tác động nhiệt của hồng ngoại sẽ giãn mạch
đỏ da giống như các phương pháp nhiệt khác, nên có tác
dụng giảm đau chống viêm mãn tính, thư giãn cơ.

Nhiệt cơ học - siêu âm

Âm là những dao động cơ học của vật chất trong môi
trường giãn nở. Sóng siêu âm là sóng dọc, tức là dao động
cùng chiều với chiều lan truyền sóng. Siêu âm chỉ truyền
trong môi trường giãn nở (trừ chân không). Sóng âm tạo
nên một sức ép làm thay đổi áp lực môi trường. Tại một vị
trí nào đó trong môi trường, ở nửa chu kỳ đầu của sóng áp
lực tại đó tăng, trong nửa chu kỳ sau lại giảm gây ra hiệu
ứng cơ học của siêu âm.

Sự sinh nhiệt trong tổ chức do tác dụng của siêu âm là do
hiện tượng cọ xát chuyển từ năng lượng cơ học sang năng
lượng nhiệt. So với các tác nhân vật lý khác, siêu âm có thể
làm tăng nhiệt độ ở mô sâu hơn và phạm vi chống chỉ định
hẹp hơn.

Sóng siêu âm có tác dụng đặc biệt với cơ thể con người:

Lấy đi lớp biểu bì: Làm sạch là một bước đầu tiên khi làm
đẹp. Không có bước này, mọi sự chăm sóc đều vô dụng. Sự
chuyển động và tạo chân không (bọt) giúp loại bỏ các biểu
bì già và chất nhờn trong lỗ chân lông.


Làm sạch mụn: Chuyển động và khả năng tạo bọt của sóng
siêu âm có thể dễ dàng lấy chất bẩn ra khỏi da. Khi mụn
xuất hiện, không kể đến những vùng da bị viêm trong
trường hợp chỗ viêm trở nên tệ hơn.

Làm chắc da: Lấy lớp da chết. Sóng siêu âm giúp da hút ẩm
và dinh dưỡng tốt hơn, việc massage thích hợp này làm cho
da săn chắc hơn.

Làm mờ vết thâm: Làm cho các tế bào nhiễm sắc tố bị tách
ra khỏi các mô biểu bì và được các bạch cầu chuyển ra
ngoài. Do đó, da sẽ trở lại sắc tố tự nhiên ban đầu.

Tạo dáng cho cơ thể: Chúng ta biết, thừa cân là do quá
nhiều mô mỡ tích tụ lại. Một điều may mắn cho chúng ta là
những mô này tích tụ tại một số vị trí nhất định: hông, bắp
đùi, lưng, eo, cánh tay, phần xương dưới ống chân. Nếu ta
giảm cân tại các vùng đó, ta sẽ thấy sự thay đổi khá lớn.
Phần đầu của các thiết bị sóng siêu âm được nhỏ để có thể
điều trị trực tiếp và chính xác hơn các vùng thừa cân.

Nhiệt lạnh - Phương pháp spa hiệu quả

Việc sử dụng nhiệt lạnh trong điều trị thẩm mỹ ngày nay đã
trở nên phổ biến. Một trong những lý do mà nhiệt lạnh
được ưu tiên sử dụng trong lĩnh vực này là tác dụng lành
tính của nó đối với cơ thể con người. Trên thực tế, cơ chế
tác dụng của nhiệt lạnh được chia làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Truyền nhiệt. Cơ chế mà đốt lạnh có thể phá

huỷ tế bào là do sự truyền nhiệt rất nhanh đến da làm cho
nhiệt độ tế bào hạ xuống nhanh và đột ngột. Tốc độ truyền
nhiệt phụ thuộc vào sự chênh lệch nhiệt độ trong đó nitơ
lỏng có nhiệt độ rất thấp (nhiệt độ sôi là -196oC) và da có
nhiệt độ là 37oC. Vì vậy nếu dùng phương pháp phun nitơ
lỏng lên da thì hầu như ngay lập tức nhiệt độ của da sẽ đạt
tới -196oC.

Giai đoạn 2: Huỷ hoại tế bào. Sau khi bị đóng thành băng,
tế bào bị huỷ hoại trong khoảng thời gian nhiệt độ từ từ trở
về bình thường. Nước ở ngoài tế bào biến thành đá gây ra
một sự chênh lệch giữa trong và ngoài tế bào làm huỷ hoại
tế bào. Trong quá trình tan đông, dịch nội bào sẽ thoát ra
qua màng tế bào đã bị hư hại. Làm đông lạnh càng nhanh
và tan đông càng chậm sẽ càng làm cho tế bào bị huỷ hoại
nhiều.

Để phá huỷ các tế bào sừng của da, nhiệt độ cần đạt là -0oC
trở xuống, còn tế bào sắc tố chỉ cần khoảng -5oC là phá
huỷ được. Điều này giải thích hiện tượng mất sắc tố sau khi
áp lạnh lên da những người có da sẫm màu. Các tổ chức
ung thư, để phá huỷ cần đạt nhiệt độ -50oC còn tổ chức
lành tính chỉ cần từ -20oC đến -25oC.

Giai đoạn 3: Quá trình viêm. Là quá trình đáp ứng của da
đối với liệu pháp lạnh, biểu hiện là các ban đỏ, phù nề. Đây
là sự phản ứng lại với tế bào tại chỗ. Khi dùng phương
pháp nhiệt lạnh có thể gây tổn thương bóc tách màng đáy
và tạo thành các mụn nước.


Lưy ý: Không dùng phương pháp này cho những tổn
thương vùng gần mắt, mí mắt. Không dùng cho bệnh nhân
mẫn cảm với lạnh, mày đay do lạnh, có tiền sử bệnh
raynaud, bệnh đông với globulin máu…

×