Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

ĐIỀU TRỊ BỆNH UNG THƯ BẰNG TIA BỨC XẠ (PHẦN 3) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.86 KB, 5 trang )

ĐIỀU TRỊ BỆNH UNG THƯ BẰNG TIA BỨC XẠ
(PHẦN 3)

3.2. Các tia bức xạ sử dụng trong điều trị ung thư
Các tia phóng xạ dạng sóng điện từ (photon)
- Tia X
Tia này được tạo ra khi các điện tử âm được gia tốc trong các máy phát tia
X hoặc các máy gia tốc Betatron, gia tốc thẳng
- Tia gamma
Được phát ra trong quá trình phân rã các nguyên tố phóng xạ hoặc đồng vị
phóng xạ. Hiện y học thường dùng một số nguồn sau:
Radium (Ra) là nguyên tố phóng xạ tự nhiên, chu kỳ bán huỷ dài song hiện
nay ít dùng vì khó bảo quản và gây hại nhiều khi sử dụng.
Cobal 60 (Co
60
) và Cesium 137 (Cs
137
) cho tia gamma có cường độ từ 1,7
MeV -> 1,33 MeV.
Iod
125
và Iridium 192 (Ir
192
) là những nguồn mềm, có thể uốn nắn theo ý
muốn tuỳ theo vị trí và thể tích u, nên được sử dụng rộng rãi.
- Tia b
Là những tia yếu thường dùng để chẩn đoán và điều trị tại chỗ một số ung
thư. Nó thường được gắn vào những chất keo, chất lỏng để bơm vào vùng u hoặc
vào cơ thể (dưới dạng dược chất phóng xạ). Hiện nay có 2 nguồn hay được sử
dụng là Iod 131 (I
131


) và phospho 32 (P
32
).
Các tia phóng xạ dạng hạt:
Là các tia có năng lượng cao, khả năng đâm xuyên lớn và được tạo ra bởi
các máy gia tốc.
Đây chính là thành tựu của nền khoa học kỹ thuật hiện đại nên ngày càng
được sử dụng nhiều ở các nước phát triển, bởi lẽ khi sử dụng rất an toàn, chính
xác và dễ bảo quản, không gây nguy hại đến các môi trường và sức khoẻ con
người. Tuỳ theo loại máy phát mà ta có được các loại tia với cường độ khác nhau.
Ví dụ:
- Chùm photon: Có năng lượng 5 - 18 MeV
- Chùm electron: Có năng lượng 4 - 22 MeV
3.3. Đơn vị đo lường và liều lượng
Theo phân loại quốc tế thấy có 2 loại đơn vị
- Liều xuất:
Là một lượng tia xạ đã được sau khi tia ra khỏi nguồn xạ. Đơn vị được tính
bằng rơnghen (R = Roentgen).
- Liều hấp thụ:
Đây có thể coi là liều xạ sinh học. Nó đo được tại một vị trí, một tổ chức
nào đó trong cơ thể ở vùng chiếu xạ. Đơn vị tính là Rad (Radioactive Absober
Dose) ngày nay người ta thường dùng đơn vị mới là Gray (1gray = 100 Rad = 100
centigray).
Có sự khác nhau giữa 2 loại đơn vị đo liều trên bởi lẽ khi vào cơ thể, tia xạ
sẽ bị giảm dần liều do có sự tương tác giữa các tổ chức với tia xạ.
Bởi vậy khi tính toán liều lượng người ta phải xác định rõ vị trí, thể tích, và
độ sâu của khối u để từ đó mới tính được liều xuất cần chiếu bao nhiêu để đạt
được liều tại khối u như dự kiến.
Với sự trợ giúp của máy chụp cắt lớp vi tính,máy tính điện tử, máy mô
phỏng

Hiện người ta đã vẽ được các bản đồ đường đồng liều và lập kế hoạch điều
trị theo không gian 3 chiều (3D). Do vậy người thầy thuốc xạ trị có khả năng điều
trị được một cách tương đối chính xác các khối u ở nhiều vị trí hóc hiểm trong cơ
thể với độ tin cậy khá cao.
3.4. Liều lượng chiếu xạ
Liều lượng chiếu xạ hoàn toàn phụ thuộc vào loại bệnh, loại mô bệnh học,
giai đoạn bệnh, xong bên cạnh đó chúng ta còn phải chú ý đến sự tái tạo của tế bào
cũng như sự phân bố của chúng. Vì vậy chỉ định liều lượng chiếu xạ hoàn toàn
phụ thuộc vào từng bệnh nhân cụ thể.
Nhìn chung người ta thấy rằng. Nếu liều xạ ở mức dưới 40 Gy thì tia ít có
tác dụng. Xong nếu liều đạt trên 80 gy thì dễ gây ra các biến chứng cho người
bệnh. Bởi vậy liều lượng trung bình đủ diệt tế bào ung thư là khoảng 55 Gy đến 65
Gy.
Vì phụ thuộc vào tác dụng không mong muốn của tia xạ, cũng như sự tái
tạo của tế bào. Đồng thời để tăng hiệu quả của tia và hạn chế tới mức thấp nhất sự
tổn thương của tế bào lành, theo quy định quốc tế người ta tia 200 centigray (ctg)
trong một ngày và 1000 ctg trong một tuần:
Như vậy toàn bộ tổng liều xạ để đạt sự thoái lui của bệnh sẽ được tia trải ra
trong khoảng 6 - 8 tuần. Vấn đề này còn phụ thuộc vào loại tia xạ sử dụng, kinh
nghiệm điều trị của từng nước và từng thầy thuốc.

×