Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là đảng cầm quyền tại Việt Nam theo Hiến pháp,
đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động. Theo Cương lĩnh và Điều lệ
chính thức được công bố, Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx-Lenin
(Marxism-Leninism) và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng. Trên thực tế, chủ nghĩa dân tộc, một số yếu tố tích cực của chủ nghĩa tư bản và cả
một vài yếu tố có tính truyền thống của ý thức hệ phong kiến cũng có những ảnh hưởng
nhất định. Tại Việt Nam, trong các ngữ cảnh không chính thức, các phương tiện truyền
thông, các nhà lãnh đạo, và đại bộ phận người dân thường dùng một từ "Đảng" (hoặc
"Đảng ta") để nói về Đảng Cộng sản Việt Nam.
[1][2]
Mục lục
• 1 Vai trò
• 2 Cương lĩnh chính trị
• 3 Lịch sử
o 3.1 Tình hình thế giới
o 3.2 Tình hình Việt Nam
o 3.3 Hình thành và các hoạt động đầu tiên
o 3.4 Cầm quyền tại miền Bắc
o 3.5 Sau thống nhất
• 4 Tổ chức
• 5 Các ban của Trung ương Đảng
• 6 Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ở các cấp
• 7 Đơn vị sự nghiệp của Ban Chấp hành Trung ương
• 8 Tư tưởng
• 9 Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương
• 10 Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời (tháng 2 năm 1930 - tháng 10
năm 1930)
• 11 Các Tổng Bí thư (tương đương với Bí thư Thứ nhất trong giai đoạn 1960 -
1976)
• 12 Các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc
• 13 Xem thêm
• 14 Chú thích
• 15 Liên kết ngoài
Vai trò
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam (1992, sửa đổi) viết:
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.
Cương lĩnh chính trị
Bài chi tiết: Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
Lịch sử
[sửa] Tình hình thế giới
Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm một khu vực
thuộc địa rộng 65 triệu km vuông với số dân 523,4 triệu người (so với diện tích các nước
đó là 16,5 triệu km vuông và dân số 437,2 triệu).
[3]
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Sự ra đời của Liên bang Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Xô Viết vào năm 1922.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế cộng sản được thành lập.
[sửa] Tình hình Việt Nam
• Kinh tế:
o Quan hệ sản xuất phong kiến vẫn được duy trì bên cạnh phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa mới được du nhập vào Việt Nam.
o Kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, về cơ bản vẫn là nền kinh
tế nông nghiệp và phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Pháp.
• Xã hội:
o Từ xã hội phong kiến đọc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
o Xã hội có sự phân hóa thành 5 giai cấp: Giai cấp địa chủ phong kiến, giai
cấp nông dân, giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp công nhân.
• Chính trị: tồn tại 2 chế độ.
o Triều đình phong kiến.
o Chế độ thực dân Pháp.
[sửa] Hình thành và các hoạt động đầu tiên
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam
họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930
[4]
đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên
cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản Đảng và
An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công
nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930,
đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng
sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng
(Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ
Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập
một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số
văn kiện quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông từ
ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông
Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú được bầu làm
Tổng Bí thư đầu tiên.
[5]
Vừa ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào nổi dậy 1930-1931, nổi bật là Xô-viết Nghệ
Tĩnh. Phong trào này bị thất bại và Đảng Cộng sản Đông Dương bị tổn thất nặng nề vì
khủng bố trắng của Pháp.
Năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I được bí mật tổ chức tại Ma Cao do Hà Huy
Tập chủ trì nhằm củng cố lại tổ chức đảng, thông qua các điều lệ, bầu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I gồm 13 ủy viên.
Đồng thời, một đại hội của Cộng sản Quốc tế thứ ba tại Moskva đã thông qua chính sách
dùng mặt trận dân tộc chống phát xít và chỉ đạo những phong trào cộng sản trên thế giới
hợp tác với những lực lượng chống phát xít bất kể đường lối của những lực lượng này có
theo chủ nghĩa xã hội hay không để bảo vệ hòa bình chứ chưa đặt nhiệm vụ trước mắt là
lật đổ chủ nghĩa tư bản. Việc này đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải xem các
chính đảng dân tộc tại Đông Dương là đồng minh. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tháng 7 năm 1936 do Lê Hồng Phong chủ trì tổ chức tại Thượng Hải, Đảng
đã tạm bỏ khẩu hiệu "đánh đổ đế quốc Pháp" và "tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho
dân cày" mà lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương. Tháng 3 năm
1938, Hội nghị Trung ương do Hà Huy Tập chủ trì họp ở Hóc Môn, Sài Gòn đã đổi tên
Mặt trận là Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương lại đàn áp
mạnh tay, Đảng đã chuyển hướng, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Tháng 3
năm 1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc.
Tháng 11 năm 1939 Hội nghị Trung ương đảng họp tại Hóc Môn, Sài Gòn do Nguyễn
Văn Cừ chủ trì đã thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương và Hội
nghị Trung ương tháng 5 năm 1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì họp tại Cao Bằng lập ra
Mặt trận Việt Minh. Thông qua mặt trận này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính
quyền tại Việt Nam, được biết đến với tên gọi Cách mạng tháng Tám.
Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán để giấu
sự liên hệ cộng sản với nhà nước mới thành lập, lấy tên gọi mới là Hội nghiên cứu Chủ
nghĩa Mác ở Đông Dương, mọi hoạt động công khai của đảng từ đây đều thông qua
Mặt trận Việt Minh. Song trên thực tế, đảng vẫn hoạt động và chỉ đạo công cuộc kháng
chiến.
Sau này, Đại hội Đảng lần thứ III (tháng 9 năm 1960) quyết định lấy ngày 3 tháng 2
hằng năm là ngày kỉ niệm thành lập Đảng.
[sửa] Cầm quyền tại miền Bắc
Đảng này được "lập lại", công khai (tại Việt Nam) với tên gọi Đảng Lao Động Việt
Nam vào tháng 2 năm 1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên Quang. Đại
hội này được diễn ra trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Đại hội này
cũng tách bộ phận của Lào và Campuchia (vốn cùng thuộc Đảng Cộng sản Đông
Dương) thành các bộ phận riêng.
Sau đại hội II, Đảng Cộng sản thực thi chiến dịch cải cách ruộng đất. Trong cuộc cải
cách, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2
triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Tuy nhiên, cuộc cải
cách đã đấu tố oan nhiều người, dẫn đến nhiều cái chết oan (số liệu cụ thể chưa được
xác định). Đến tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành
biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất như sau:
Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư Đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn
Lương ra khỏi Bộ Chính trị, và Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính thức
hóa công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng tại miền Nam.
[sửa] Sau thống nhất
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi chấm dứt
Chiến tranh Việt Nam, tên đảng được đổi lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng
cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó
khăn. Đại hội khởi xướng chính sách đổi mới, cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi
nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, trong lúc vẫn giữ vị trí độc quyền.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 tiếp tục chính sách đổi mới, đồng thời cho
phép đảng viên làm kinh tế tư nhân. Sau đại hội, một số báo chí nước ngoài đã đăng tin
Đảng đang cân nhắc việc đổi tên, thành Đảng Nhân dân hay đổi lại thành Đảng Lao
động.
[6][7]
[sửa] Tổ chức
Bài chi tiết: Tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng theo chủ nghĩa Marx-Lenin với nguyên tắc tập
trung dân chủ. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng,
là cơ quan duy nhất có quyền ban hành hoặc sửa đổi Điều lệ Đảng và cương lĩnh chính
trị, thông qua báo cáo tổng kết nhiệm kỳ đã qua và thông qua nghị quyết về phương
hướng hành động nhiệm kỳ tới, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo
cao nhất việc chấp hành nghị quyết của đại hội.
[8]
Giữa 2 kỳ đại hội, Ban chấp hành trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất. Ban chấp
hành trung ương do đại hội bầu ra tại đại hội Đảng toàn quốc và ban này họp 6 tháng 1
lần, họp bất thường khi cần. Ban chấp hành Trung ương bầu ra Bộ chính trị, bầu Tổng bí
thư trong số ủy viên Bộ Chính trị và thành lập Ban Bí thư để xử lý công việc theo nhiệm
vụ đã được quy định tại Điều lệ Đảng. Tổng bí thư đứng đầu Ban Chấp hành Trung
ương chủ trì cả Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị và Ban bí thư.
[8]
Đại hội Đảng được tổ chức thường kỳ 5 năm một lần để xác định đường lối lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước, đại hội bất thường khi cần. Đồng thời Đại hội Đảng bộ Quân đội
cũng tổ chức 5 năm 1 lần bầu ra Đảng ủy Quân sự Trung ương, gồm có một số ủy viên
do Bộ Chính trị phân công và các ủy viên trong quân đội để lãnh đạo đường lối quân sự
của Đảng đề ra.
[8]
Vào năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tăng
từ 77 đến 133 ủy viên và Bộ Chính trị tăng từ 11 đến 17 ủy viên trong khi Ban Bí thư
tăng từ 7 đến 9 ủy viên.
Đảng Cộng sản Việt Nam còn có hệ thống các ban, mỗi ban do một trưởng ban (ít nhất
là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương) đứng đầu.
Số đảng viên tăng gấp hai từ 760.000 vào năm 1966 đến 1.553.500 vào năm 1976, đại
diện 3,1% tổng dân số toàn quốc, và lên đến gần 2 triệu vào năm 1986.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tổ chức vào tháng 12 năm 1986, ông Nguyễn
Văn Linh trở thành Tổng Bí thư cùng 14 thành viên được bầu vào Bộ Chính trị và Ủy
ban Trung ương được mở rộng đến 173 thành viên.
Đại hội lần thứ IX diễn ra vào tháng 4 năm 2001 với 1168 đại biểu tham dự. Ban Chấp
hành Trung ương Đảng với 150 thành viên do Đại hội Đảng bầu ra, họp ít nhất mỗi năm
hai lần, với Bộ Chính trị họp nhiều lần hơn và Ban Bí thư có trách nhiệm giám sát hoạt
động hằng ngày dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX, ông Nông Đức Mạnh trở thành Tổng Bí thư mới.
Kết thúc nhiệm kỳ này, toàn Đảng có gần 3,1 triệu đảng viên, chiếm 3,73% dân số cả
nước.
Đại hội lần thứ X diễn ra từ 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 với 1.176 đại biểu tham dự, sau
khi bốn đại biểu (trong đó có một bộ trưởng đã từ chức, một thứ trưởng bị bắt tạm giam)
đã được rút từ danh sách ban đầu. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa X
với 160 thành viên, với Bộ Chính trị gồm 14 thành viên. Ông Nông Đức Mạnh được bầu
lại chức Tổng Bí thư.
[sửa] Các ban của Trung ương Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay theo QĐ45-QĐ/TW của Bộ Chính trị(hợp nhất các
ban của đảng, từ tháng 4/2007) có các ban sau đây mà chức năng chủ yếu là tham mưu
về chủ trương, chính sách lớn thuộc lĩnh vực được giao cho Ban Chấp hành Trung ương:
• Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương,
trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương và các chính
sách lớn thuộc lĩnh vực tổ chức cán bộ của hệ thống chính trị; đồng thời là cơ
quan chuyên môn nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên của Trung
ương. Ban này quan trọng nhất nên đứng đầu là một ủy viên Bộ Chính trị
• Ban Tuyên giáo Trung ương. Ban được xác định là cơ quan tham mưu của Ban
Chấp hành Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư
trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, về chủ trương, quan điểm và
chính sách của Đảng trong lĩnh vực tuyên truyền, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn
nghệ, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và một số lĩnh vực xã hội; đồng
thời là cơ quan chuyên môn - nghiệp vụ về các lĩnh vực công tác này của Đảng.
• Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương, chính sách và
giải pháp lớn về công tác dân vận. Ban chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu cụ thể
hoá đường lối dân vận của Đảng (công tác Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, hội
quần chúng, tôn giáo, dân tộc); chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị nghị quyết đại
hội, các nghị quyết, chỉ thị, quyết định thuộc lĩnh vực nêu trên của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; thẩm định các đề án về công tác dân vận
của các ban, ngành, Mặt trận và các đoàn thể Trung ương trước khi trình Bộ
Chính trị, Ban Bí thư; tham gia thẩm định các chính sách, đề án có liên quan đến
quyền dân chủ của nhân dân và công tác dân vận của Chính phủ, các bộ, ngành,
cơ quan nhà nước (bao gồm cả Quân đội và Công an), theo dõi hoạt động của một
số hội quần chúng.
• Ban Đối ngoại Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương, chính sách lớn
thuộc lĩnh vực đối ngoại, đồng thời là cơ quan tổ chức thực hiện quan hệ đối
ngoại của Đảng.
• Ban Cán sự Đảng ngoài nước phụ trách công tác Đảng đối với các tổ chức Đảng
và đảng viên ở ngoài nước. Ban là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung
ương mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương và
giải pháp lớn đối với công tác đảng, công tác quần chúng ở ngoài nước; đồng thời
là một cấp uỷ được Ban Bí thư uỷ nhiệm chỉ đạo và quản lý các tổ chức đảng, các
đảng bộ và đảng viên ở ngoài nước.
• Văn phòng Trung ương Đảng. Văn phòng Trung ương Đảng là cơ quan tham
mưu, giúp việc Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư
trong tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo của Đảng, phối hợp, điều hoà hoạt
động của các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng; tham mưu về chủ trương
và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, nội chính; tham mưu về
nguyên tắc và chế độ quản lí tài chính, tài sản của Đảng, trực tiếp quản lí tài
chính, tài sản của các cơ quan đảng Trung ương và bảo đảm hậu cần phục vụ hoạt
động của Trung ương Đảng; đồng thời là một trung tâm thông tin tổng hợp phục
vụ lãnh đạo.
• Ban Khoa giáo Trung ương
[sửa] Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ở các cấp
Ngoài các ban còn có Ủy ban Kiểm tra Trung ương chuyên xem xét tư cách đạo đức
các đảng viên là cán bộ cao cấp, các vụ việc tiêu cực liên quan đến các đảng viên cao
cấp.
Điều 32 Điều lệ Đảng quy định nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra các cấp như sau:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu
chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng
viên.
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc
tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật
trong Đảng.
3. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp
ủy thi hành kỷ luật.
4. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ
luật Đảng.
5. Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Uỷ ban kiểm tra có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo, cung cấp
tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung kiểm tra.
[sửa] Đơn vị sự nghiệp của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện có bốn cơ quan đào tạo cán bộ, nghiên cứu, báo chí, xuất
bản, về mặt tổ chức, các cơ quan này tương đương với ban:
1. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh là đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam; là trung tâm
quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, trung, cao cấp; là
trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
2. Báo Nhân dân là cơ quan ngôn luận trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ
chức phát hành các loại ấn phẩm sau: Nhân dân hàng ngày, Nhân dân cuối tuần,
Nhân dân hàng tháng, Nhân dân điện tử tiếng Việt và tiếng Anh.
3. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật là cơ quan xuất bản chính trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài nhiệm vụ xuất bản các ấn phẩm chính trị, cơ quan này còn tham gia nghiên
cứu các vấn đề lý luận chính trị, khoa học xã hội.
4. Tạp chí Cộng sản là cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản
Việt nam, ấn phẩm là Tạp chí Cộng sản và Tạp chí Cộng sản điện tử.
[sửa] Tư tưởng
Tuy chính thức là một đảng Marx-Lenin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cải tổ đường lối
theo kinh tế thị trường và tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh.
Hiện nay, đảng vẫn là đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam.
[sửa] Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương
Chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tồn tại từ năm
1951 đến 1969, chỉ duy nhất do chủ tịch Hồ Chí Minh nắm giữ, được coi là cao hơn
Tổng Bí thư.
Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời (tháng 2 năm 1930 - tháng 10
năm 1930)
Họ tên Thời gian giữ chức Ghi chú
Trịnh Đình
Cửu
2/1930-10/1930
Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời
Đảng Cộng sản Đông Dương
Các Tổng Bí thư (tương đương với Bí thư Thứ nhất trong giai đoạn 1960 - 1976)
Họ tên Thời gian giữ chức Ghi chú
Trần Phú 10/1930-4/1931 Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương
Lê Hồng Phong 3/1935đến 6/1936
Tổng bí thư ĐCS Đông Dương. Chỉ được công
nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi
Hà Huy Tập 7/1936 đến 3/1938
Tổng bí thư ĐCS Đông Dương. Chỉ được công
nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi
Nguyễn Văn Cừ 3/1938 đến 1/1940 Tổng bí thư ĐCS Đông Dương
Trường Chinh 5/1941 đến 9/1956
Quyền Tổng Bí thư ĐCS Đông Dương từ tháng
11/1940
Thôi giữ chức sau Hội nghị Trung ương về vấn
đề sửa sai cải cách ruộng đất
Hồ Chí Minh 10/1956 đến 9/1960
Tổng bí thư ĐCS Đông Dương (Kiêm chức Chủ
tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng)
Lê Duẩn 9/1960 đến 7/1986
9/1960-12/1976: Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động
Việt Nam
12/1976-7/1986: Tổng bí thư ĐCS Việt Nam
(đến lúc mất)
Trường Chinh 7/1986 đến 12/1986 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Văn
Linh
12/1986 đến 6/1991 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Đỗ Mười 6/1991 đến 12/1997 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Lê Khả Phiêu 12/1997 đến 4/2001 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Nông Đức Mạnh 4/2001 đến nay -
[sửa] Các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc
Đại hội
Đại biểu
toàn quốc
Thời gian Địa điểm
Số đại
biểu
Số đảng
viên
Sự kiện
Lần thứ
nhất
27 - 31/
3/1935
Ma Cao
(Trung
Quốc)
13 600
Khôi phục phong trào
Cộng sản trong nước
Lần thứ hai
11 -
19/02/1951
Tuyên
Quang
158 (53 dự
khuyết)
766.349
Đổi tên thành Đảng Lao
Động Việt Nam.
Lần thứ ba
05 - 12/
9/1960
Hà Nội
525 (51 dự
khuyết)
500.000
Xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, tiến hành
cách mạng miền Nam
Lần thứ tư
14 -
20/12/1976
Hà Nội 1008 1.550.000
Đại hội đầu tiên sau thống
nhất
Lần thứ
năm
27 - 31/
3/1982
Hà Nội 1033 1.727.000
Lần thứ sáu
15 -
18/12/1986
Hà Nội 1129 ~1.900.000
Khởi xướng chính sách
đổi mới
Lần thứ
bảy
24 - 27/
6/1991
Hà Nội 1176 2.155.022
Lần thứ
tám
28 - 01/
7/1996
Hà Nội 1198 2.130.000
Lần thứ
chín
19 - 22/
4/2001
Hà Nội 1168 2.479.719
Lần thứ
mười
18 - 25/
4/2006
Hà Nội 1176 ~3.100.000
[sửa] Xem thêm
• Danh sách các đảng phái chính trị của Việt Nam
• Đảng cộng sản
Danh sách các liên minh và đảng phái chính trị Việt Nam
Trước 1945
Đảng Lập hiến Đông Dương · Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên · Đảng Việt Nam Độc lập · Việt Nam Quang phục Hội ·
Đông Dương Cộng sản Đảng · Việt Nam Cách mệnh Đảng · An
Nam Cộng sản Đảng · Tân Việt Cách mạng Đảng · Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn · Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng · Đại
Việt Quốc gia Cách mệnh Ủy viên Hội · Việt Nam Độc lập Đồng
minh Hội · Việt Nam Quốc dân đảng · Việt Nam Cách mệnh
Đồng minh Hội · Đại Việt Quốc dân đảng · Đại Việt Dân chính
Đảng
Từ 1945 đến
1954
Đảng Lao động Việt Nam · Việt Nam Quốc dân đảng · Đại Việt
Quốc dân đảng · Đảng Xã hội Việt Nam · Đảng Dân chủ Việt
Nam · Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội · Việt Nam Cách mệnh
Đồng minh Hội · Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam
Từ 1954 đến
1975
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Đảng Lao động Việt Nam ·
Đảng Xã hội Việt Nam ·
Đảng Dân chủ Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Đảng Dân chủ Nam Việt
Nam · Đảng Cần lao Nhân
vị · Đảng Dân chủ Xã hội
Việt Nam · Mặt Trận Dân tộc
Giải phóng Miền Nam Việt
Nam · Đại Việt Quốc dân
đảng · Liên minh các lực
lượng Dân tộc, Dân chủ và
Hòa bình Việt Nam · Đảng
Nhân dân Cách mạng miền
Nam
Từ 1975 đến
1988
Đảng Cộng sản Việt Nam · Đảng Xã hội Việt Nam · Đảng Dân
chủ Việt Nam
Từ 1988 đến nay
Được công nhận ở quốc nội
Đảng Cộng sản Việt
Nam
Ngoài vòng pháp luật ở quốc nội
Đảng Thăng Tiến Việt
Nam · Đảng Dân chủ
Bách Việt · Đảng Dân chủ
thế kỷ 21 · Đảng Dân chủ
Nhân dân
Hải ngoại
Đảng Dân tộc Việt Nam ·
Việt Nam Canh tân Cách
mạng Đảng · Đại Việt
Quốc dân đảng · Đảng
Nhân dân Hành động
(Việt Nam) · Đảng Vì
Dân
[sửa] Chú thích
1. ^ Thời cơ vàng của Đảng ta
2. ^ "Đảng ta thật là vĩ đại"
3. ^ Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, NXB chính trị quốc gia. 2006,
trang 20
4. ^ Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, NXB chính trị quốc gia. 2006,
trang 55
5. ^ Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, NXB chính trị quốc gia. 2006,
trang 62
6. ^ Roger Mitton, “Name change as Viet party rebrands itself?”, The Straits Times,
19 tháng 10 năm 2007. Truy cập 6 tháng 12 năm 2007.
7. ^ “Đảng 'nghĩ việc đổi tên'?”, BBC Tiếng Việt, 21 tháng 10 năm 2007. Truy cập 6
tháng 12 năm 2007.
8. ^
a
b
c
Điều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam