PHẦN I. SƠ LƯỢC NHẬN THỨC VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ THỜI KỲ
TRƯỚC ĐỔI MỚI VÀ SAU ĐỔI MỚI (1986)
QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI VI, VII, VIII.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn trung
thành và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất
nước. Song cũng có lúc chúng ta phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm, trong đó có vấn
đề sở hữu. Đó là nhận thức cho rằng, có thể xác lập sớm một chế độ công hữu, một quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa để lôi kéo, thúc đẩy lực lượng sản xuất lạc hậu. đã tuyệt đối
hóa mặt sở hữu về tư liệu sản xuất, nên đã đẩy nhanh quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa để
xóa bỏ hình thức sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác nhằm xác lập chế độ công
hữu dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Đối với sở hữu tập thể, mọi tư liệu sản xuất của người lao động từ cái cày, cái cuốc,
con trâu đến ruộng đất đều bị tập thể hóa. Từ đó quá trình sản xuất và phân phối đều do
ban quản trị điều hành. Thế nhưng toàn bộ tài sản được tập thể hóa cũng không phải là của
xã viên mà cũng không phải của ban quản trị, cũng không phải của nhà nước. Nó chẳng
của ai cả, vô hình trung đã trở thành không có chủ đích thực. Quy mô của hợp tác xã càng
lớn thì tính vô chủ đối với tư liệu sản xuất càng cao. Do đó phát sinh tình trạng lãng phí,
tham ô khá phổ biến. Từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế ngày càng giảm sút và người xã viên
không gắn bó cùng hợp tác xã.
Đối với sở hữu toàn dân, loại sở hữu này cũng dẫn đến tình trạng vô chủ vì người
lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh chỉ là người làm công ăn lương. Còn giám
đốc tuy do nhà nước bổ nhiệm nhưng họ cũng là người hưởng lương như người lao động.
Quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm do Ủy ban Kế hoạch nhà nước quyết định. Ở
đây, kế hoạch: nhà nước giao; vốn: nhà nước cấp; giá: nhà nước định; lãi: nhà nước thu; lỗ:
nhà nước bù.
Đây chính là cơ sở kinh tế xã hội làm phát sinh tình trạng quan liêu, cửa quyền,
tham ô, móc ngoặc. Thực chất của chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể ở
nước ta là như vậy, nhưng chúng ta lại lầm tưởng đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
và đã cố gắng bảo vệ nó.
1
Từ tuyệt đối hóa mặt sở hữu về tư liệu sản xuất, chúng ta đi đến tuyệt đối hóa quan
hệ sản xuất, đi ngược lại quy luật kinh tế khách quan là đẩy mạnh việc xây dựng quan hệ
sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Cách làm này đã không tạo được
điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển mà trái lại kìm hãm lực lượng sản xuất.
Như vậy, với chế độ công hữu hình thức, áp đặt, chúng ta đã nhanh chóng xóa bỏ
các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thực tế là đã triệt tiêu
động lực kinh tế làm cho nền kinh tế không phát triển, đời sống khó khăn, tiêu cực phát
triển.
Chính vì nhận thức chưa đúng như vậy, chúng ta đã nóng vội và có phần duy ý chí
khi xóa bỏ mọi hình thức sở hữu khác và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là sở
hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Chúng ta cũng không tuân theo quy luật kinh tế khách
quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, muốn cho sản xuất phát triển thì
quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất...
Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Từ sau Đại hội VI của Đảng đến nay, quan
điểm của Đảng ta về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có nhiều đổi
mới và sáng tạo, phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trong đó, có những đổi mới và
sáng tạo về sự chỉ đạo chiến lược vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã thổi luồng gió mới vào đời sống kinh tế ở nước
ta. Trong đại hội này, Đảng ta thẳng thắn chỉ ra những thiếu sót trong nhận thức và chỉ đạo
về sở hữu và các thành phần kinh tế, cũng như việc vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Báo cáo chính trị Đại hội
Đảng lần thứ VI chỉ rõ: Trong nhận thức và trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức lại lý luận và thực tiễn Việt Nam, Đảng ta đã có những nhận
thức mới đúng đắn và khoa học về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế, từng bước
khơi dậy được động lực hoạt động kinh tế trong các thành phần dân cư; nghĩa là thừa nhận
2
sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và những thành phần
kinh tế. Từ đó thay đổi cơ chế quản lý và cơ chế phân phối, cụ thể là chuyển từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ cơ chế phân phối bình quân sang cơ chế phân phối theo lao
động và tài sản đóng góp. Đồng thời đã nhận thức rõ hơn về sở hữu qua các quyền năng
như: quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng, quyền định
đoạt, quyền hưởng lợi, nhờ đó khắc phục được tình trạng vô chủ trước đây.
Đại hội Đảng lần thứ VII và chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2000, Đảng ta
khẳng định: Nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong đó có ba hình thức cơ
bản đó là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Trên cơ sở ba hình thức sở hữu
cơ bản này mà hình thành nhiều hình thức tổ chức và nhiều thành phần kinh tế. Cụ thể có
năm thành phần kinh tế:
- Kinh tế quốc doanh;
- Kinh tế hợp tác;
- Kinh tế tư bản tư nhân;
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ;
- Kinh tế tư bản Nhà nước.
Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là vấn đề có tính quy luật từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Các thành phần kinh tế tồn tại lâu dài và
nằm trong một cơ cấu kinh tế thống nhất.
Tổng kết thực tiễn 10 năm đổi mới với những thành công và những hạn chế trong
việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội Đảng lần thứ VIII lại có nhận thức
đầy đủ thêm. Để phù hợp với thực tiễn phát triển, Đại hội đã thay cụm từ: kinh tế quốc
doanh bằng cụm từ kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác xã thành kinh tế hợp tác mà nòng cốt
là hợp tác xã và đưa thành phần kinh tế tư bản nhà nước lên vị trí thứ ba.
3
PHẦN 2: PHÂN TÍCH VỀ NHẬN THỨC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN QUA CÁC ĐẠI HỘI IX, X VÀ XI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Đại hội lần thứ IX của Đảng là đại hội của “ý Đảng lòng dân” về sở hữu và
các thành phần kinh tế. Đại hội đã có những bổ sung và phát triển lý luận trước đó về sở
hữu và các thành phần kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của đất nước.
- Bối cảnh lịch sử: Đại hội IX diễn ra trong bối cảnh nước ta đang đứng trước thời cơ
vận hội lớn, nhưng cũng không ít khó khăn thử thách. Thời cơ lớn từ tình hình thế giới
mang lại đó là: sự phát triển nhảy vọt của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, của
kinh tế tri thức, cũng như quá trình toàn cầu hoá kinh tế...Ở trong nước, “thành tựu to lớn
và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên
nhiều”. Những khó khăn thử thách là: “chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột
dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố...” diễn ra hàng
ngày trên thế giới. Bốn nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, âm mưu
"diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch “vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen,
tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào”...
- Đại hội IX diễn ra từ 19/4 - 22/4/2001 tại Hà Nội với các nội dung về nền kinh tế cơ
bản:
+ Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và
thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản
xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi
doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và
được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc
đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng
và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa; từng bước hình thành một số tập đoàn kinh
tế mạnh. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà
4
nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh
tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí
then chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.Phát triển doanh
nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng; xây dựng các tổng
công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như dầu khí, điện, than, hàng không,
đường sắt, vận tải viễn dương, viễn thông, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng,
xuất nhập khẩu, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán...
Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh
nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật
xoá bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá
những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn,
tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu
tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê các doanh
nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh
nghiệp không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.Phấn đấu trong khoảng
5 năm cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước; củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước.Phát triển
kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng. Chuyển đổi hợp tác xã cũ theo Luật Hợp
tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc
chuyên ngành để sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản
xuất, kinh doanh phù hợp quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong nông nghiệp, trên
cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình, chú trọng phát triển các hình thức hợp tác và
hợp tác xã cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang
trại. Mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên kết, liên doanh giữa hợp tác xã với các
5
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ kỹ thuật và quản lý, mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ mới, phát triển vốn
tập thể, giải quyết nợ tồn đọng của hợp tác xã cũ. Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và
thành thị được Nhà nước tạo điều kiện để phát triển.Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến
khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn
mà pháp luật không cấm; khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp
nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho ngườỉ lao động. Kinh tế
tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế
tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng
mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có
công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng.
Về sở hữu: Đây là vấn đề cơ bản và quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng. Sở hữu về tư liệu sản xuất là yếu tố hàng
đầu quyết định các mối quan hệ sản xuất, quyết định chế độ quản lý và chế độ phân phối.
Vì thế vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất từ xưa đến nay luôn là vấn đề cơ bản và sâu xa của
mọi cuộc cải cách kinh tế cũng như của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Khi nói đến chế độ sở hữu là nói chung, với hàm nghĩa là cơ sở của chế độ kinh tế.
Loài người đã trải qua nhiều chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, nhưng tựu trung chỉ có hai
chế độ sở hữu cơ bản. Đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Mỗi chế độ sở hữu lại có
nhiều trình độ và hình thức biểu hiện cụ thể khác nhau. chế độ công hữu có các trình độ và
hình thức biểu hiện như: sở hữu công xã, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể…. Chế độ tư hữu
cũng có nhiều trình độ và nhiều hình thức như: sở hữu của nông dân cá thể, sở hữu của
người sản xuất hàng hóa nhỏ, sở hữu của địa chủ, sở hữu của nhà tư bản.
Hiện nay, chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do đó tất yếu
còn đan xen nhiều chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Tiếp tục phát triển những tư tưởng
của Đại hội VII và Đại hội VIII về sở hữu, Đại hội IX khẳng định thêm một số tư
tưởng:
6
- Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất, chủ yếu từng bước được
xác lập và chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng
chế độ đó là một quá trình phát triển kinh tế – xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình
thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công
cộng nói riêng và quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc.
- Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả sản xuất, quan hệ sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân
dân, thực hiện công bằng xã hội.
Về các thành phần kinh tế: Xuất phát từ thực tiễn những năm trước, Đại hội IX tái
khẳng định quan điểm đổi mới của Đại hội VI, VII, VIII, đồng thời bổ sung một số điểm
mới như sau:
- Một là, thay thành phần kinh tế hợp tác bằng thành phần kinh tế tập thể, trong đó
hợp tác xã là nòng cốt.
- Hai là, nhận thức rõ hơn thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội, nên đưa thành phần kinh tế này lên vị trí thứ ba sau thành phần kinh tế
nhà nước và thành phần kinh tế tập thể nhằm phát huy nội lực để thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Ba là, bổ sung thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
Như vậy ở nước ta có sáu thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể
trong đó nòng cốt là hợp tác xã; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư
bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế có thể có các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp, vừa
hợp tác vừa cạnh tranh trong cùng một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Tất cả các thành
phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã
xác định: "Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình
7
thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân
(cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài". Đồng thời Đại hội cũng đưa ra chủ trương chung cũng như chủ trương đối với từng
thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh.
- Thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh
doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp.
Mọi công dân có quyền tự do đầu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề, địa
bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp
pháp; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực
phát triển, trong cung cấp và tiếp nhận thông tin. Việc hình thành và phát triển một hệ
thống doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, có sức cạnh tranh cao, có uy tín lớn là một
nhiệm vụ chiến lược của Nhà nước và toàn xã hội.
Nhà nước định hướng, tạo môi trường để các doanh nghiệp phát triển và hoạt động có
hiệu quả theo cơ chế thị trường. Hỗ trợ sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Xây dựng
một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn, đa sở hữu, tạo sức mạnh cho đất nước trong hội
nhập kinh tế quốc tế. Thu hút ngày càng nhiều tập đoàn kinh tế lớn của các nước đến đầu
tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Khuyến khích phát triển mạnh hình thức kinh tế đa sở hữu mà chủ yếu là các doanh
nghiệp cổ phần thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và phát
triển các doanh nghiệp cổ phần mới, để hình thức kinh tế này trở thành phổ biến, chiếm tỉ
trọng ngày càng cao trong nền kinh tế nước ta.
Thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn đối với một số ngành,
một số sản phẩm quan trọng, thiết yếu, một số mục tiêu, một số địa bàn, doanh nghiệp
nhỏ và vừa, không phân biệt thành phần kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế của
nước ta. Thực hiện có hiệu quả Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và các luật mới được ban
hành, thấu suốt quan điểm đổi mới, bảo đảm thật sự bình đẳng và tạo thêm thuận lợi đối
với mọi loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh và đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, cả
trong và ngoài nước.
8
Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp chủ động xây dựng và
tích cực triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là về đào tạo
cán bộ quản trị và đào tạo nghề cho lao động; về cung cấp thông tin, xúc tiến thương
mại, xây dựng thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng
của các doanh nghiệp. Thực sự tôn vinh các doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp
nhiều cho xã hội và Nhà nước.
1.2- Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh
nghiệp nhà nước
Khẩn trương hoàn thành một cách vững chắc kế hoạch sắp xếp, đổi mới và phát triển
doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu
là các công ty cổ phần. Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty
nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành , đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính; có
nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối.
Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty
nhà nước, nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, để vốn nhà nước
được sử dụng có hiệu quả và ngày càng tăng lên, đồng thời, thu hút mạnh các nguồn lực
trong, ngoài nước để phát triển. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong
những ngành, những lĩnh vực thiết yếu cho việc bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh
tế; chỉ giữ 100% vốn nhà nước trong các doanh nghiệp hoạt động bảo đảm an ninh, quốc
phòng và những doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu mà chưa cổ
phần hoá được. Chuyển các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc nhiều thành viên mà chủ sở hữu là Nhà
nước.
Đối với những tổng công ty lớn chưa cổ phần hoá toàn bộ tổng công ty, thực hiện cổ phần
hoá hầu hết các doanh nghiệp thành viên và chuyển các doanh nghiệp thành viên còn lại
sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn một
chủ sở hữu là Nhà nước; đồng thời, chuyển các tổng công ty này sang hoạt động theo mô
9