Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nghề làm giấy dó truyền thống ở Việt Nam – phần 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.65 KB, 6 trang )

Nghề làm giấy dó truyền
thống ở Việt Nam – phần 2
Trong nước ta còn có một số nơi có nghề làm giấy như làng
Xuân Ổ còn gọi là làng Ó ở Tiên Sơn - Bắc Ninh, làng Mai
Chử (làng Mơ) thuộc huyện Đông Sơn, Thanh Hóa làm
giấy bản. Làng Lộc Tụy và Đại Phú (Lệ Thủy - Quảng
Bình) sản xuất giấy bằng vỏ cây niết, làng Từ Vân - Thanh
Oai - Hà Tây làm giấy bìa bổi nhưng không đâu nổi tiếng
bằng vùng giấy Bưởi - Thăng Long. Sách Dư địa chí viết
năm 1435, Nguyễn Trãi đã nhận xét “Đương thời phường
Yên Thái (Bưởi) chuyên làm giấy. Thợ ở đây có thể làm
được giấy thị, giấy lệnh, còn làng Nghĩa Đô chuyên làm
giấy sắc màu, ngà vàng vẽ rồng và mây gọi là giấy long
án”.
Nghề giấy phát triển góp phần thúc đẩy nghề in mộc bản từ
thời Lý, các nhà sư đã khắc rất nhiều ván in cho nhà chùa
để in kinh Phật. Năm 1736, đời vua Thuận Tông nhà Lê,
chúa Trịnh Giang đã cho in Tứ thư, Ngũ kinh bằng giấy sản
xuất trong nước, không phải mua của Trung Hoa nữa. Nghề
giấy phát triển là do nhu cầu của thị trường, xã hội, song
một phần cũng do sự quan tâm khuyến khích của các triều
đại phong kiến. Sử sách còn ghi: Sau khi Lê Lợi đánh thắng
quân xâm lược nhà Minh, triều đình đã lập ra “Tạo Chỉ
cục” ở phường Quảng Đức để làm các loại giấy lệnh, giấy
thị
2. Công nghệ chế tác
Nghề làm giấy thật là vất vả và nặng nhọc. Để làm ra tờ
giấy, người thợ Yên Thái, Hồ Khẩu phải có tay nghề thuần
thục. Nguyên liệu chính để làm giấy là vỏ cây dó tươi,
người ta phải đến tận miền ngược dọc triền sông Thao, Vũ
ẻn để mua về.


Vỏ dó tươi phải ngâm nước vôi loãng hai ngày rồi cho vào
vạc nấu cách thủy liền trong bốn ngày. Xưa kia làng Yên
Thái thường đắp lò nấu dó ngay bên bờ sông Tô Lịch để
tiện việc ngâm, dặm, đãi vỏ dó và thuận tiện cho việc vận
chuyển. Ở đây có một giếng làng khá lớn, dân vừa lấy nước
để ăn lại vừa lấy nước để sản xuất. Cứ vào dịp tháng 3 âm
lịch hàng năm, dân làng lại vét giếng cho nước thêm sạch,
thêm trong. Rất tiếc giờ đây những lò nấu dó, giếng nước
xanh trong nay không còn nữa. Có lẽ nó cũng đã bị lãng
quên với nghề làm giấy đã từng vang bóng một thời!
Vỏ dó sau nhiều lần ngâm, nấu để cuối cùng tạo ra một loại
xơ trắng muốt. Đây chính là chất liệu tinh khiết để làm ra
giấy. Đem vỏ dó đã được xử lí cho vào cối giã thật mạnh,
thật nhuyễn thành một thứ bột quánh rồi thả vào tàu seo.
Công việc giã dó vất vả nặng nhọc lắm, chỉ đàn ông mới
đảm đương nổi. Tàu seo giấy là một bể nước có pha sẵn
loại keo bằng nhựa cây mò. Vữa dó thả vào đây sẽ thành
một thứ nước sền sệt, khi đem tráng trên liềm seo sẽ hình
thành nên những trang giấy. Khâu seo giấy tuy nhẹ nhàng
hơn, nhưng phải khéo léo, kiên trì nên phụ nữ thường đảm
nhiệm công việc này. Họ đứng bên tàu seo, hai tay dùng
liềm seo múc nước bột giấy rồi gác lên “đòn cách” bằng tre
trên mắt tàu seo cho nước rỏ xuống hết, chỉ còn bột giấy
đọng lại trên liềm. Nước khô dần, bột giấy se lại, trang giấy
hiện ra trên liềm seo.
Giấy seo xong lại phải ép, uốn cho thật kiệt nước (giấy ướt
xếp chồng lên nhau gọi là uốn) rồi bóc uốn (còn gọi là can),
cuối cùng mới cho vào lò sấy, sấy xong giấy được bóc rời
từng tờ, miết lên tường cho khô và phẳng. Đó chính là quá
trình chế biến từ vỏ cây dó tươi đến khi thành ra tờ giấy

cho bạn cầm được trên tay.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là cách thức làm ra giấy bản, loại
giấy dùng cho nho sĩ hoặc để in sách. Có những loại giấy
chất lượng kém hơn như giấy moi, giấy phèn, hay như làng
Cót chuyên sản xuất giấy xề làm bằng đầu thừa, đuôi thẹo
của vỏ dó.
Lại còn có thứ giấy vừa quý, vừa đẹp nền nổi hình rồng và
mây gọi là giấy sắc (dân gian gọi là giấy phè) chỉ dành
riêng cho vua dùng. Đây là loại giấy đặc biệt, được dân
gian đánh giá vào loại thượng hảo hạng, là sản phẩm của
làng Nghĩa Đô. Vào những năm 40 của thế kỉ trước, thợ
giấy vùng Bưởi đã chế tác được loại giấy dó lụa, giấy
nhung để in sách và in những bức tranh quý có giá trị lâu
bền
Nói đến nghề làm giấy, ta không thể bỏ qua một công cụ
đặc biệt lại rất quan trọng đó là chiếc liềm seo. Có điều lạ,
người làm giấy bao đời đều phải mua liềm seo của làng
Xuân Đỉnh, người Xuân Đỉnh thường làm liềm seo để bán
cho các làng làm giấy. Liềm được làm bằng cật nứa ngâm,
chẻ nhỏ như sợi chỉ, mỗi nan dài chừng 60 - 70 phân (chiều
dài của ống nứa - không dùng đầu mặt), nan để mộc thì bột
giấy không bám, do đó phải đem hun khói, kĩ thuật hun
công phu lắm, người ta dùng mùn cưa trộn với phân bò để
đốt, vì chất liệu này cháy chỉ có khói chứ không bốc thành
ngọn lửa. Mỗi lò xếp chừng 6000 nan, cứ hai giờ đồng hồ
lại đảo một lần. Người ta hun liền trong hai ngày, lúc nào
thấy nan vàng đều là được.
Công đoạn tiếp nối là dệt mành seo, tương tự như cách dệt
mành mành nhưng dụng cụ nhỏ hơn. Khung dệt đơn giản
bằng gỗ, có thanh ngang bào trơn, chia đều khắc thành rãnh

nhỏ cách nhau chừng hai phân, sợi chỉ dùng để dệt được
quấn quanh những quả vắt giấy nhỏ, xinh xắn như ngón tay
cái, làm bằng đá xanh gọt nhẵn. Trước đây chỉ dùng để dệt
mành seo cả làng Xuân Đỉnh phải đi đặt mua ở làng khác,
nhiêu khê, phiền toái lắm. Sau này để khép kín công đoạn,
người làng phải tìm về làng Triều Khúc (nay thuộc huyện
Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội) là làng có nhiều nghề thủ
công nổi tiếng để mua tơ tằm về se lại rồi nhuộm đen. Chỉ
se bằng tơ tằm nên rất chắc, bền lại chịu được nước.
Ngày nay, với sự xuất hiện của các nhà máy giấy hiện đại
như Bãi Bằng, Trúc Bạch Rồi thì các loại giấy cao cấp
nhập ngoại tràn lan, nghề giấy làng Bưởi không đủ sức
cạnh tranh, người ta chỉ sản xuất giấy để gói hàng, làm
quạt, làm hàng mã Tương lai của nghề giấy Bưởi thật mờ
mịt, nó kéo theo nghề làm liềm seo cũng có nguy cơ thất
truyền. Hiện ở Xuân Đỉnh chỉ còn duy nhất bà Huệ Nga là
người cuối cùng vẫn còn giữ được nghề làm liềm seo. Con
cháu bà đều đi làm nhà nước, chẳng ai chịu giữ lấy nghề tổ
liềm seo. Vì vậy, sản phẩm làm ra phải mang sang tận vùng
Thuận Thành để bán cho những người seo giấy làm hàng
mã, in tranh ở làng Mái, Đông Hồ.



×