Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

chùa chatarangsay - thánh đường hồi giáo jamia al muslim

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.96 KB, 27 trang )

BÀI THU HOẠCH CHUYẾN THỰC TẬP TPHCM
“CHÙA CHATARANGSAY - THÁNH ĐƯỜNG HỒI
GIÁO JAMIA AL MUSLIM”
THÀNH VIÊN HD05N01 THAM GIA HOÀN THÀNH BÀI THU HOẠCH:
1. Huỳnh Thị Luôn
2. Trần Thoại Nam
3. Nguyễn Duy Khiêm
4. Huỳnh Tấn Lẽ
5. Lâm Quốc Thái
6. Vũ Thị Kim Ngọc
7. Võ Thanh Nhàn
8. Lê Quang Bình
LỜI CẢM ƠN
Người ta thường nói học phải đi đôi với hành. Quả đúng là như thế, khi trên lớp
nghe thầy giảng chúng em không thề nào hình dung được hết. Chúng em xin gởi
lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy vì thầy đã tạo điều kiện cho chúng em được
cọ xát được với thực tế và đút kết thêm nhiều kinh nghiệm hơn trong học tập cũng
như trong công việc sau này của chúng em.
CHÙA CHATARANGSAY
Tên thường gọi: Chùa Khmer
Chùa tọa lạc ở số 164/235 đường Trần Quốc Thảo, phường 7, quận 3, TP. Hồ Chí
Minh.Chùa thuộc hệ phái Nam tông (Khmer). Tên Chanta Rangsey có nghĩa là
Nguyệt quang (Ánh trăng).
Chùa do Đại đức Lâm Em xây dựng từ năm 1946. Ngài người dân tộc Khmer, quê
ở Sóc Trăng, du học ở Campuchia, từng là Hiệu trưởng của trường Phật học ở
Phnôm-pênh. Do thường về Sài Gòn thăm người thân, ngài thấy cần có một ngôi
chùa Khmer cho sư sãi Nam tông tu học và giúp cho các sư sãi vãng lai có chỗ
nghỉ ngơi hợp với giáo luật. Ban đầu, ngài chỉ cho lấp đầm lầy, dựng một căn nhà
sàn để ở và tu hành. Năm 1949, ngôi chánh điện được xây dựng bằng bê tông,
hoàn thành và làm lễ kết giới vào năm 1953. Các năm 1967 – 1969, chùa cho xây
Sala, am, liêu, trường Pali và tháp.


Các vị trụ trì tiền nhiệm là: HT Lâm Em, HT Oul Srey. Trụ trì hiện nay là Tỳ kheo
Danh Lung, Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam
nhiệm kỳ V (2002 – 2007).
Chùa đã qua bảy lần trùng tu, diện tích hiện nay là 4.500 m2. Cổng chùa được đúc
bằng xi măng, chân đế có dạng hình hộp gồm bốn cột, chống mái bằng. Trên mỗi
đỉnh cột có trang trí tượng cầy-no (biểu tượng cho sắc đẹp và sức mạnh). Trên mái
bằng là ngọn tháp tứ giác có chín tầng, tầng trên cùng là bình nước Cam lồ. Trên
mỗi góc của tháp có biểu tượng như đuôi rồng uốn cao, tượng trưng cho sự oai
nghiêm và sức mạnh của Phật pháp.
Ngôi chánh điện là công trình kiến trúc quy mô, đặc sắc nhất của chùa. Chánh điện
gồm hai tầng, có bốn cổng ở hai mặt trước và sau, mặt hướng Đông. Giữa chánh
điện tôn trí kim thân đức Phật, được xếp thành năm tầng từ thấp đến cao, từ lớn
đến nhỏ, mỗi tầng là một tư thế tu hành của đức Phật.
Chùa còn có một số công trình kiến trúc khác như: Sala (nhà tăng) gồm hai tầng,
tầng trệt là nhà lễ, tầng trên là nhà giảng. Trong Sala, có bàn thờ đức Phật Thích
Ca và các vị cố Hòa thượng trụ trì chùa. Tháp đựng cốt bốn cạnh đều nhau, gồm
hai tầng. Tầng dưới đựng hài cốt của các Phật tử, tầng trên đặt hài cốt của các Hòa
thượng.
Hằng năm, chùa tổ chức các ngày lễ sau: Lễ Miakha Bôchia (15 tháng giêng âm
lịch); lễ Chôl Chnam Thmây (lễ vào năm mới) là tết cổ truyền của người Khmer,
thường tổ chức vào giữa tháng 4 dương lịch. Lễ Đôn ta (lễ cúng ông bà) từ ngày
29 tháng 8 đến ngày 01 tháng 9 âm lịch. Lễ Ok Oom Bok (lễ cúng trăng) được tổ
chức vào ngày 15 tháng 10 âm lịch. Lễ Visakha Bochia (lễ Phật đản) vào ngày 15
tháng 5 âm lịch. Lễ Chool Vossa (lễ nhập hạ) vào ngày 15 tháng 6 âm lịch. Lễ
Chênh Vossa (lễ ra hạ) vào ngày 14 và 15 tháng 9 âm lịch. Lễ Kathăn Na Tean (lễ
dâng y) sau ngày xuất hạ đến ngày 15 tháng 10 âm lịch.
1. PHẬT GIÁO :
1.1. Sự Ra Đời Đạo Phật hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI trước công
nguyên, người sáng lập là thái tử Sidharta (Tất Đạt Đa), họ là Gotama (Cồ Đàm).
Ông sinh năm 624 trước công nguyên, vào lúc ở Ấn Độ đạo Bà La Môn đang

thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội. Nỗi bất bình của thái tử
về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nổi khổ của muôn dân là
những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một tôn giáo mới.
Tại một vương quốc nhỏ ở phía Bắc Ấn Độ, có một sự kiện xảy ra làm thay đổi
toàn thể thế giới, hoàng hậu MaDa, vợ của vua Tịnh Phạn trong lúc ngủ đã có một
giấc mơ tuyệt diệu. Bà thấy một luồng ánh sáng trắng từ bầu trời chiếu xuống thân
thể mình, theo luồng ánh sáng này là một con voi chiến, thân hình trắng xoá với 6
chiếc ngà. Luồng ánh sáng và con voi này cuối cùng nhập vào thân bà và bà đã thọ
thai.
Theo phong tục Ấn Độ thời đó, người phụ nữ khi sinh phải về nhà cha mẹ ruột của
mình. Biết ngày sinh sắp đến, hoàng hậu MaDa cùng một số người hầu bắt đầu
chuyến hồi hương. Trên đường trở về, hoàng hậu trở dạ. Biết mình sắp sinh con
nên bà bảo mọi người dừng lại nghỉ ngơi. Họ dừng chân tại vườn Lâm Tì Ni,
hoàng hậu vào trong khu vườn tìm chỗ thích hợp để sinh con. Truyền thuyết kể lại
rằng ngay cả động vật và thực vật dường như cũng muốn giúp đỡ cho hoàng hậu
trong việc sinh nở. Có một nhánh cây rũ xuống, hoàng hậu đưa tay phải lên nắm
lấy nó. Ngay lúc ấy hoàng hậu hạ sinh thái tử. Vua và hoàng hậu đã quyết định đặt
tên cho thái tử là Tất Đạt Đa nghĩa là người đem đến tốt lành. Sau khi sinh thái tử
được 7 ngày thì hoàng hậu MaDa từ trần. Trước khi qua đời hoàng hậu đã dặn dò
người em của mình là Ma Ha Ba Xà Ba Đề chăm sóc cho thái tử. Thaí tử lớn lên
trở thành một cậu trai thông minh, xinh đẹp và nhân từ. Thái tử ngày càng trưởng
thành, lòng nhân ái càng bộc lộ rõ, song vua cha lại buồn rầu. Vua cha cùng các
quan bàn với nhau là sẽ kén vợ cho thái tử. Và người cuối cùng đựơc chọn chính
là công chúa Da Du Đà La, con gái của vua nước lân cận.
Thời gian trôi qua, Da Du Đà La đã hạ sinh một bé trai là La hầu La. Sống trong
cung điện lâu ngày Tất Đạt Đa muốn ra ngoài dạo chơi để xem cuộc sống bên
ngoài như thế nào. Qua những lần xuất cung, những cảnh tượng sanh, lão,
bệnh, tử đã làm cho thái tử suy nghĩ rất nhiều. Và trong một lần xuất cung sau
đó, thái tử gặp một tu sĩ và từ đây ngài càng muốn đi tìm con đường giải thoát
mọi sự khổ đau cho con người.

Vào một buổi tối thái tử cùng với người hầu của mình là Xa Nặc và con ngựa Kiền
Trắc đã rời khỏi cung điện. Trước khi chia tay. Thái tử đã rút gươm cắt tóc trao
lại cho Xa Nặc với các đồ trang sức bảo đem về cho Da Du Đà La.
Thái tử tìm gặp những người tu hành lâu năm để học hỏi, nhưng những điều thu
được không làm ông thoả mãn. Ông rủ 5 người bạn đến vùng núi Tuyết Sơn tu
khổ hạnh suốt 6 năm ròng mà chẳng ích lợi gì. Thấy mình đã tu sai đường,
ngài liền ăn uống cho lại sức rồi tìm đến một gốc cây Pipal lớn, lấy cỏ làm
nệm ngồi tập trung suy nghĩ. Sau một thời gian (tương truyền là 49 ngày đêm)
tư tưởng ngài liền đã trở nên sáng rõ, ngài đã hiểu ra quy luật của cuộc đời,
nỗi khổ của chúng sanh, thấy được điều mà bấy lâu tìm kiếm.
Ngài liền đi tìm 5 người bạn đã cùng tu khổ hạnh trứơc đây để giác ngộ cho họ, rồi
cùng với họ trong súôt 40 năm còn lại đi khắp vùng lưu vực sông Hằng để
truyền bá những tư tưởng của mình, ngài đựơc gọi là Buddha (nghĩa là Bậc
giác ngộ, phiên âm tiếng Việt là Bụt, Phật ). Cây Pipal nơi ngài đã ngồi tu
luyện, được gọi là cây Bodhi (Bồ Đề) và trở thành biểu tượng cho sự giác ngộ.
Đức Phật qua đời năm 544 trứơc công nguyên, thọ 80 tuổi.
Sau khi đức Phật tạ thế, do sự bất đồng ý kiến trong việc giải thích kinh Phật, các
đệ tử của ngài đã chia ra làm hai phái :
Phái các vị trưởng lão, gọi là Thượng Toạ (Théravada) theo xu hứơng bảo thủ, chủ
trương bám sát kinh điển, giữ nghiêm giáo luật, Phật tử phải tự giác ngộ cho
bản thân mình, chỉ thờ Phật Thích Ca và chỉ tu đến bậc La Hán.
Số tăng chúng còn lại không chịu nghe theo, họ lập ra phái Đại Chúng
(Mahasanghika), chủ trương không cố chấp theo kinh điển, khoan dung độ
lượng trong thực hiện giáo luật, thu nạp tất cả những ai muốn qui y, giác ngộ,
giải thoát cho nhiều ngừơi, thờ nhiều Phật, và tu qua các bậc La Hán, Bồ Tát
đến Phật.
Tại các lần đại hội thứ 3-4, phái Đại Chúng soạn ra kinh sách riêng, tự xưng là Đại
Thừa, nghĩa là Cổ xe lớn (chở được nhiều người) và gọi phái Thượng Toạ là
Tiểu Thừa nghãi là cổ xe nhỏ (chở được ít ngừơi). Do danh từ Tiều Thừa ngụ
ý chê bai không đúng, khiến nhiều ngừơi hiểu lầm nên tại Hội Nghị Phật giáo

quốc tế họp tại Népal năm 1956, các vị lãnh đạo Phật giáo thế giới đề nghị
thay danh từ Tiểu thừa bằng “Phật Giáo Nguyên Thủy”. Hiện nay thì ngừơi ta
đã thay Tiểu Thừa thành Nam Tông và Đại Thừa thành Bắc Tông để tránh sự
kì thị và hiểu lầm.
Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát. Đức Phật
từng nói : “ Ta chỉ dạy một điều : Khổ và khổ diệt ”. Cốt lõi của học thuyết
này là Tứ Diệu Đế (bốn chân lý kì diệu) hay Tứ thánh đế (bốn chân lý thánh),
đó là :
Khổ đế là chân lý về bản chất của nỗi khổ. Khổ là gì ? Đó là trạng thái buồn phiền
phổ biến ở con người do sinh, lão, bệnh, tử, do mọi nguyện vọng không được
thoả mãn.
Nhân đế hay tập đế là chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ . Đó là do ái dục (ham
muốn) và vô minh (kém sáng suốt). Dục vọng thể hiện thành hành động gọi là
nghiệp (karma) , hành động xấu khiến con người phải nhận hậu quả của nó
(nghiệp báo), thành ra cứ lẩm quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được.
Diệt đế là chân lý về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên
nhân gây ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (Nirvana,
nghĩa đen là “ không ham muốn, dập tắt ”). Đó là thế giới của sự giác ngộ và
giải thoát.
Đạo đế là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải thoát và
giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức (giới), tư tưởng (định) và khai sáng trí
tuệ (tuệ). Ba môn học này được cụ thể hoá trong khái niệm bát chánh đạo (tám
nẻo đường chân chính). Đó là : chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
niệm, chánh định, chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn.
1.2 Phân loại:
Ở Việt Nam Có 3 tông phái Phật giáo: Thiền tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông
1.2.1 Thiền Tông:
Là tông phái Phật giáo do nhà sư An độ Bồ Đề Đạt Ma sáng lập ra ở Trung quốc
vào đầu thế kỷ VI. “Thiền” (rút gọn của Thiền – na, phiên âm Hán Việt nghĩa
là tĩnh tâm) chủ trương tập trung trí tuệ suy nghĩ (thiền) để tự mình tìm ra

chân lý. Thiền tông Việt Nam luôn đề cao cái tâm. Phật tại Tâm, tâm là Niết
Bàn là Phật. Tu theo Thiền tông đòi hỏi nhiều công phu và khả năng trí tuệ.
Dòng thiền thứ nhất ở Việt Nam do Tì-ni-đa-lưu-chi lập ra năm 580 ở chùa Pháp
Vân (Thuận Thành, Bắc Ninh), truyền được 19 thế hệ.
Dòng thiền thứ hai do Vô Ngôn Thông (quê ở Quảng Châu) lập ra năm 820 ở chùa
Kiến Sơ (Phù Đổng, Bắc Ninh), truyền được 17 đời.
Dòng thiền thứ ba do nhà sư Thảo Đường (người Trung Quốc) lập ra. Ông vốn là
tù binh bị bắt tại Chiêm Thành, được vua Lí Thánh Tông (1025 – 1072) giải
phóng và cho mở đạo trường tại chùa Khai Quốc (Thăng Long) năm 1069,
truyền được 6 đời.
Thời Trần có vua Trần Nhân Tông , sau khi rời ngôi 6 năm đã xuất gia lên tu ở núi
Yên Tử (Quảng Ninh) và tại đây lập ra Thiền Phái Trúc lâm. Với việc lập ra
phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông đã thống nhất các thiền phái tồn tại trứơc đó
và toàn bộ giáo hội Phật giáo về một mối.
1.2.2 Tịnh Độ Tông
Chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu chúng snh thoát khổ. Đó là
việc hướng họ đến một cõi niết bàn cụ thể gọi là cõi Tịnh Độ (yên tĩnh, trong
sáng) được hình dung như một nơi cực lạc do Đức Phật A – Di – Đà cai quản.
Đó còn là việc bản thân họ cần thường xuyên đi chùa lễ Phật, thường xuyên
tụng niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà. Hình dung cụ thể về Niết Bàn là để có
đích mà hướng tới, cúng tượng Phật và niệm danh Phật là đẻ thường xuyên
nhớ đến những lời dạy của người mà ráng làm theo. Nhờ cách tu đơn giản như
vậy, Tịnh Độ Tông trở thành Phật giáo phổ biến toàn Việt Nam.
1.2.3 Mật Tông.
Là phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí (bí mật) như dùng linh phù,
mật chú, ấn quyết…để thu hút tín đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ và giải
thoát. Vào Việt Nam, Mật Tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng
mà hòa vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, dùng
pháp thuật, yểm bủa trị tà ma và chữa bệnh…
Ngôi Chùa Trong Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam:

Từ Đầu Tây Lịch Đến Thế Kỷ IX:
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, nhiều học giả ngày nay đều phỏng
định vào khoảng đầu Tây lịch. Nước Việt lúc bấy giờ là Giao Châu, một trong
những địa điểm mà các thương nhân hàng hải của An Độ đến miền Viễn Đông
để mua các thứ gia vị, hương liệu, gỗ, trầm hương… Những nơi thờ từ được
tạo lập để thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của họ.
Trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu đã xuất hiện. Những ngôi chùa nổi tiếng lúc bấy
giờ là : chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Dàn, chùa Tướng thờ các Nữ thần Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Đạo Phật phát triển mạnh vào các thế kỷ V, VI, VI. Mật tông, Tịnh Độ Tông,
Thiền Tông đã được người dân tiếp nhận. Cư dân nông nghiệp bấy giờ tin
nhiều vào phép lạ thần thông của các vị sư như Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà
La… Đàm Hoằng, người Trung Quốc đến việt Nam vào thế kỷ thứ V, truyền
bá Tịnh Độ Tông với pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh, được lớp
bình dân tin theo. Còn Khương Tăng Hội, người mang Thiền Tông vào Việt
Nam trong giai đoạn đầu cũng được các vị sư và trí thức tiếp nhận, tuy nhiên
Thiền vẫn còn phôi thai.
Đến năm 580, Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi đến Giao Châu, trụ trì chùa Dâu, mới
mở ra Thiền phái thứ nhất ở Việt nam, truyền thừa 19 đời, đến thế kỷ XIII.
Thiền phái này coi trọng việc tham thiền, tu định, hoằng hoá độ sanh, có ảnh
hưởng đến dân chúng mộ đạo.
Vị Thiền sư kế tiếp có ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng là Pháp Hiền. Ngài tu
ở chùa Chúng Thiện, dạy dỗ, giáo hoá tăng chúng có hơn 300 người. Cũng
vào thế kỷ VI, chùa Khai Quốc đựơc vua Lý Nam Đế ( 541 – 547 ) cho xây
dựng sau khi giành lại nền độc lập cho đất nứơc.
Năm 820, Thiền sư Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc, sang ở chùa Kiến Sơ, lập
ra thiền phái thứ hai ở Việt Nam. Thiền phái Vô Ngôn Thông truyền thừa 15
đời, đến thế kỷ XIII. Tư tưởng Thiền học của Vô Ngôn Thông là thiền đến ngộ
và vô đắc của phương Nam Trung Quốc. Thiền có khuynh hướng biệt truyền,
chú trọng đến ngộ tâm địa. Nhưng khi truyền vào Việt Nam, thiền phái này

không quá thiên về bí hiểm, trầm tư mặc tưởng, mà rất gần gũi với đời sống xã
hội, hoà mình vào tinh thần tập thể.
1.3.2 Từ Thế Kỷ X Đến Thế Kỷ XIX
Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập và phát
triển. Trong buổi đầu của nhà nước phong kiến tự chủ, đạo Phật phát triển
mạnh. Đây là thời kỳ hoàng kim của Phật giáo trong lịch sử dân tộc. Những
trung tâm phật giáo như Luy Lâu, Kiến sơ có ảnh hưởng toàn vùng. Nhiều
chùa mới đựơc tạo lập. Một số trung âtm Phật giáo mới xuất hiện, đó là : trung
tâm Đại La (từ thời Lý là Thăng Long) và trung tâm Hoa Lư trong dãy núi đá
vôi Trường yên tỉnh Ninh Bình.
Ơ thời Lý (1010 – 1225), Nho giáo phát triển, còn Phật giáo thì đạt đến độ cực
thịnh. Các vua Lý đều tôn sùng đạo phật. Vua Lý Thái Tổ thuộc thế hệ thứ 7
của thiền phái Vô NgônThông. Nhiều nhà sư xuất thân từ tầng lớp quý tộc,
như thiền sư Viên Chiếu (999 – 1090), thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096), Ni
sư Diệu Nhân (1042 – 1113) … Một số nhà sư được phong làm quốc sư như
Thiền sư Viên Thông (1080 – 1151), thiền sư Minh Không 1099 –
1174).trong thời kỳ này, thiền sư Thảo Đường ở chùa Khai Quốc lập thiền
phái Thảo Đường. Vua Lý Thánh Tông, Thiền sư Bát Nhã, thiền sư Không Lộ,
vua Lý Anh Tông, vua Lý Cao Tông … đều thuộc thiền phái này.
Các danh lam thời Lý phần lớn do nhà vua hay các quan cho xây dựng. Vị vua nhà
Lý nào cũng có xây chùa dựng tháp. Năm 1010, vừa dời đô về Thăng Long,
vua Lý Thái Tổ đã cho dựng các chùa ở trong và ngoài kinh thành. Vua Lý
Thái Tông lên ngôi năm 1031, cho dựng 150 chùa thờ Phật và quán Đạo giáo.
Năm 1049 vua cho dựng chùa Diên Hựu ở Thăng Long. Vua Lý Thánh Tông
cho xây chùa Sùng Khánh Báo Thiên , chùa Thiên Phúc, tháp Báo Thiên, tháp
Tường Long, chùa Sùng Nghiêm Báo Đức, chùa Nhị Thiên Vương… Dươi
đời Lý Nhân Tông nhiều chùa tháp lớn được xây dựng.
Các vua nhà Lý đời sau cũng cho xây dựng và trùng tu nhiều chùa tháp. Ngoài ra
có rất nhiều chuà tháp được xây dựng ở nhiều địa phương trong nước như
chùa Linh Xứng (Thanh Hoá) được thái uý Lý Thường Kiệt cho xây năm

1126, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Thanh Hoá) xây năm 1117, chùa Bảo
Ninh Sùng Phúc (Tuyên Quang) xây năm 1107, chùa Tự Già Báo Ân (Vĩnh
Phú) xây năm 1209…Bấy giờ cũng đã có Ni viện, như Ni viện Hương Hải ở
Phù Đổng (ngoại thành Hà Nội ngày nay).
Vào thời Ly, mỗi làng có một hoặc vài ngôi chùa. Chùa nhiều nên tăng, ni phải
đông. Các vua đã nhiều lần xuống chiếu độ dân làm tăng. Các chùa thường có
nhiều ruộng đất do vua ban hoặc do giới quý tộc cúng để có điều kiện phát
triển, hoằng pháp và nuôi tăng, ni. Chùa được chia làm ba loại : đại danh lam,
trung danh lam, tiểu danh lam.
Đến thời Trần, Phật giáo tiếp tục phát triển rực rỡ trong sự dung hợp với Nho giáo.
Các thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường vẫn phát
triển cho đến lúc vua Trần Nhân Tông xuất gia năm 1299, lấy pháp hiệu là
Trúc Lâm Đại Sĩ, lập ra thiền phái Trúc lâm – Yên tử, thống nhất tổ chức Phật
giáo trong cả nứơc.
Đặc điểm của Phật giáo đời Trần là tinh thần độc lập, tự cường, tinh thần nhập thế
hành động, tinh thần phóng khoáng tự do. Quan điểm của Trúc lâm Đại Sĩ là
Phật tức tâm, chẳng cần tìm cầu Phật bên ngoài.
Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông vừa có kiến thức thế
học vững chắc lại có trình độ Phật học uyên thâm. Các vị đã dùng đạo Phật để
phục vụ cho mục đích chính trị, đó là một nền chính trị nhân bản, lấy con
người làm trung tâm.
Các ngôi chùa nổi tiếng đời Trần là chùa Phổ Minh được xây năm 1262 ở phủ
Thiên Trường (ngoại thành Nam Định ngày nay), chùa Quỳnh Lâm ở Đông
Triều (Quảng Ninh), chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang (Bắc Giang) và các
chùa tháp ở Yên Tử (Quảng Ninh).
Nhiều chùa tháp đã được xây dựng trong thời thiền sư Pháp Loa đứng đầu giáo
hội. Năm 1308, Trúc Lâm Đại Sĩ viên tịch, thiền sư Pháp Loa nối pháp, trụ trì
ở chùa Siêu Loại. Phật giáo đã phát triển rất mạnh. Chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng
Giang được chọn làm trụ sở trung ương của gíao hội Phật giáo Trúc Lâm, lưu
giữ hồ sơ tăng ni cả nước. Đến năm 1329 số tăng ni xuất gia trên 15000 vị.

Các tự viện được kiểm kê ghi vào sổ bộ. Ngài đã xây dựng hai khu chùa lớn là
Báo An và Quỳnh Lâm, 5 ngọn tháp va 200 tăng đường.
Thiền sư Pháp Loa đã khai sơn các thắng cảnh ở Côn Sơn và Thanh Mai Sơn.
Ngài lại lo việc thiếc kế việc thờ tự trong chùa. Đựơc sự ủng hộ tích cực của
giới quý tộc đương thời, ngoài việc dựng chùa, Ngài đã cho đúc hơn 1300 pho
tượng đồng lớn nhỏ, đắp hơn 100 pho tượng đất. Đặc biệt là Ngài cho đúc pho
tượng Phật Di Lặc lớn ở chùa Quỳnh Lâm năm 1327. Pháp Loa còn cho mở
các hội giảng kinh, ấn loát các tài liệu Phật giáo, nhất là việc tiếp tục in kinh
Đại Tạng vào năm 1311. Ngài là vị tổ sư thứ hai trong Trúc Lâm Tam Tổ.
Nối tiếp thiền sư Pháp Loa là thiền sư Huyền Quang. Ông đã làm quan 30 năm
(1275 – 1305) rồi mới xuất gia, trụ trì chùa Vân yên (núi Yên Tử quảng Ninh)
sau về trụ trì chùa Côn Sơn (Hải Dương). Ngài là vị tổ sư thứ ba trong Trúc
Lâm Tam Tổ.
Kể từ vua Trần Anh Tông về sau, Phật giáo bị pha lẫn phần nào Đạo giáo. Nho
giáo tạo được nhiều thế lực. Năm 1381 đời vua Phế Đế, triều đình sắc thiền sư
Đại Nam thống suất tăng chúng trong nước đi đánh giặc Chiêm. Đến cuối thế
kỷ XIV, ở thời Hồ, Hố Quý Ly bắt các tăng sĩ dưới 40 tuổi phải hoàn tục, Phật
giáo bước vào giai đoạn suy yếu.
1.3.3 Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
Sau khi nghĩa quân Lê Lợi thắng quân Minh, triều Lê Sơ (1428 – 1527) được thiết
lập. Phật giáo ở thời kỳ này không còn khởi sắc như trước nữa. Một phần do
thiết chế và quy định thi cử chặt chẽ của triều đình, thêm vào đó, chùa chiền bị
hư hỏng nhiều qua chiến tranh.
Tình hình này kéo dài một thời gian. Đến khi xảy ra cuộc chiến tranh Lê – Mạc rồi
phân tranh Trịnh – Nguyễn, các chúa tỏ ra hâm mộ đạo Phật, Phật giáo có cơ
phục hưng. Ngoài Thiền phái Trúc lâm, có thêm mấy phái thiền và thiền sư
danh tiếng.
Ơ đàng ngoài: chúa Trịnh đã cho tu bổ nhiều ngôi chùa và tạo lập nhiều chùa mới
với quy mô lớn. Năm 1648, chúa Trịnh Tráng lập chùa Phúc Long ở làng Lãng
Ngâm, năm 1727 chúa Trịnh Cương lập chùa Thiền Tây ở làng Sơn Đình, năm

1730 chúa Trịnh Giang trùng tu chùa Quỳnh Lâm, chùa Sùng Nghiêm. Phật
giáo thời kỳ này còn được phát triển qua sự du nhập và truyền bá của các phái
thiền Lâm Tế và Tào Động từ Trung Quốc cùng phái Thiền Liên Tôn ở Việt
Nam.
Năm 1630, thiền sư Chuyết Chuyết (1590 – 1644) cùng đệ tử dùng thuyền qua
Việt Nam, đến Chân Lạp rồi Chiêm Thành. Sau Ngài ra đàng ngoài, hoằng hoá
tại chùa Thiên Trượng (Nghệ An) và chùa Trạch Lâm (Thanh Hoá). Năm
1633, Thiền sư ra ở chùa Khán Sơn (Thăng Long) rồi về chùa Phật Tích (Bắc
Ninh). Ngài được chúa Trịnh Tráng hâm mộ. Thiền sư có hai đệ tử xuất sắc là
Minh Hành (người Hoa) và Minh Lương (người Việt). Đệ tử của thềin sư
Minh Lương là thiền sư Chân Nguyên (1647 – 1726) truyền xuống Như Trừng
– Lân Giác tức Vương công Trịnh Thập. Thiền sư Như Trừng – Lân Giác là
khai tổ chi phái thiền Liên tôn ở chùa Liên Phái (Hà Nội).
Thiền sư Thuỷ Nguyệt (1634 – 1704) người Thái Bình đến Trung Quốc cầu đạo
Thiền sư Nhất Cú – Tri Giáo và du nhập Thiền phái Tào Động vào Việt Nam
năm 1667. chùa Hoè Nhai (Hà Nội) là ngôi tổ đình của thiền phái này.
Ơ thế kỷ XVIII, có hai ngôi chùa đặc sắc về kiến trúc và điêu khắc là chùa Kim
Liên (Hà Nội) và chùa Tây Phương (Hà Tây). Công việc xây dựng và trùng tu
chùa vẫn được các chúa Trịnh quan tâm. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc xây
dựng này có bị dừng lại do phong trào nông dân nổi dậy lan rộng khắp nơi.
Ơ Đàng Trong, ngay từ thế kỷ XIII, XIV đã có nhiều ngôi chùa Khmer trên đất
Nam Bộ hiện nay, như các chùa Samrông Ek, chùa Ông Mek ở Trà Vinh, chùa
Vũng Liêm ở Vĩnh Long…
Chămpa đã có thời chịu ảnh hưởng phật giáo. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết
một tự viện và tượng phật bằng đồng ở Đồng Dương thế kỷ IX, X nhưng Phật
giáo không duy trì lâu ở đây.
Xứ Đàng Trong: từ khi chúa nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá. Trong hơn
200 năm các chúa Nguyễn hết lòng sùng mộ đạo Phật. Nhiều chùa chiền đã
được xây dựng ở vùng đất mới. Năm 1601, chúa Nguyễn Hoàng cho trùng tu
chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê (Huế). Sau đó chúa cho dựng chùa Sùng Hoá

(Phú vang), chùa Bảo Châu (Quảng Nam), chùa Kính Thiên (Quảng Bình).
Ơ thế kỷ XVII, nhiều vị thiền sư từ Trung Quốc đem hai thiền phái Lâm tế và Tào
Động truyền vào Đàng Trong làm Phật giáo ở đây thêm khởi sắc. Hai thiền sư
nổi tiếng của phái thiền Lâm Tế là Thiền Sư Nguyên Thiều (1649 – 1729)
người Trung Quốc và tiền sư Liễu Quán (? – 1742) người Phú Yên, Việt Nam
Vào cuối thế kỷ XVIII, khi triều đại Tây Sơn được thành lập, Phật giáo vẫn tiếp
tục phát triển.
1.3.4 Từ Thế Kỷ XIX Đến Năm 1920
Năm 1802 Nguyễn Phúc Anh thắng triều Tây Sơn lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên
hiệu là Gia Long, đóng đô tạo Phú Xuân ( Huế ).
Nhìn chung, nhiều vua nhà Nguyễn không sùng đạo Phật như chúa Trịnh và chúa
Nguyễn. Nhiều quan lại nhà Nguyễn đã tham gia xây dựng nhiều chuà chiền.
Trong dân chúng, việc xây chùa, tạc tượng, đúc chuông, khắc in kinh điển vẫn
đưỡc tiếp tục. Đến thời kỳ này từ Bắc chí Nam hầu như làng nào cũng có một
ngôi chùa.
Nhiều thiền sư trong thời kỳ này đã có công truyền bá rộng rãi đạo phật. Một số
thiền sư được nhà vua phong Tăng cang và cấp giới đao độ điệp. Một số thiền
sư khác nhờ giới đức, kiến thức giáo lý, xây dựng, tổ chức giáo phái đã có ảnh
hưởng, uy tín trong tăng ni và quần chúng.
Các nhà thơ lớn xuất thân từ Nho học cũng không khỏi không chịu ảnh hương của
Phật giáo. Ông Nguyễn Gia Thiều với Cung Oán Ngâm Khúc nói đến nỗi đau
khổ ,vô thường trong cuộc đời. Anh hưởng bởi đức từ bi của phật giáo,
Nguyễn Du đã đựa vào giáo lý nha Phật để viết Văn tế thập loại chúng sanh.
Còn Nguyễn công Trứ với bài Vịnh Phật, vừa theo Nho lại vừa tin Phật. Nhà
thơ Chu Mạnh Trinh đến với cảnh chùa qua bài thơ Phong cảnh Hương Sơn.
1.3.5 Từ Năm 1920 Đến Nay
Ơ miền Bắc, Tổng hội Phật giáo ra đời năm 1934, đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ,
xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ơ miền Trung, Hội An Nam Phật học cũng ra mắt
và đặt trụ sở taị chùa Từ Đàm, xuất bản tạp chí Viên An ( 1934 ) mở Phật học
đường báo Quốc và Kim Sơn, Phật học đường Trúc Lâm và Tây Thiên. Ơ

Bình Định có hội phật học Bình Định. Ơ Đà Nẵng có Hội Phật học Đà Thành,
ra tạp chí Tam Bảo.
Ơ miền Nam, hội Lục Hoà được thành lập từ năm 1920 để vận động phong trào
chấn hưng Phật giáo. Năm 1931 Hội nghiên cứu Phật học Nam Kỳ ra đời, đặt
trụ sở tại chùa Linh Sơn, xuất bản tạp chí Từ Bi âm ( 1932 ). Năm 1934 hội
phật học lưỡng Xuyên ra đời, xuất bản tạp chí Duy Tâm Phật Học và mở Phật
học đường Lưỡng Xuyên.
50 năm của Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo ( 1920 – 1970 ) đã có những kết
quả sâu rộng. Đội ngũ tăng, ni được huấn luyện qua nhiều trường lớp và phát
triển ở các tỉnh, thành phố. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhất là hệ
thống chùa phật học ở các thành thị.
Bên cạnh đó, có nhiều hệ phái, tông phái Phật giáo mới ra đời như giáo phái Khất
sĩ Việt Nam, Thiên Thai giáo quán tông…một yêu cầu thống nhất Phật giáo
được đặt ra. Năm 1951, giáo hội Tăng Già toàn quốc được thành lập, đặt trụ
sở tại chùa Quán Sứ, hoà thượng Tuệ Tạng làm thượng thủ. Tổng hội Phật
Giáo Việt Nam được thành lập tại huế, đặt trụ sở chùa Từ Đàm, hội chủ là Hoà
Thượng Thích Tịnh Khiết. Đến năm 1963 một đại hội phật giáo được tổ chức
tại chuà Xá Lợi thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ( ở miền
Nam)
Đến tháng 11 năm 1981, một hội nghị 165 đại biểu của 9 tổ chức giáo hội, hệ phái
cả nứơc đã họp tại chùa Quán Sứ thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
1.4 Kiến Trúc Ngôi Chùa Việt Nam Ngày Nay
Qua ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu thì không có một kiểu mẫu nào cho ngôi
chùa Việt Nam cả. Mỗi thời đại, ngôi chùa có một số đặc điểm kiến trúc riêng.
Mỗi địa phương cũng tuỳ theo những điều kiện địa lý mà có kiểu kiến trúc phù
hợp. Các hệ phái Phật giáo cũng có những kiến trúc khác nhau
1.4.1 Chùa Bắc Tông
Nét chung nhất trong kiến trúc ngôi chùa đi từ ngoài vào là : cổng chùa, sân chùa,
tháp, gác chuông, nhà bia, vườn hoa, ngôi chánh điện, nhà thờ tổ, sân thiên
tĩnh, nhà tăng, nhà khách, nhà trai, nhà giảng, tuệ tĩnh đường, nhà bếp, khu

tháp mộ…
Cổng chùa là ranh giới giữa cõi đời và cõi đạo. Cổng có 3 cửa gọi là Tam quan
( tam quán ) nghĩa là ba mối, ba chỗ quán tưởng , gồm có:
- Không quán ( quan ) : xét ra sự vật đều không có thật tánh, thật tướng, mọi pháp
vốn không.
- Giả quán ( quan ) : xét rằng vạn vật, chư pháp đều biến hoá khôn lường, đều là
giả tam cả.
- Trung quán ( quan ) : phải quán cho đắc lẽ trung đạo, không phải không, không
phải giả. Đó là chỗ trọng yếu của đạo Phật.
Sau cổng chùa là trục chánh đạo dẫn vào sân chùa. Ơ sân trước, nhiều chùa có xây
tháp thờ Phật, tháp chuông, tháp vong, nhà bia, tháp trống… Cuối sân chùa là
nhà bái đường hay toà thượng điện.
Ơ miền Bắc : thường gặp kiểu chữ Đinh, Công, Tam, Nội Công Ngoại Quốc
Ơ miền Trung : đặc biệt là ở Huế, chùa thường được xây dựng kiểu chữ Môn, chữ
Khẩu.
Ơ miền Nam : chùa Tứ trụ, chữ Nhị, chữ Tam
1.4.2 Chùa Nam Tông
Có hai dạng: chùa Nam Tông Việt và Nam Tông khmer. Phật giáo Nam tông phát
triển chủ yếu ở miền Trung và miền Nam.
Kiến trúc chùa Nam Tông Việt thường đơn giản. Chùa có tam quan, trên đầu bốn
trụ có bốn hoa sen nở.
Chùa Nam Tông Khmer chỉ có ở miền Nam. Chùa là cơ sở văn hoá, tín ngưỡng,
giáo dục của cả cộng đồng nên thường đựơc xây dựng ở trung tâm của làng.
Cổng chùa được xây dựng bên lề đường với nhiều kiểu, bằng gỗ hay bằng
gạch, có bốn hoặc sáu cột, trên mái là ngôi tháp tứ giác có nhiều tầng hoặc ba
tháp tròn ba tầng. Ngôi chánh điện là công trình kiến trúc qui mô nhất, thường
xây dọc,mặt hướng Đông. Chánh điện thường được xây dựng trên hai cấp nền,
cao hơn hẳn các công trình khác ở chùa. Ngôi chánh điện luôn có các cấp mái,
mỗi cấp mái chia làm ba lớp. Hai mái trên cùng hợp thành một góc 600 ở hai
đầu hồi.

MASJID JAMIA AL - MUSULMAN 66 ĐÔNG DU - TPHCM
Thánh Đường Jamia Al-Musulman 66 ĐÔNG DU (hay còn gọi là Masjid Catinat)
tọa lạc tại trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, là Thánh đường Hồi Giáo tại Việt
Nam đã có hơn 78 tuổi, và đây là thánh đường được người nước ngoài tập trung
nhiều nhất vào những buổi hành lễ solah hàng ngày, nhất là buổi hành lễ solah
Jum’at ngày thứ sáu hàng tuần. Thánh Đường này có thể nói là Thánh Đường Hồi
Giáo Quốc Tế tại TP Hồ Chí Minh.
Thánh đường (Masjid) Jamia al-Musulman 66 Đông Du là một trong những công
trình kiến trúc lịch sử lâu đời so với những thánh đường hiện có tại Việt Nam.Masjid al-
Musulman không có choáng ngợp trước vẻ xa hoa, tráng lệ của một công trình cổ
xưa như những Masjid của những xứ Islam, nhưng Thánh đường này là một trong
những Thánh đường có di tích lịch sử mang đậm bản sắc dân tộc của những bậc
ông cha Muslim Ấn kiều sinh sống tại miền nam Việt Nam (trước 1975) đã cùng nhau
xây dựngvào năm 1935.
Phong cách kiến trúc Masjid này rất tinh xảo, tỉ mỉ từng những họa tiết trang hoàng,
như đã nói dù không cầu kỳ họa tiết như những Thánh đường của những xứ Islam tại
Trung đông hay những nơi khác, nhưng nó có âm sắc riêng của một dân
tộc Khoảng sân trước thánh đường là một điểm nhấn đặc biệt trong khuônviên sáng
sủa được trưng bày những chậu cây cảnh, nhìn qua bên phía tay phải là hồ nước
dành cho tín đồ nam lấy nước tẩy rửa.
Nhìn thẳng bên trong thánh đường gần như hình vuông tạo một khoảng không gian
cầu nguyện rộng lớn. Đây cũng là phòng cầu nguyện chính rất trống trải thoáng
mát,xung quanh tường đượcviền bằng gạch men màu trắng, dù trang trí không cầu kỳ
lộng lẫy nhưng nó là một không gian của sự trang nghiêm nơi tín đồ trình diện Đấng
Thiêng Liêng (Allah).
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ THÁNH ĐƯỜNG MUSULMAN 66 ĐÔNG DU - BẾN
NGHÉ - Q.1 - TP.HỒ CHÍ MINH:

Nói đến tôn giáo Islam thì Thánh đường Hồi Giáo (Masjid) được xem là nơi tôn
nghiêm và linh thiêng để các tín đồ Hồi Giáo (Muslim) làm nơi hành lễ cầu nguyện hang

ngày, được ví như ngôi nhà của Thượng Đế (Allah). Ở đâu có người Muslim sinh
sống thì nơi đó phải có Thánh đường, Sài Gòn thời bấy giờ dù giáo dân theo tôn giáo
Islam chỉ là số ít nhưng đòi hỏi giáo dân phải có nơi trang nghiêm để tu tịnh.
Thánh Đường Jamia Al Musulman 66 ĐÔNG DU (hay còn gọi là Masjid Catinat)
tọa lạc tại trung tâm thành phố Hồ Chí Minh,là Thánh đường Hồi Giáo tại Việt Nam đã
có hơn 78 tuổi, nhưng đây là thánh đường được người nước ngoài tập trung nhiều
nhất vào những buổi hành lễ solah hàng ngày, nhất là buổi hành lễ solah Jum’at ngày thứ
sáu hàng tuần. Thánh Đường này có thể nói là Thánh Đường Hồi Giáo Quốc
Tế tại TP.Hồ Chí Minh vì nơi đây đã từng đón tiếp những Quốc Vụ khanh, Các Tổng
(phó) Lãnh Sự của các Quốc gia bạn đến tham quan và hành lễ.
NGƯỢC DÒNG LỊCH SỬ MASJID CATINAT - 66 ĐÔNG DU:
Theo tài liệu ghi lại, vào năm 1900, thời điểm mà người Việt chưa biết danh Islam là gì thì
Cộng Đồng Hồi Giáo ở Sài Gòn bấy giờ đa số là các thương buôn ngoại quốc đến từ các
nước Ấn Độ, Pakistan, Arab, Malaysia, Indonesia, …và những Lính Lê Dương
(Pháp-Sénégal-Maroc-Algérie…), phần đông những thương buôn và lính Lê
Dương là những người theo đạo Islam nên họ có nhu cầu cần một Thánh
Đường để sinh hoạt và hành lễ (Solah) hang ngày, đó là sự tuân chỉ theo giáo điều
Islam… Trở về quá khứ, không rõ chính xác vào thời điểm nào, có một người Pháp
đã tự nguyện hiến nền đất (số 66 Đông Du – tọa lạc tại trung tâm Quận 1, Sài Gòn
củ), những tín đồ đã kể trên đã cùng nhau chung sức công của xây cất tạm một
Thánh đường Islam với kiến trúc loại trệt và rất đơn giản có tên gọi là Masjid
Catinat (lấy tên đường Catinattức đường Tự do lúc bây giờ và hiện tại có tên gọi khác
là đường Đồng Khởi). Sau thời gian bao lâu rõ, đến năm 1935 bấy giờ dưới sự cai
trị của thực dân Pháp nhưng cộng đồng Hồi Giáo Sài Gòn ngày một sinh sôi nẩy nở,
mà đa số vẫn là ngoại kiều, trong đó phần đông là Ấn kiều nhận thấy Masjid không còn đủ
sức chứa nửa vì tín đồ ngày càng đông hơn, với sự cần
thiết trong việc mở rộng nên những thương gia Ấn kiều đã cùng nhau bàn thảo kế
hoạch mở rộng Thánh Đường,và họ đồng ý cho một kỹ sư người Pháp nhận
lãnh phần thiết kế bảng vẽ theo kiến trúc phương Đông (ở dưới là từng hầm làm
kho chứa đồ, từng trên dành nơi sinh hoạt và hành lễ ), sau khi thống nhất bảng vẽ

này và thuê những nhân công Ấn – Việt đứng ra xây dựng, công trình này được
xây cất rất kiên cố theo phong cách hình dáng kiểu mẫu Ấn - Trung đông. Sau khi
hoàn thành công trình xây cất,vì đại đa số các giáo dân ở đây là người Việt gốc Ấn
nên Thánh Đường được giao phó cho những người Ấn Kiều quản lý đến ngày
nay Thánh Đường Hồi Giáo mang tên Jamia al-Musulman được làm lễ khánh thành
đưa vào hoạt động vào năm 1935 đến nay đều do những Ấn kiều sinh sống tại Sài
Gòn quản lý trong sự tín nhiệm của tập thể giáo dân. Nhắc lại, sau ngày 30/04/1975,
tức sau khi đất nước được giải phóng thì tên nước là “Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà” (VNDCCH), lúc đó địa chỉ của Thánh Đường cũng đã được đổi thành
Thánh đường Hồi giáo Jamia al-Musulman - số 66 Thái Lập Thành, Quận 1
– TP Hồ Chí Minh. Nhưng sau tháng 04/1975, phần đông những kiều dân Ấn
chọn đường trở về quê hương Ấn độ để sinh sống, một số cũng khá đông mang
quốc tịch Pháp thì hồi hương về Pháp định cư, cho nên chỉ còn số nhỏ còn ở lại định
cư và lập nghiệp tại đây. Số Ấn kiều còn lại được chính quyền VNDCCH cho phép
thanh lập “Hội Ấn Kiều Islam tại TP.HCM” để quản lý giáo dân của họ và phân
chia công việc điều hành nhân sự trong Ban quản trị MasjidAl - Musulman. Thời
điểm đó sau 30/04/1975, nếu ai hiểu biết về giáo luật Islam và được mọi người nể trọng thì
sẽ được cộng đồng bầu chọn làm Trưởng Ban (Ông Ban), người đầu tiên được bầu
chọn là ÔngMohamed Maideen lên giữ chức vụ Trưởng Ban Quản Trị Thánh Đường
Jamiaal – Musulman 66 Đông Du (giáo dân thường gọi là “Ông Ban mũ đỏ” ). Đến
năm 1979 ông Ban Mũ đỏ Mohamed Madeen tự Taramana - trú tại đường Phạm Hồng
Thái - Quận 1 cũng đã có giấy tờ rời khỏi Việt Nam trở về nguyên quán. Ông
Maideen đã bàn giao chức vụ Trưởng Ban Quản trị Thánh đường lại cho ông Raya
(cũng quốc tịch Ấn Độ), và thâu nhận thêm ba người dân tộc Chăm là ông Haji
Musa Bilal (Quản lý Thánh đường), ông Haji MuSa Misky (Tuôn dạy học giáo lý và
Qur’an), Haji Imam Yusuf (Imam). Đến năm 1982, ông Raya qua đời, hội đã thống
nhất đưa ông Pashi Ahmad - chủ tiệm đồ mỹ nghệ tại số 11, đường Đồng
Khởi – Quận 1 lên kế nhiệm nhưng cũng chỉ được vài năm thì ông Raya lâm bệnh
rồi cũng qua đời, và sau đó đề cử ông Oly Mohamed lên thay thế…,kế tiếp là ông
Ibrahim ở Dạ Nam – Quận 8, ông Kasim ở đường Nguyễn Trải – Quận 5

4. HỒI GIÁO
4.1. Người sáng lập:
NABI MOHAMED ( 571 -632 )
Ông sinh tại Mecca ( Ả Rập Xê Út)- đây cũng là nơi sau này trở thành Thánh địa
của người Hồi Giáo.
Cuộc sống của ông thật nghèo khổ, mồ côi cha – mẹ, ông ở với chú của mình.
Thưở nhỏ, ông phải tự lao động kiếm sống nên không được học hành.
Năm 24 tuổi, ông làm thuê cho một bà chủ tên là Knadija - lớn hơn ông đến 16
tuổi. Cuối cùng họ lấy nhau, cuộc sống của ông trở nên sung túc hơn. Ong bắt
đầu suy nghĩ về cuộc đời, về Đấng tối cao Jesus và cũng muốn ngang hàng với
Người. Ong đã sáng lập ra một đạo mới, lấy tên là HỒI GIÁO, và cho mình là
Thiên sứ, được Thánh Allah ( cũng như là ông Trời, đấng tối cao) trao kinh
Koran vào một đêm trăng lưỡi liềm và chỉ có một ngôi sao. Đây cũng là một
trong số những lý giải cho biểu tượng của đạo Hồi – một vầng trăng khuyết và
một ngôi sao.
4.2 Về Đạo Hồi:
4.2.1 Đối tượng thờ:
Nguyên nghĩa của 2 từ Hồi Giáo trong tiếng Ả Rập là Islam nó mang hàm ý là:
“Vâng lệnh và phục tùng Thượng đế”.
Đấng tối cao trong Đạo Hồi đó chính là Thánh Allah.
4.2.2 Những dấu ấn lịch sử quan trọng của Hồi giáo:
- 15/7/622 ( Dương lịch- tính theo lịch Công giáo), Mohamed đã cùng tín đồ rời
khỏi Mecca, trốn sang Medina – đêm hôm đó, trên bầu trời cũng xuất hiện
trăng lưỡi liềm và một ngôi sao- đây có thể là một lý giải khác cho biểu tượng
của đạo Hồi. Sau này, khi Hồi giáo phát triển, Mohamed bắt đầu sáng lập ra
lịch Hồi , lấy ngày trốn chạy là ngày 1/1/1 ( tức là ngày 15/7/622 dương lịch).
- Năm 630 dương lịch, Mohamed quay trở lại đánh chiếm Mecca và chiến thắng.
- Năm 632, ông qua đời ( tại nhà của người vợ thứ 9).
4.2.3. Hồi lịch:
- Ngày 15/7/622 dương lịch được tính là ngày 1/1/1 Hồi lịch. Về cách tính thời

gian thì như sau:
- NGÀY: Ngày Hồi-Giáo khởi đầu vào lúc mặt trời lặn, khoảng 18 giờ (trong khi
chúng ta cho ngày bắt đầu vào lúc nửa đêm tức 24 giờ hay 00 giờ). Như vậy,
ngày của lịch Hồi đi trước ngày của chúng ta đến 6 giờ.
- THÁNG: Tháng Hồi giáo bắt đầu là lúc họ nhìn thấy được trăng hình lưỡi liềm
hiện ra trên bầu trời sau khi mặt trời lặn. Cụ thể là ở Thánh địa của Hồi giáo là
Mecca (La Mecque) họ chỉ có thể thấy được vầng trăng định chuẩn cho tháng
của họ vào khoảng 40 giờ sau lúc giao hội giữa hai tháng. Vì thế mà ngày đầu
tháng Hồi lịch thường rơi vào ngày mùng HAI (58,3%) hoặc mùng BA
(36,0%) của tháng âm-dương-lịch (Ngày mồng MỘT chỉ được 06,7% thôi).
Mười hai tháng Hồi giáo có tên gọi như sau: (số ghi trong ngoặc chỉ số ngày của
tháng):
1- Moharram (30)
2- Safor (29)
3- Rabi I (30)
4- Rabi II (29)
5- Djoumada I (30)
6- Djoumada II (29)
7- Radjab (30)
8- Sa’aban (29)
9- Ramadan (30)
10- Sawal (29)
11- Dzou’l Kada (30)
12- Dzou’l Hidji (29 hoặc 30)
- NĂM: Năm Hồi Giáo chỉ dài 353 -355 ngày, gần đúng 12 tháng. Sánh với năm
dương - lịch có sự sai biệt khoảng 11, 25 ngày. Vì vậy nên lịch Hồi Giáo đi rất
nhanh.
4.2.4 Năm điều quan trọng của người Hồi giáo :
- Chỉ tin và thờ phụng duy nhất 1 thánh Allah, là thiên sứ Mohamed là người
truyền đạo duy nhất.

- Trong ngày sẽ tiến hành 5 lần cầu nguyện như sau: “Không có Thánh thần nào
khác ngoài thánh Allah và Mohamed là Thiên sứ của người”. Năm lần hành lễ
này theo tiếng Ả Rập được gọi là Sallat. Và ngày thứ sáu trong tuần, người
Hồi giáo sẽ phải đi lễ tại Thánh đường.
5 thời điểm cầu nguyện trong ngày :
+ Lúc mặt trời mọc (khoảng 4h30).
+ Giữa trưa (12h30).
+ Đầu giờ chiều (15h30).
+ Ngay sau lúc mặt trời lặn (18h).
+ Khi trời tối hẳn (19h15).
Khi đến giờ cầu nguyện một người được gọi là Muezzin sẽ lên kêu gọi mọi người
cầu nguyện. Các tín đồ có thể đi đến các Thánh đường cầu nguyện hay ở trong
các cửa hàng, các ngôi nhà, trên đường phố, giữa sa mạc …hay bất cứ nơi đâu
mà họ đang có mặt, kính cẩn nghiêm trang y như họ đang ở thánh đường vậy.
- Vào muà lễ Ramandan ( tháng 9 Hồi lịch), tất cả người Hồi giáo phải ăn chay-
nghĩa là, từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn, họ không được ăn uống
bất cứ thứ gì hết. Cho đến tối mới có một buổi ăn nhẹ. Gần sáng, họ ăn cho
thật no một lần rồi nhịn. Đồng thời trong tháng này , con người phải thật sự
thanh tịnh xác thịt. Làm như vậy để có một sự đồng cảm với những người
nghèo đói, đồng thời còn nhằm luyện cho con người một sự tiết chế, chống
những cám dỗ vật chất để tạo thuận lợi cho việc được lên thiên đàng.
( Một chi tiết vui trong tháng Ramadan , vào buổi chiều, nếu không có công
chuyện thì chớ có dại mà lái xe ra đường. Bởi lẽ các ông lái xe taxi, xe bus
sau cả một ngày nhịn ăn, nhịn uống đã rất mệt, họ lái rất nhanh để kịp về nhà
trước giờ được ăn, nên rất dễ xảy ra tai nạn giao thông. Ngay tại thủ đô Cairo
(Ai Cập) đã từng có một chuyến xe bus chở khách "vượt qua thành cầu" lao
xuống sông Nil, làm chết 39 người và bị thương hơn 20 người khác, có lẽ bởi
ông lái xe đã hoa mắt vì đói và mệt! )
- Vào ngày 1/10 Hồi lịch, những người Hồi giáo sẽ bố thí 2.5% lợi nhuận mà họ
thu được trong 1 năm. Việc làm từ thiện này, theo tiếng Ả Rập được gọi là

Zako
- Vào 10/12 Hồi lịch, tất cả sẽ tụ về Thánh địa Mecca để hành hương. Mỗi tín đồ
Hồi giáo có nghĩa vụ cố gắng để trong đời mình có ít nhất một lần hành hương
đến Mecca (và cũng chỉ những người theo đạo mới được phép đến nơi này).
Khi hoàn thành nghĩa vụ này, họ sẽ được mang danh hiệu "Haj" hoặc "Haji".
( ví dụ: Sadham haji). Bởi thế, nếu bạn cầm danh thiếp của một doanh nhân,
một quan chức của các nước theo đạo Hồi, thấy trong dòng tên họ có chữ Haji
thì hiểu rằng người đó đã có lần hành hương đến Mecca. Còn nếu không thể
đến được Mecca, họ sẽ tham dự một Thánh lễ Haji tượng trưng. Ở Việt Nam
cũng đã có những Haji, trong cộng đồng người Chăm Bà-ni, hoặc ở Hà Nội,
TP. Hồ Chí Minh – nơi đã có Thánh đường của đạo.
4.2.5 Mười điều luật trong kinh Koran của Đạo Hồi.
- Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa ( Allah).
- Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
- Tôn trọng quyền của người khác.
- Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
- Tránh giết người, ngoại trừ trường hợp cần thiết.
- Cấm ngoại tình.
- Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
- Hãy cư xử công bằng với mọi người.
- Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
- Hãy khiêm tốn.
4.2.6 Những điều đặc biệt trong đời sống của tín đồ Hồi giáo:
- Họ không ăn thịt heo và những con vật khác phải trực tiếp cắt máu lấy thịt mới
ăn.
- Họ cũng không uống rượu bia.
- Vào đêm Thánh Allah trao kinh Koran chỉ có hình trăng lưỡi liềm và ngôi sao
nên đã lấy biểu tượng đó là logo của Đạo Hồi.
- Người đàn ông Hồi giáo được quyền lấy 4 vợ. Và để minh chứng cho việc trưởng
thành phải cắt da qui đầu ( lễ Cotan ).

- Người phụ nữ ngày xưa bị hạn chế ra ngoài đường, khách đến nhà phải rải chiếu
và con gái không được ngồi chung.
- Nam và nữ phải che đầu, nam giới thì che nón, còn nữ giới phải che khăn Matra,
phủ cả mặt và mái tóc của mình (theo Hồi giáo cực đoan thì phụ nữ không nên
để cho người khác nhìn thấy khuôn mặt của mình).
- Nếu như ở chùa hay nhà thờ nam nữ có thể vào cầu nguyện một cách bình đẳng
miễn là thể hiện sự tín ngưỡng và tin thần ngoan đạo của mình. Còn các
Thánh đường Hồi Giáo thì chỉ có nam giới mới được vào cầu nguyện ở thánh
đường chính bên trong còn nữ thì chỉ cầu nguyện ở hành lang bên ngoài.
Những người theo Hồi giáo này coi cuộc đời trên trái đất chỉ là cuộc sống tạm,
giai đọan ngắn ngủi đến với cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết. Và cuộc sống
vĩnh cữu tràn đầy niềm vui hạnh phúc hay đọa đầy thống khổ còn tùy vào
người đó sống trên thế gian này như thế nào? Họ sẽ đến cõi vĩnh hằng trên
thiên đường hay phải chịu nỗi thống khổ nơi địa ngục. Và họ tin vào thánh
Allah “không có chúa trời nào khác ngoài Allah và không có Mohamed là tiên
tri của Ngài”.
4.2.7 Các phái Hồi Giáo:
Sau khi Mohamed qua đời, Hồi giáo chia làm 2 phái: phái Shinny (phái cấp tiến)
và phái Shiai (pháo bảo thủ).
4.2.6.1 Hồi Giáo Sinni( con đường quen đi):
- Quyền lực xuất phát từ Imja tức là sự nhất trí của cộng đồng. Được hình thành để
hóa giải những khác biệt và sai lệch bên trong cộng đồng Hồi Giáo.
- Theo giáo phái shinny thì họ chấp nhận bầu người kế vị tức theo truyền thống
Shinny. Với Shinny Thẩm quyền cao nhất là luật Hồi giáo theo chỉ dẫn kinh
Koran.
4.2.6.2 Hồi Giáo Shiai:
- Chủ trương những người kế vị Mohamed là những người theo dòng dõi tiên tri ,
đó là các Iman( Chủ tế hay thấy giảng có thẩm quyền).
- Quyền lực hoàn toàn nằm trong tay các vị Iman thuộc dòng dõi tiên tri hay
người được chủ quyền Iman.

Ơ Việt Nam, tín đồ Hồi giáo chủ yếu là cộng đồng người Chăm, cũng chia làm 2
phái:
Số người Chăm theo Hồi Giáo ở Châu Đốc, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh,
Đồng Nai là khối Hồi giáo chính thống, gọi là người Chăm Islam. Sinh hoạt
tôn giáo ở đây chính thống và sôi động. Các luật lệ, lễ nghi của Hồi giáo được
tuân thủ nay đủ. Tổ chức Hồi giáo ở đây có mối quan hệ với thế giới Hồi giáo
qua việc hành hương sang Mecca và gửi con em đi học ở Ả Rập Xê Út …
- Số người Chăm theo Hồi giáo ở Bình Thuận, Ninh Thuận là khối Hồi giáo không
chính thống gọi là người Chăm Bà Ni. Đạo này ở đây chịu nhiều ảnh hưởng
phong tục tập quán, tín ngưỡng truyền thống, nhất là sự pha trộn với những
yếu tố của đạo Bà La Môn và tạp tục chế độ mẫu hệ cho nên suy thoái và
không chính thống.
Ví dụ: Nếu như trong xã hội Hồi giáo, vai trò của người phụ nữ bị hạ thấp quá
đáng thì Hồi giáo ở đây rất coi trọng phụ nữ như: phụ nữ có quyền đến thánh
đường, là người quyết định về vật chất trong các buổi lễ, phụ nữ không phải
trùm khăn hay che mạng khi ra đường, phụ nữ có quyền đi hỏi và cưới chồng.
Vào cuối những năm 50 đầu 60, chính quyền ở miền Nam cho lập ra tổ chức Hội
liên hiệp Chăm Hồi giáo Việt Nam, văn phòng đặt tại Sài Gòn. Cuối năm 1966
lập ra một tổ chức mới thay tổ chức trên là: Hội đồng Giáo cả Hồi giáo Việt
Nam, đặt văn phòng tại Châu Đốc. Tổ chức này tồn tại đến 1975 và chỉ ảnh
hưởng trong người Chăm Islam.
4.3 Thánh đường Hồi Giáo: có 2 loại thánh đường:
Đại Thánh Đường ( Mosque )
Tiểu Thánh Đường ( Surao)
- Thánh đường Hồi giaó luôn luôn được xây trên nền cao ( thể hiện sự thiêng
liêng, cao quý). Đặc biệt ở Việt Nam, thánh đường Hồi giáo luôn được xây
theo hướng Đông Tây.

×