Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

VẤN ĐỀ TIÊU THOÁT NƯỚC ĐÔ THỊ VÙNG ẢNH HƯỞNG THUỶ TRIỀU ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.91 KB, 10 trang )

VẤN ĐỀ TIÊU THOÁT NƯỚC ĐÔ THỊ VÙNG ẢNH HƯỞNG
THUỶ TRIỀU
NGUYỄN QUANG CẦU

1. HIỆN TRẠNG
Phần nhiều các đô thị ở Nam Bộ đều có cao trình mặt đất tương đối
thấp, tương đương với mực nước đỉnh thuỷ triều trong vùng với mực nước
đỉnh thuỷ triều trong vùng với chế độ bán nhật triều, nên việc tiêu thoát nước
rất khó khăn, trong mùa mưa thường bị ngập úng mà thành phố Hồ Chí
Minh là một ví dụ điển hình.
Cao trình mặt đất ở TP.HCM thay đổI từ + 1,2m đến + 10m, nội thành
thành phố có gần 100km song rạch. Xưa kia mạng lưới song rạch ở đây dày
đặc, đóng vai trò thoát nước cho cả vùng, phục vụ giao lưu buôn bán giữa
Sài Gòn – Gia Định - Chợ Lớn với Đồng Nai, Lục Tỉnh.
Sự phát triển đô thị cùng vớI sự gia tăng dân số ồ ạt trong những năm
vừa qua, dẫn đến việc khai thác mặt bằng không quy hoạch, song rạch như
một bộ phận năng động nhất của thiên nhiên trở thành nơi thuận lợi để con
người trút xuống mọi phế thải. Hậu quả là rác bẩn tích luỹ, kên rạch bồI lấp,
mặt thoáng bị chiếm dụng, dòng chảy cản trở. Trong khi đó, hệ thống tiêu
thoát nước được xây dựng theo kiểu chắp và do lịch sử phát triển của thành
phố, do đó có nhiều tồn tại trong tính toán, xây dựng, quản lý v.v nên
thường cứ đến mùa mưa là nhiều nơi trong thành phố bị ngập úng. Đáng chú
ý là tình trạng ngập úng không những chỉ xảy ra ở những vùng có cao trình
mặt đất tương đối cao, những vùng ở ngay cạnh song, rạch nhận nước tiêu,
do nhiều miệng cống, hố ga bị rác rưởi lầp đầy, và hàng chục nghìn hộ gia
đình xây nhà lấn chiếm lòng kênh.
Việc mợ rộng thành phố trong thờI gian qua theo hướng Nam, mà
công việc đơn giản chỉ là san lấp để có cao trình xây dựng trên mực nước
đỉnh triều, nhưng các vấn đề tiếp theo là đất san lấp lấy ở đâu ra một khối
lượng lớn như vậy, các vùng đất bị san lấp thì môi trường sinh thái của vùng
hoặc của lưu vực đó bị bồI lắng và sẽ nhanh chóng trở thành đầm lầy.


Các công trình nghiên cứu có lien quan đến việc cải tạo tình trạng úng
ngập, ô nhiễm được tiến hành đã nhiều năm ở nhiều cơ quan như sở Giao
thong công chánh, sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện Quy hoạch
TP. HCM, Viện Quy hoạch Bộ Xây dựng, phân viện Khí tượng - Thuỷ văn,
Trung tâm Nước và Bảo vệ môi trường… trong đó, nhiều ý kiến về phương
hướng chung đã thống nhất, nhưng cũng có những vấn đề còn là đề tài tranh
luận.
2. NGUYÊN NHÂN
Có ba nguyên nhân có thể dẫn đến tình trạng ngập úng đô thị nói
chung, và đối với TP.HCM nói riêng:
- Lượng nước cần phải tiêu thoát;
- Hệ thống tiêu thoát nước từ thành phố Hồ Chí Minh và khả năng tiêu thoát;
- Chế độ dòng chảy trên song và kênh rạch.
Ba nguyên nhân trên đều có liên quan chặt chẽ với nhau, nên cần phải
phân tích, tính toán xác định riêng từng nguyên nhân một, cũng như tổ hợp
bất lợi của cả ba nguyên nhân gây ra ngập úng.
2.1 Lượng nước cần tiêu thoát
Lượng nước cần tiêu thoát từ nội thành TP.HCM có hai nguồn gốc:
- Nước mưa;
- Nước thải (bao gồm, nước thải sinh hoạt và nước thải sản xuất).
Theo tính toán sơ bộ thì lượng nước mưa trân trong khu vực nội thành
ứng với tần suất 10% vào khoảng 5 triệu m
3
/ ngày – đêm. Lượng mưa đó sẽ
sản sinh ra 2,6 triệu m
3
dòng chảy mặt (trong điều kiện hiện tại), tương ứng
với lưu lượng bình quân trong thờI gian cấp nước là 31,0m
3
/s.

Lượng nước cung cấp cho sinh hoạt và công nghiệp hiện tạI vào khoảng gần
1 triệu m
3
/ngày – đêm. Có thể ước tính lượng nước xả tương đương vớI
70% lượng nước cấp. Lưu lượng nước thải bình quân khoảng 7,2 m
3
/s. Như
vậy, lưu lượng hình thành từ nước mưa. Điều này cho phép ta có được nhận
thức về quy mô, yêu cầu của hệ thống tiêu nước mưa và nước thải có thể tác
biệt nhau.
Việc tính toán mưa đã có nhiều cơ quan nghiên cứu trong nhiều năm và cũng
đã đạt được những kết quả tốt.
2.2 Hệ thống tiêu thoát nước từ thành phố Hồ Chí Minh và khả
năng tiêu thoát
2.2.1 Hệ thống tiêu thoát
2.2.1.1 Thành phố Hồ Chí Minh hiện có một hệ thống thoát nước
chung cho nước mưa, nước thải sinh hoạt và sản xuất. Nước thải sinh hoạt,
sản xuất đổ trực tiếp vào hệ thống thoát nước không qua xử lý.
Hệ thống thoát nước tính từ nhỏ đến lớn bao gồm:
Các mương tiêu và các đường ống cống ngầm vớI các kích thước từ
20cm đến 150 cm (và lớn hơn).
Có thể phân cống ngầm thành ba cấp: Cấp I, cấp II và cấp III, vớI các
đường kính tương ứng từ < 40cm đốI vớI cấp III – là các cống chính gồm
nước từ cống cấp I và cấp II.
Tổng chiều dài các đường cống theo thống kê năm 1986 (Sở GTCC)
là 661.611m, trong đó:
- Cống có đường kính < 300mm là 200.000m
- Cống có đường kính từ 300 – 600mm là 275.996m
- Cống có đường kính từ 800 mm trở lên là 185.615 m
Toàn thành phố có 169 cửa xả ra kênh rạch trong đó có 91 cửa xả chính có

đường kính > 0,6m. Tới nay, nhiều đoạn cống mới đã được xây dựng thêm,
nhưng không đều, ví dụ khu phía Nam của rạch Nhiêu Lộc - Thị Nghè đã
hình thành một mạng lưới đường cống đầy đủ. Mật độ xây dựng của Quận I
là 170m/ha, của Quận Tân Bình có 32m/ha, Phú Nhuận có 43m/ha, quận
Bình Thạnh mới chỉ có 10m/ha, mạng lướI đường cống chủ yếu tập trung ở
khu trung tâm Quận.
2.2.1.2 Sông và kênh rạch Thành phố tiếp nhận toàn bộ nước thải của
Thành phố.
Trong Thành phố có 4 hệ thống kênh rạch chính:
(1) Tham Lương - Bến Cát, chảy phía Bắc thành phố.
(2) Nhiêu Lộc - Thị Nghè, chảy qua khu trung tâm.
(3) Tân Hoá – Lò Gốm phía Tây Thành phố.
(4) Kênh Đôi – Kênh Tẻ - Tàu Hủ - Bến Nghé, chảy phía Nam Thành
phố.
Tổng chiều dài các kênh rạch là 68km. Nước đổ vào kênh rạch này từ hai
phía: từ trên xuống là nước mưa, nước thải chảy theo chế độ trọng lực và từ
cửa lên theo chế độ thuỷ triều. Hầu hết các kênh rạch đổ nước ra song Sài
Gòn. Một phần rút ra sông Chợ Đệm và rạch Cần Giuộc hoặc xuống các
rạch dọc Cây Khô, Xóm Củi rồi đổ ra sông Nhà Bè.
Sông Sài Gòn chảy qua Thành phố và Bắc xuống Nam trên một chiều
dài 30km, chiều rộng của song thay đổi từ 250 đến 400, độ sâu trung bình từ
14 đến 16km, khối lượng nước tối thiểu về mùa cạn khoảng 120 triệu m3.
Hai con sông Vàm Cỏ ở phía Tây Thành Phố và song Đồng Nai cũng
có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng tiêu thoát nước của hệ thống.
Biển Đông là nguồn tiếp nhận nước thải cuối cùng đồng thời cũng là
nguồn động lực quan trọng tạo nên sự chuyển động của nước và vận chuyển
vật chất, khoảng cách từ biển tới các cửa đổ nước trên song sẽ quy định độ
lớn của nguồn động lực quan trọng đó, và do đó tất cả các cửa xả càng gần
biển, càng có lợi cho việc vận chuyển và pha loãng nước thải (Xem bảng 1)
Bảng 1: Khoảng cách từ biển tới các cửa đổ nước trên sông:


Sông Vị trí Khoảng cách (Km)
Soài Rạp Cửa song (Ngang mũi Long Hoà)
Ngã ba song Soài Rạp – Vàm Cỏ
0
18.5
Nhà Bè Trạm thuỷ văn Nhà Bè
Ngã ba sông Đồng Nai – Sài Gòn
Kênh Tẻ
Rạch Bến Nghé
49.5
52.5
62.5
65.0
Sài Gòn Trạm thuỷ văn Phú An
Rạch Thị Nghè
Kênh Thanh Đa
Thủ Dầu Một
66.0
67.0
82.5
108.0
2.2.2 Về khả năng tiêu thoát nước của hệ thống:
Hệ thống thoát nước được bắt đầu xây dựng từ năm 1890, cho đến nay
đã trải qua nhiều thời kỳ, được bổ sung sửa chữa liên tục vì thế hệ thống này
bị chắp vá đang xuống cấp nghiêm trọng, không bảo đảm cấp nước cho
Thành phố. Theo đánh giá của cơ quan quản lý hệ thống đường cống (Công
ty chiếu sáng thuộc Sở SGTCC), trong tổng số chiều dài các đường cống có
kích thước trên 40 cm trở lên có 30% cần phải phục hồi và nâng cấp, 12%
không đủ thoát gây úng ngập, 40% cần sửa chữa lớn, 18% cần sửa chữa vừa

và nhỏ. Các giếng thu, giếng thăm dò và giếng kỹ thuật trong toàn hệ thống
là 21.530 cái, trong đó 30% bị hư hỏng cần sử chữa lớn, 20% là không bảo
đảm quy cách.
Trong 68km kênh rạch đóng vai trò tiếp nhận, trao đổi và tiêu thoát
nước thì hầu hết đã bị bồi lấp, có khoảng trên 20.000 căn nhà nằm một phần
hoặc toàn bộ trên kênh rạch…, gây ra tình trạng tắc nghẽn dòng chảy; điều
đáng quan tâm là phần lớn các cửa thoát nước ra sông đều nằm dưới mực
nước triều cao. Do đó, trong thời kỳ nước chảy vào trong cống gây nên sự
dồn ứ nước, làm cản trở sự tiêu thoát nước của đường ống.
2.3 Chế độ dòng chảy trong sông và kênh rạch:
Chế độ dòng chảy trong sông và kênh rạch là chế độ dòng chảy hai
chiều, chảy ngược khi triều lên và chảy xuôi khi triều xuống. Chuyển động
hai chiều gây bất lợi cho việc tiêu nước và là nguyên nhân của hiện tượng
dềnh ứ, ngập úng. Tuy nhiên sự chuyển động hai chiều lại làm cường độ sự
xáo trộn của nước trong sông, tạo điều kiện pha loãng nước sông vớI nước
thải từ các cống rãnh của thành phố, tăng khả năng tự làm sạch của sông
vùng ảnh hưởng thuỷ triều.
Do ảnh hưởng của thuỷ triều trên các kênh cụt hoặc các kênh thông
hai đầu có sóng cùng pha, cùng biên độ sẽ hình thành các song dừng, các
vùng giáp nước, tạo nên dòng triều đứng yên. Dòng triều đứng yên là một
trong những cản trở lớn nhất gây úng ngập.
Chế độ dòng chảy trong khu vực còn chịu ảnh hưởng của các công
trình phía thượng du. Công trình Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn bắt đầu hoạt
động từ năm 1984, công trình thuỷ điện Trị An trên sông Đồng Nai bắt đầu
hoạt động từ 1988. Như vậy, chế độ mực nước và lưu lượng tự nhiên ở phía
hạ du sau công trình được thay thế bằng chế độ điều tiết. Nhìn chung trong
thời kỳ công trình tích nước, lưu lượng điều tiết sẽ nhỏ hơn lưu lượng tự
nhiên trước đây, nên ảnh hưởng của nguồn cũng sẽ nhỏ theo, và do đó ảnh
hưởng của thuỷ triều sẽ mạnh lên. Ngược lại, trong thời kỳ kho cấp nước,
lưu lượng điều tiết lớn hơn lưu lượng tự nhiên, nên ảnh hưởng của thuỷ triều

sẽ yếu đi. Trong nguyên nhân dù là trực tiếp hay gián tiếp gây ra ngập úng
cho Thành Phố Hồ Chí Minh, khi xét không thể chỉ xét một cách riêng rẽ
được, chính vì thế mà bài toán tiêu thoát nước trở nên vô cùng phức tạp.
Trong ba nguyên nhân đó, thử tìm ra một nguyên nhân chính – nguyên nhân
chi phối tới hai nguyên nhân còn lại – là một việc làm rất cần thiết. Theo
nhận thức của chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu chi phốI vấn đề tiêu thoát
nước của các đô thị vùng ảnh hưởng thuỷe triều là quy luật và diễn biến của
thuỷ triều trong sông và cao trình mặt đất tiêu nước xấp xỉ cao trình đỉnh
triều. Vấn đề này đã không giải quyết một cách thoả đáng trong quá trình
xác lập xây dựng đô thị, đặc biệt là quá trình đô thị hoá, mở rộng các khu
dân cư, khu công nghiệp… trong khi chưa xây dựng đồng bộ với hệ thống
thoát nước. Hiện tượng san lấp ao hồ, vùng trũng một cách tuỳ tiện để lấy ao
hồ, vùng trũng một cách tuỳ tiện để lấy mặt bằng xây dựng cũng là nguyên
nhân làm tăng khả năng ngập úng vì các ao hồ, vùng trũng là các đơn vị địa
mạo có khả năng điều hoà nước mưa. Đem chắp nối các đường cống tiêu
nước mới vào hệ thống tiêu nước cũ một cách tuỳ tiện, sẽ càng làm cho hệ
thống tiêu thoát nước cũ trở nên quá tải, tất nhiên cũng sẽ làm tăng mức độ
ngập đô thị.
3. PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT
3.1 Biện pháp công trình
Tiêu nước trong các vùng đô thị chịu ảnh hưởng thuỷ triều mà cao
trình mặt đất thấp hơn mức nước đỉnh triều thì cần có đê bao để ngăn triều,
và cần duy trì một diện tích ngập nước nhất định trong vùng (ao, hồ, sông,
rạch v.v ) để tạo điều kiện trao đổi nước giữa trong và ngoài vùng, qua đó
môi trường sinh thái ít bị biến động. Mặt khác các ao, hồ, sông, rạch này giữ
một vai trò to lớn trong điều hoà nước mưa trong quá trình tiêu nước ở vùng
đô thị chịu ảnh hưởng của thuỷ triều.
3.2 Tính toán quy mô hệ thống tiêu nước
Tính toán tiêu nước mưa các đô thị thường dung phương pháp cường
độ giới hạn của Gorbachep trong đó thời gian tính toán mưa:

t = t
0
+ t
r
+ t
c
Trong đó:
t
0
- thời gian tập trung nước mưa từ điểm xa nhất đến rãnh thoát nước
– còn gọi là thời gian trung bề mặt, nó phụ thuộc kích thước địa hình của lưu
vực, cường độ mưa và loại mặt phủ, lấy nước từ 5 đến 10 phút;
t
r
- thờI gian nước chảy trong rãnh đến giếng thu gần nhất;
t
r
= 1,25 x l
r
/ v
r
l
r
– chiều dài của rãnh (m);
v
r
- vận tốc nước chảy trong rãnh, m/phút;
1,25 - hệ số tính đến khả năng tăng tốc độ dòng chảy trong quá trình
mưa;
t

c
- thời gian nước chảy trong cống từ giếng thu đến tiết diện tính toán;
t
c
= r x l
c
/ v
c
t
c
- chiều dài đoạn cống tính toán; v
c
- Tốc độ nước chảy trong cống; r
- hệ số, lấy phụ thuộc vào địa hình: khi địa hình bằng phẳng r = 2, khi địa
hình dốc I > 0,03 thì r = 1,2.
Theo L.T. Abramov:
T0 = 1.5.n
0.6
.1
0.6
/ Z
0.3
.i
0.5
. I
0.3
Z: hệ số mặt phủ
N: hệ số nhám của bề mặt
I: độ dốc bề mặt tập trung nước mưa
L: chiều dài đường dòng nước (m)

I: cường độ mưa (mm/ phút)
I = h / t
h: chiều cao lớp nước mưa
t: thời gian mưa.
Công thức trên áp dụng cho các bề mặt tập trung nước mưa đã được
san nền, không có rãnh luống.
Khi tính toán sơ bộ:
t
0
= 10 phút bên trong tiểu khu không có hệ thống thoát nước mưa
t
0
= 5 phút nếu bên trong tiểu khu có hệ thống thoát nước mưa.
Nếu ta xem tiết diện tính toán của hệ thống tiêu nước vùng ảnh hưởng
thuỷ triều tại cửa xả và áp dụng theo phương pháp cường độ giới hạn trong
tính toán mưa tiêu của P.F.Gorbachep thì thời gian tiêu nước T = 2t và giả
thiết thời gian triều cho phép tiêu là t
tr
; t
tr
phụ thuộc điều kiện thuỷ triều, nếu
bán nhật triều thì t
tr
bé, nếu nhật triều thì t
tr
lớn. Trong tính toán tiêu nước đô
thị chỉ được phép tiêu hết nước trong một chu kỳ triều.
2t ≤ t
tr
hoặc

2(t
0
+ 1,25. l
r
/ v
r
+rl
c
) ≤ t
tr
Và giả thiết v
r
= k x v
c
Với K < 1 ta có:
L
c
≤ [(t
tr
– t
0
/2). k.v
c
– 1,25.l
r
] / kr
Trong đó l
r
được xác định do bố trí khu dân cư, đường giao thông và được
tính toán sao cho không bị ngập đường, ngập khu dân cư.

Từ công thức trên sẽ xác định được l
c’
tức là quy mộ hệ thống tiêu
nước. Quy mô hệ thống tiêu nước liên quan chặt chẽ tới độ sâu đặt cống, cao
trình cửa xả v.v…
4. CÁC TRƯỜNG HỢP TÍNH TOÁN TIÊU NƯỚC:
Theo phương pháp cường độ giới hạn tính toán mưa tiêu, thì giọt mưa
rơi đầu tiên tại vị trí bất lợi của vùng tiêu (lưu vực) về tới cửa xả thì hết mưa
và lúc này lượng dòng chảy tại cửa xả là lớn nhất và gọi là Q
max
. Lượng
dòng chảy này có tiêu được hay không phụ thuộc vào thuỷ triều tại cửa xả
trong thời điểm đó, ta có thể xét các vị trí điển hình.













(Hình 1; hình 2; hình 3; hình 4)
Trong các hình trên:
a: đường quá trình triều theo thờI gian tạI cửa xả
b: đường quá trình mưa tạI cửa xả

Trường hợp 1: Hình 1 trời bắt đầu mưa thì thuỷ triều xuống tới cao
trình cho phép cửa xả tiêu nước tự chảy đến khi triều lên tới một cao trình
nào đó thì cử xả không có khả năng tiêu tự chảy, nhưng lúc này hệ thống đã
tiêu hết nước, trường hợp này hệ thống tiêu chỉ có nhiệm vụ thu và vận
chuyển nước mưa ra khỏi vùng tiêu nước.
Trường hợp 2: hình 2 triều xuống tới mức thấp nhất thì trời bắt đầu
mưa và khi triều vừa lên tới cao trình mà cửa xả không có khả năng tiêu tự
chảy thì mưa đạt tới Q
max
lúc này hệ thống tiêu ngoài nhiệm vụ thu và vận
chuyển còn phải điều tiết nước đảm bảo cho vùng tiêu không bị ngập úng.
Trường hợp 3: hình 3 triều lên đến cao trình mà cửa xả không có khả
năng tiêu tự chảy thì trời bắt đầu mưa và khi đạt tới đỉnh triều thì tại cửa xả
cũng có Q
max
trường hợp này hệ thống phải điều tiết (trữ) một lượng nước
lớn hơn trường hợp 2.
Trường hợp 4: hình 4 trời bắt đầu mưa thì triều đạt tới đỉnh, trường
hợp này hệ thống phảI điều tiết một lượng nước nhỏ hơn trường hợp 3.
Nếu tính toán chi tiết thì còn nhiều trường hợp nữa, song ta thấy
trường hợp 1 là thuận lợi nhất, và trường hợp 3 là bất lợi nhất, và nếu tính
toán l
c
như công thức trên trong trường hợp bán nhật triều thì quy mô hệ
thống thường không đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Vì vậy, trong hệ thống tiêu
nước vùng ảnh hưởng thuỷ triều cần giải quyết theo một trong các phương
pháp sau:
a. Công trình điềutiết
Các công trình đó là ao, hồ, vùng, trũng, sông rạch như đã nêu trong
mục biện pháp công trình hoặc là trong hệ thống thu và dẫn nước phải có

dung tích điều tiết lại cửa xả các hồ này chỉ làm việc trong mùa mưa bằng hệ
thống ngăn triều và cửa tự động tiêu nước theo triều.
Dung tích điều tiết an toàn nhất tính theo trường hợp 3.
W
max
= Q
max
x t – W
c
Q
max
= q x F x Ψ x η
q: cường độ mưa l/s x ha
q = [20
n
q
20
(1+ c1
g
p)] / t
n
(Theo Liên Xô)
n, c: phụ thuộc đặc điểm khí hậu của từng vùng
Q
20
: cường độ mưa trong khoảng thời gian 20 phút với chu kỳ lặp lại
một lần trong một năm (đây là đại lượng không đổi trong vùng đã biết).
P: chu kỳ lặp lại trận mưa tính toán chính bằng khoảng thời gian xuất
hiện một trận mưa vượt quá cường độ tính toán (năm)
t: thời gian mưa tính toán (phút)

Theo I.A. Karenlin và Trần Hữu Uyển:
Q = [35
n
q
20
(1 + c1
g
p)] / (t + 15)
15
Hoặc theo Trần Việt Liền:
Q = [(20 + b)
n
. q
20
] / (t +b)
n
Các thông số b, c, n, c, q
20
lấy theo tài liệu của viện Khí tượng thuỷ
văn năm 1979 với số liệu của 47 trạm đo mưa của Việt Nam.
F: diện tích lưu vực thoát nước mưa (ha)
F = π R2 / 2 x 10.000
R = lc + lr +b
B: chiều rộng giảI tiêu nước
Ψ: hệ số dòng chảy
Ψ = qc / qn = Ztb x q 0.2 x t 0.1
hoặc
Ψ
tb
= aΨ’ + bΨ’’ + cΨ’’’ + …/ a + b + c

q
r’
, q
c
: lượng nước mưa rơi trên diện tích một ha và lượng nước mưa
chảy vào mạng lướI thoát nước mưa từ một ha ấy.
Z
tb
: hệ số mặt phủ trung bình của toàn lưu vực.
Q: cường độ mưa l/s.ha
t: thời gian mưa (phút)
a,b,c: diện tích mặt phủ thành phần %
Ψ’,Ψ’’,Ψ’’’… hệ số dòng chảy đối với các loại mặt phủ thành phần
η: hệ số mưa không đồng đều (hệ số phân bố mưa)
η = qtb/ qmax
q
tb
: cường độ mưa trung bình trên toàn diện tích thoát mưa
Qmax: cường độ mưa lớn nhất (xa nhất) tại một điểm nào đó thuộc
diện tích thoát nước mưa.
W
c
: dung tích của hệ thống cống.
Trong vùng tính toán tiêu nước không có điều kiện để xây dựng công
trình điều tiết thì ngoài cửa xả để tiêu nước càn xây dựng trạm bơm hỗ trợ để
bơm nước khi trờI mưa lớn gặp triều cao. Trường hợp này lượng nước cần
bơm là W
max
tính như trên còn cột nước phụ thuộc vào thuỷ triều, mực nước
cần tiêu của hệ thống.

b. Vạch tuyến mạng lưới
Việc vạch tuyến mạng lưới dựa theo nguyên tắc sau:
1. Hết sức lợi dụng địa hình đặt cống theo chiều nước tự chảy từ phía
đất cao đến phía đất thấp của lưu vực thoát nước, bảo đảm lượng nước thải
lớn nhất tự chảy theo cống, tránh đào đắp nhiều, tránh đặt nhiều trạm bơm
lãng phí.
2. Đặt cống thật hợp lý để tổng chiều dài của cống là nhỏ nhất, tránh
trường hợp nước chảy vòng co và cống đặt sâu.
- Phục thuộc vào địa hình mặt đất và biện pháp thi công mà người ta
vạch tuyến mạng lưới đường phố theo các sơ đồ sau:
- Sơ đồ hộp, khi cống đặt dọc theo đường giao thông bao bọc khu phố
5. NHẬN XÉT
1. Tiêu nước đô thị vùng triều cần được thực hiện một cách đồng bộ
từ quy hoạch, tính toán thiết kế, xây dựng và quản lý vận hành, dựa trên cơ
sở sử dụng quy luật thuỷ triều để tiêu tự chảy.
2. Ứng dụng kết quả nghiên cứu tiêu nước cho các đô thị vùng ảnh
hưởng thuỷ triều vào công tác xây dựng trên đất ngập triều không những giải
quyết tiêu tự chảy theo triều mà còn hạn chế được sự suy thoái môi trường
sinh thái của vùng.
3. Những sự tính toán trên được tiến hành một cách chi tiết bởi một
chương trình điện toán kết hợp với các biện pháp công trình tự động vùng
triều cho phép giải quyết hợp lý việc tiêu nước của đô thị trong vành ảnh
hưởng thuỷ triều.
4. Vấn đề cải tạo ô nhiễm môi trường và xử lý ô nhiễm thực sự là một
vấn đề khó khăn, nó là biện pháp công nghệ đòi hỏi phải có những nghiên
cứu sâu hơn.
THE METROPOLITAN DRAINAGE TIDE – AFFECTED AREAS
NGUYEN QUANG CAU
The report mentions city drainage based on studying tidal influence to
design, build and operate self drainage dependent on tidal patterns. The

author also the raises the issues of treatment and improvement of pollution
caused by drainage.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quy hoạch tiêu nước Thành Phố Hồ Chí Minh, Sở Nông Nghiệp,
1988.
2. Phương hướng cải tạo kênh rạch Thành phố Hồ Chí Minh - Viện Thiết
Kế - Xây dựng - Bộ xây dựng.
3. Trần Hiếu Nhuê, Trần Đức Hạ… cấp thoát nước – NXB Khoa học kỹ
thuật, Hà Nội, 1996.
4. Hoàng Huệ - Phan Đình Bưởi: Mạng ly thoát nước – NXB Xây dựng,
Hà NộI, 1996.



















×