Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Giới thiệu chùa Phù Dung ( Hà Tiên) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.82 KB, 11 trang )

Giới thiệu chùa Phù Dung ( Hà Tiên)
Bùi Thụy Đào Nguyên
Chùa Phù Dung hiện nay tọa lạc tại chân núi Bình San, phường
Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Địa điểm hành hương & du lịch này hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp
cổ kính, hài hòa với thiên nhiên mà còn bởi những câu chuyện bí
ẩn gây tranh cải về lai lịch ngôi chùa.

Giải thích tên Phù Dung
Theo sách “Nghiên cứu Hà Tiên”(1), người Xiêm gọi núi là “Pù”;
các người Xiêm, Khmer, Chăm, Lào đều gọi người Việt là “Youn”.
Như vậy, ''Pù Youn'', mà sau này đọc trại thành Phù Dung, có
nghĩa là “vùng núi của người Việt”.
Ở bán đảo Hà Tiên, có rất nhiều đồi núi lớn nhỏ, mang tên chung
là ''Phù Dung Vạn Sơn'', mãi đến thời Đô đốc Mạc Thiên Tứ, các
ngọn núi mới có tên riêng bằng từ Hán - Việt, như: ''Bình San, Tô
Châu, Thạch Động''
Và cái tên Phù Dung (Pù Youn) mà khi xưa dùng để tất cả các núi
non vừa nói trên, chỉ còn được dùng để chỉ một ngọn núi cao 58 m,
mà Trịnh Hoài Đức đã chép trong “Gia Định thành thông chí”:
“Núi Phù Dung: cách trấn thự về phía tây bắc hơn 1 dặm. Ở đây
hang hố xanh rậm lâu đời; chùa Phù Dung ở phía tây nam chân
núi, tiếng chuông mõ pha trộn, tiếng kệ kinh lẫn tiếng ồn ào của
phố thị, thật là cảnh nửa tăng nửa tục ”.
Do vậy, tác giả sách ''Nghiên cứu Hà Tiên'', đã nói vui rằng tên
chùa không có nghĩa “hoa sen” (2) hay giống hoa “tí ngọ” nào đó,
như có người đã tưởng tượng.

Chùa Phù Dung
Căn cứ thông tin trong ''Gia Định thành thông chí'', trong
''Monogaphie de la povince de Ha Tiên'' tức ''Hà Tiên địa phương


chí'' của Hội nghiên cứu Đông Dương ấn hành năm 1901 và qua
khảo sát thực tế, thì chùa Phù Dung xưa ở tại hướng Tây Nam núi
Phù Dung, còn chùa Phù Dung hiện nay tại phía bắc núi Bình san,
cách chùa xưa trên 500m.
Vì trước sau ở Hà Tiên, có hai chùa đều mang tên Phù Dung, và
ngôi thờ nào tính đến nay cũng đều là cổ tự. Để dễ phân biệt, tạm
gọi chùa có trước là “Phù Dung (cũ)” và chùa có sau là “Phù Dung
(mới)”.
Chùa Phù Dung (cũ)
Núi Phù Dung mà ''Gia Định thành thông chí'' đã chép trên, ngày
nay có tên là núi Đề Liêm hay Bát Giác Sơn, còn ngôi chùa vừa
nói đến, hiện nay chỉ còn một nền chùa và một ngôi tháp cổ của
Hòa thượng Ấn Đàm, đời thứ 36 dòng Lâm Tế.
Tra sử liệu, thì từ khoảng năm 1820 - tức năm có sách “Gia Định
thành thông chí” - trở về sau, trấn Hà Tiên đã trải qua ba cuộc tao
loạn lớn, đó là:
- Năm Quý Tỵ (1833): Năm Minh Mạng thứ 14 (1833) có biến Lê
Văn Khôi, tỉnh thành (Hà Tiên) thất thủ, bị quân Xiêm xâm lăng
dày đạp, có đại binh tấn tiễu mới dẹp được.
- Năm Nhâm Dần (1842): Thiệu Trị năm thứ hai, 1842, tháng hai,
Xiêm lại chia đường vào cướp phá, một do tỉnh Hà Tiên, một do
kênh Vĩnh Tế. Vua sai Đoàn Văn Sách tiến theo đường thủy, Phạm
văn Điển tiến theo đường bộ, hai đường cùng tiến đánh lui giặc
Xiêm…
- Năm Ất Tỵ (1845): Thiệu Trị năm thứ 5, tướng Xiêm Chất Tri sai
tên Na lập kế để bắt Nguyễn Bá Hựu giam lại. Viên thổ mục Cao
Mên tên Liêm Đột, thân hành đến An Giang xin binh. Vua bèn sai
Tổng đốc An Hà là Doãn Uẩn, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Công
Hoan, chia đường đi tiếp viện và trừ giặc…
Tuy nhiên, các nguồn đều không ghi chép chùa Phù Dung bị biến

thành đống gạch vụn từ lúc nào, chỉ biết khi Tổng đốc Doãn Uẩn
đến Hà Tiên vào một đêm thu năm 1845, ông đã trông thấy Thụ
Đức Hiên (theo Trương Minh Đạt, người Hà Tiên, tác giả Nghiên
cứu Hà Tiên, thì Thụ Đức Hiên chính là thư phòng của Mạc Thiên
Tứ và cũng là nơi sinh hoạt của Tao đàn Chiêu Anh Các) bị đổ nát
khá nhiều vì nạn đao binh.
Chùa Phù Dung (mới)
Cũng theo nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt, thì chùa Phù Dung
ấy bị quân Xiêm phá sập trong khoảng năm 1833-1834. Sau này,
khi đánh đuổi quân Xiêm, Tổng đốc An Hà là Doãn Uẩn cho cất
lại ngôi chùa khác vào năm 1846 (3) tại địa điểm khác, ở đầu bắc
núi Bình San, trên nền nhà xưa kia có Tao đàn Chiêu Anh Các, và
ông đã đặt tên chùa là Phù Anh (ghép từ hai chữ Phù Dung và
Chiêu Anh Các)
Thời vua Thiệu Trị, ''Đại Nam nhất thống chí, phần Lục tỉnh Nam
Việt'' chép tên chùa là ''Phù Cừ'' (4) vì cái tên “Dung” phạm úy tên
của vua Thiệu Trị. Và theo thi sĩ Đông Hồ thì “Phù cừ hay Phù
dung cũng đều là tên đẹp của giống hoa sen cả, hoặc có khác nhau
là màu trắng với màu hồng.” (4). Tuy vậy, cái tên Phù Anh rất có
thể vẫn còn được sử dụng ở đâu đó, cho nên khi vua Tự Đức mất
(1883), triều thần dâng miếu hiệu là ''Dực Tôn Anh Hoàng Đế'' thì
tháng 6 năm sau (1884), vua Kiến Phúc ban hành lệnh kiêng húy,
người dân lại phải nói trại chùa Phù Anh là "chùa am".
Trích ''Đại Nam nhất thống chí'':
Chùa Phù Cừ ở chân núi Phù Cừ, xã Mỹ Đức huyện Hà Châu, do
Mạc Thiên Tứ lập ra khi trước, năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), nhân
dân tỉnh hạt xây sửa lợp ngói, trước sân đào giếng, theo núi dựng
nhà…'' (Nguyên văn: “Phù Cừ tự, tại Mỹ Đức xã địa, Phù Cừ sơn
lộc, Tích Mạc Thiên Tứ cấu tạo, Thiệu Trị lục niên, tỉnh hạt nhân
dân dinh trúc ngỏa vũ, y sơn thiết vũ, tiền đình tạc trì '' Đại nam

nhất thống chí'' tập 5, Nxb KHXH, Hà Nội, 1971, tr. 29.)
Nhưng theo ông Đạt, người dịch đã dịch sai mấy chữ trong câu chữ
Hán “Tích Mạc Thiên Tích cấu tạo”, lẽ ra có thể dịch là “Công
trình tạo dựng xưa của Mạc Thiên Tích” (ý nói cái nền cũ của
Chiêu Anh Các). Và rất có thể từ câu chuyện dịch sai ấy nên mới
có chuyện Mạc Thiên Tứ lập chùa. ''Mạc Thị gia phả'' của Vũ Thế
Dinh chỉ ghi chuyện ông Tứ lập Tao đàn Chiêu Anh Các và nơi thờ
Khổng Tử mà thôi.
Nói gọn lại, cái tên Phù Anh, Phù Cừ, trước sau vẫn chưa được
phổ biến, cho nên cái tên Phù Dung của ngôi chùa xưa vẫn được
người dân dùng để gọi ngôi chùa mới.
Kiến trúc chùa Phù Dung (mới)
Trải qua bao biến đổi, giờ đây trên nền đất cao ráo nơi chân núi
Bình san, là một tự viện khá khang trang gồm một phần sân và hai
phần thờ cách biệt.
Phần sân có một đài cao. Trên đài là một pho tượng Phật Quan Thế
Âm cao lớn bằng xi măng, tô trắng. Kế đến là ngôi Chính điện
rộng được bài trí trang nghiêm. Chính giữa là tượng Thích-ca
Mâu-ni, 2 bên là 2 đại đệ tử A-nan và Ca-diếp. Ở đây còn có 4 bức
phù điêu lớn (mỗi tấm cao 1,3m, ngang 2,3m) minh họa 4 cảnh
trong cuộc đời đức Phật Thích-ca Mâu-ni: đản sanh, xuất gia,
thuyết pháp và nhập niết-bàn.
Sau lưng ngôi Chính điện là một khoảng sân nhỏ, sau nữa là một
tòa điện cao có tên gọi ''Ngọc Hoàng bửu điện'', thờ Ngọc Hoàng
Thượng đế cùng hai vị Nam Tào và Bắc Đẩu.
Một phần do thời gian tàn phá, một phần do ở nơi biên cảnh
thường gặp nhiều bất ổn, nên chùa đã phải trùng tu nhiều lần.
Đặc biệt, đứng ngoài nhìn vào, phía bên trái tự viện có một lối đi
nhỏ men theo triền núi. Đi khoảng 20m, sẽ gặp một ngôi mộ cổ.
Trên bia mộ có mấy dòng chữ Hán:

Hoàng Việt
Hiển tỷ Từ Thành Thục nhân Mạc phủ Nguyễn thị chi mộ.
Dòng chữ bên trái bia:
Nam Chú lập thạch.
Dòng chữ bên phải bia:
Long phi Tân Tỵ (tức 1761) trọng xuân kiết đán.
Bên cạnh mộ, có một tấm bia đá khắc mấy dòng chữ Việt do người
đời sau tạo dựng, ghi: “Lăng bà Phù Dung-Từ Thành Thục Nhơn-
Nguyễn Thị Xuân (1720-1761)- Viên tịch rằm tháng 2 Âl- Hiệu
Phù Cừ”.(6)
Chuyện tình Phù Dung
Theo sách Nghiên cứu Hà Tiên
Từ ''Monogaphie de la povince de Ha Tiên'' cho đến đời Tỉnh
trưởng Hà Tiên Lê Văn An và Nguyễn Văn Hải (1951), đều không
thấy chép chuyện.
Mãi đến ngày 5 tháng 3 năm 1957, tác giả Trần Thêm Trung cho ra
đời cuốn ''Hà Tiên địa phương chí'' mới thấy sách ghi chuyện này.
Tiếp theo, năm 1958, nhà văn Sơn Nam viết ''Hà Tiên đất phương
Thành'' đang ở báo Nhân Loại, nữ sĩ Mộng Tuyết viết ''Nàng Ái cơ
trong chậu úp'', thi sĩ Đông Hồ nhắc lại chuyện trong ''Văn học Hà
Tiên'', soạn giả kiêm nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà viết tuồng cải
lương ''Áo cưới trước cổng chùa'', tác giả Mặc Tuyền chuyển kịch
bản thành tiểu thuyết (1989), mới nhất là nhà văn Anh Động viết
''Chuyện tình Chiêu Anh Các'', tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên tạp
chí Chiêu Anh Các của Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh Kiên
Giang
Trong ngần ấy tác phẩm và trong chuyện kể, nhân vật nữ này có
rất nhiều tên, chẳng hạn: Phù Dung, Phù Cừ, Xuân Tự, Nguyễn
Thị Xuân, Dì Tự. (7)
Và theo ''Nghiên cứu Hà Tiên'' của Trương Minh Đạt thì: “rõ ràng

bia mộ này ghi đủ các chi tiết của một người trần tục, tức có tên
họ, phẩm vị, nơi làm vợ, con cái Bia và mộ này không giống bia
và mộ của một người tu hành. Vả lại, ngôi chùa Phù Dung (mới)
chỉ mới được tạo lập vào năm 1846, tức sau khi “Từ Thành Thục
nhân” chết đã 85 năm. Người trụ trì đầu tiên của chùa là Hòa
thượng Tiên Giác Bửu Châu, nay còn tháp và bài vị thờ ở chùa. (8)
Và ông Đạt cũng cho biết nữ sĩ Mộng Tuyết, vợ thi sĩ Đông Hồ,
sáng tác chuyện ''Nàng ái cơ trong chậu úp'', dựa theo một giai
thoại nhàn đàm, mà nhà văn Sơn Nam đã xác nhận: “Sư trụ trì
chùa Phù Dung kể, năm 1958”. ấy là Sư ông Kiểu Ngọc (Thượng
Phước Hạ Quang), trụ trì ở đây từ 1951 đến 1964. Khi còn sinh
tiền, ông Trần Thiêm Trung cũng nói đã nghe vị sư này kể. Các vị
sư vốn giỏi chữ Hán, nên nghe chuyện, ai cũng ngỡ là có sách,
nhưng rõ ra chỉ là sự suy diễn từ hình dạng mộ bà Dì Tự, gần sau
chùa, có núm xây hình tròn như chậu úp. Sư kể: “Khi sống bà bị
nhốt, đến chết mộ xây vậy”. Sự suy diễn này, sau được triển khai
thành câu chuyện khá thương tâm.
Nói gọn, theo ông Đạt, câu chuyện Phù Cừ chỉ là tư duy sáng tác
văn học của nữ sĩ Mộng Tuyết và đây chính là "một trường hợp
"lộng giả thành chân" trong nghiên cứu lịch sử…
Theo truyền thuyết
Theo câu chuyện kể được truyền tụng bấy lâu nay thì chùa do Đô
đốc Mạc Thiên Tứ (1706-1780) sai dựng vào khoảng cuối thế kỷ
18 cho nàng thứ cơ tên '''Phù Cừ''' (1720-1761) làm nơi tu hành.
Tương truyền thứ cơ '''Phù Cừ''' tên thật là '''Nguyễn Thị Xuân''',
thứ nữ của một di thần nhà Lê tên Nguyễn Đình, Khi nhà Mạc lên
thay nhà Lê, ông cùng hai con vào cư ngụ tại Hà Tiên. Con trai tên
Nguyễn Đính, giỏi kiếm thuật, ra giúp họ Mạc; còn em gái, giỏi
thơ văn, gá nghĩa cùng Mạc Thiên Tứ, sau cuộc gặp gỡ tại tao đàn
Chiêu Anh Các.

Và chùa Phù Dung gắn liền với sự tích của người nằm trong ngôi
mộ cổ vừa nói trên. Tuy lời thuật của mỗi người có ít nhiều khác
biệt, nhưng cốt truyện vẫn khá giống nhau.
Thi sĩ Đông Hồ kể:
“Cảnh am tự này, ngôi mộ cổ này, ao sen này có một sự tích khá
lâm ly…
Truyền rằng: Mạc Lịnh Công (người kể chuyện kiêng húy, không
dám gọi tên Mạc Thiên Tứ, nên gọi là Mạc Lịnh Công, Mạc Công
hoặc chỉ là Công.) có một bà thứ cơ tên là bà Dì Tự. Thứ cơ sắc
đẹp lắm và hay chữ lắm.''
Mạc Lịnh Công, vì mê sắc đẹp, yêu tài thơ, đã từ chỗ sủng ái mà ra
thiên ái. Hóa cho nên, khiến bà chính thất Nguyễn phu nhân ghen
giận, lập mưu hãm hại bà thứ cơ.
Một hôm, nhân Mạc Lịnh Công đi duyệt binh vắng, ở nhà, Nguyễn
phu nhân (tức Thái phu nhân Nguyễn Hiếu Túc. Hiện mộ phần của
bà ở trong khu mộ dòng họ Mạc tại lưng chừng núi Bình San, Hà
Tiên.) đem nhốt thứ cơ vào lòng một cái chậu úp, cho ngột mà
chết. Nhưng thừa ưa (có nghĩa tình cơ, bất thình lình), vừa lúc đó,
trời bỗng đổ trận mưa to. Mạc Công cũng vừa về đến, thấy trời
đang mưa, mà lạ, sao chậu to không ngửa lên hứng nước mà lại để
úp. Công bèn truyền lịnh giở chậu ra, thì nàng ái cơ đang thi thóp
sắp đứt hơi, nhưng may mắn thay, hãy còn cứu kịp.
Nàng thứ cơ thoát chết, trở nên chán chường sự thế, xin Mạc Công
cho nàng đi tu. Trước sự tình éo le đó, Mạc Công không biết làm
sao khác, cũng đành chiều ý, cất một ngôi am tự cho thứ cơ tu
hành.
Bên am tự, cho đào ao, trồng hoa sen trắng, để kỷ niệm mối tình
xưa. Cho đến khi thứ cơ mất, Công cho xây ngôi mộ kiên cố đẹp
đẽ để tỏ lòng tưởng nhớ yêu thương người giai nhân đã vì Công
mà oan khổ ”

Nguồn cảm hứng cho thơ
Câu chuyện tình chóng tan lìa này, là nguồn cảm hứng cho truyện,
tuồng và thơ.
Trích giới thiệu:
Ngó lên Am tự Phù Cừ
Thương cho người ngọc giã từ lầu son
Về đây nương chốn thiền môn
Tay lần chuỗi hạt cho mòn ngày xanh.
Duyên xưa chẳng bận chi tình
Bụi trần chi để vương cành hoa sen.
Nước trong chẳng lựa đánh phèn
Cửa thiền thanh tịch, não phiền sạch không.
(Tác giả: Khuyết danh. Chép trong ''Nàng Ái Cơ trong chậu úp''
của nữ sĩ Mộng Tuyết, Nxb Văn hóa, 1996, tr. 120)
Và: “Chuyện tình chùa Phù Dung”
Ai ngày xưa chiều chiều
Dừng cương bên sườn dốc
Dõi bóng hình người ngọc
Mắt nhìn lòng rưng rưng.

Ngày xưa ai dâng hương
Bước nương thềm điện ngọc
Thổn thức thắt se lòng
Nghe vời xa tiếng nhạc

…Ôi! Con người kỳ lạ
Tình yêu và nỗi đau
Và tình yêu thật lạ
Năm tháng chẳng phai màu (Hà Văn Thùy, sáng tác năm 1982,
trích trong tập ''Thời gian gom lại'', Hội Văn nghệ và Thông tin

Văn hóa Kiên Giang)
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn.
Long Xuyên, tháng 2 năm 2008.

Chú thích:
(1) Nghiên cứu Hà Tiên'' của Trương Minh Đạt. Sách do Nxb Trẻ
và tạp chí Xưa & Nay cùng ấn hành, 2008.

(2)Thi sĩ Đông Hồ và nữ sĩ Mộng Tuyết cho rằng Phù dung ở đây
là loài sen hồng tức thủy phù dung, tên khoa học là Nelumbo
nucifera. Có người, có thể vì thương cảm cho câu chuyện tình
buồn thảm và chóng tan giữa Mạc Công và nàng "ái Cơ", nên thích
hiểu tên chùa theo nghĩa của một loài hoa “sớm nở tối tàn”, tức
Chi Dâm bụt (Chi Phù Dung). Đây là loài thân mộc, có tên khoa
học là Hibiscus mutabilis. Thực tế, hoa phù dung giống hoa dâm
bụt, nhưng chỉ có hoa phù dung mới có khả năng đổi màu. Hoa
mới nở màu trắng, đến gần trưa chuyển sang hồng, tới chiều thì có
màu đỏ (do anthrocyan bị oxy hoá dần khi tiếp xúc với không khí).
Có thể vì đặc tính chóng đổi thay màu nên hoa có tên phù dung.

(3) Cùng năm này, Tổng đốc Doãn Uẩn cũng cho xây cất Đền thờ
họ Mạc (Mạc Công miếu), nhưng ở nơi mới, tức không còn ở trong
thành, gần ''chùa Tam Bảo'' nữa, mà dời đến chân núi ''Bình San''
(hay Núi Lăng), gần khu mộ dòng họ Mạc, cho đến hôm nay.

(4) Đại nam nhất thống chí'' chép theo sách ''Hoàn Vũ ký văn -
Thiên Nam dư địa khảo''. Sách ra đời năm Thiệu Trị thứ 7 (1847)
do Tĩnh Sơn Nguyễn Thu soạn. Ông là người xã Hương Khê (nay
thuộc huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa). Trước tên Nguyễn Bảo
sau đổi là Nguyễn Thu, đậu thi Hương năm Minh Mạng thứ 2

(1821) tại trường Thanh Hoa (Thanh Hóa), làm quan đến chức Thị
Lang, được sung đi sứ Trung Quốc.

(5) Trích bài Đề tựa trong sách ''Nàng ái cơ trong chậu úp'' của
Mộng Tuyết (Nxb Văn hóa, 1996, tr. 9)

(6) Vị phu nhân này là vợ của ai trong dòng họ Mạc, và vì sao
không được an táng trong khu mộ của dòng họ ấy, vẫn là câu hỏi
chưa có lời giải.
(7) Thi sĩ Đông Hồ giải thích: Bà dì có nghĩa bà thứ. “bà Dì ở Am
Tự”, nói gọn là “bà Dì Tự”.

(8) Hiện ở chùa có năm bài vị của các sư trụ trì từ khi có chùa cho
đến nay, không có ai là nhân vật đang nói đến. Cách đây vài năm,
vì một lý do nào đó một bàn thờ mới được lập ra, nói là bàn thờ bà
Dì Tự. Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt nói bàn thờ này không
có giá trị cổ tích, ngành chức năng cần nên xem xét lại

LAST_UPDATED2

×