Đạo đức cách mạng trong tư tưởng hồ chí minh
Gần 40 năm đã qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản "Di chúc" căn dặn toàn Đảng, toàn
dân và thế hệ trẻ những điều hệ trọng, những việc cần phải làm vì sự nghiệp cách mạng. Những
lời dặn của Người trong đó có tư tưởng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vẫn giữ
nguyên giá trị to lớn, có ý nghĩa sâu sắc.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng lực
lượng cách mạng. Đó không chỉ là lực lượng trực tiếp gánh vác và giải quyết những nhiệm vụ
hiện tại, mà còn là đội ngũ kế cận, nguồn bổ sung có đủ năng lực để kế thừa và tiếp tục phát
triển sự nghiệp của những thế hệ đi trước. Trong 'Di chúc', Người nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân
phải luôn ghi nhớ rằng, 'Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và
rất cần thiết'(1). Luận điểm đó chứa đựng thế giới quan khoa học của một lãnh tụ cách mạng,
phản ánh tầm nhìn xa trông rộng của một nhà hiền triết, một nhà văn hóa lớn; nó đã trở thành
một chân lý của cách mạng.
1 - Vì sao phải chăm lo xây dựng, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau?
Sự nghiệp đấu tranh cách mạng nhằm biến xã hội cũ xấu xa, bất công và phi nhân tính thành
một xã hội mới, tốt đẹp và công bằng cho tất cả mọi người là một quá trình đầy cam go, thử
thách. Trong 'Nhà nước và cách mạng', khi đề cập đến tính chất phức tạp của những nhiệm vụ
cách mạng, chẳng hạn như vấn đề chính quyền, V.I.Lênin từng nói rằng, đấu tranh giành chính
quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền cách mạng còn khó hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định, có độc lập, tự do mà nhân dân vẫn chết đói, chết rét thì độc lập, tự do cũng chẳng có
ý nghĩa gì; nhân dân chỉ hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc ấm Chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân tất thảy những quyền con người hết sức tự nhiên và
chân chính ấy. Nhưng, chủ nghĩa xã hội không phải muốn là tức khắc có ngay, mà chỉ có thể là
kết quả của cuộc đấu tranh rất bền bỉ của con người.
Nhắc lại những điều đó để thấy, sự nghiệp cách mạng là một quá trình lâu dài, bao gồm nhiều
nhiệm vụ, nhiều giai đoạn khác nhau và do vậy, đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến quên mình của
nhiều thế hệ cách mạng. Thực vậy, trong tiến trình ấy, những lớp người hiện tại đã trực tiếp giải
quyết thành công nhiều nhiệm vụ, nhưng cũng có không ít công việc còn dang dở; hơn nữa, thực
tiễn cuộc sống luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết. Theo đó, nếu thiếu
lực lượng kế cận xứng đáng thì chẳng những sự nghiệp cách mạng sẽ gặp khó khăn, mà ngay
cả những gì đã có cũng khó được gìn giữ, bảo tồn.
Tư tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau thể hiện sự vĩ đại, sâu sắc trong tầm nhìn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với tư tưởng này, Người không chỉ thấy hiện tại mà còn thấy cả tương
lai; không chỉ dành tâm huyết trước mắt cho sự nghiệp cách mạng mà còn chăm lo vun trồng cái
gốc của sự nghiệp đó để nó trở nên vững bền. ở đây, quan điểm biện chứng duy vật về sự phát
triển mà Người tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo: tương lai
đang ở ngay trong hiện tại.
Đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh viết: 'Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một
đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội'(2). Đầy nhiệt huyết, có sức sống tràn trề
và năng lực sáng tạo , đó là thế mạnh, là vốn quý của tuổi trẻ. Với tư cách là đội ngũ dự bị, lực
lượng kế cận hùng hậu của cách mạng và là những người chủ tương lai của nước nhà, các thế
hệ trẻ - trước hết là thanh niên, có trách nhiệm kế tục sự nghiệp cách mạng, thực hiện sứ mệnh
lịch sử vẻ vang mà lớp người đi trước đã chuyển giao vào tay mình. Coi vận mệnh của nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên, Hồ Chí Minh khẳng định, thanh niên
phải trở thành một lực lượng to lớn, vững chắc trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, phải
'là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, là người xung phong trong công cuộc
phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội'(3).
Sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh có
lòng tin mãnh liệt vào sức mạnh vô địch cũng như năng lực sáng tạo phi thường của quần chúng
nhân dân, trong đó có thế hệ trẻ. Thế hệ trẻ nói chung và trẻ em nói riêng luôn ở trong trái tim và
tâm trí của Người. Lúc nào Người cũng dành muôn vàn tình thương yêu cho các thế hệ trẻ. Hơn
thế nữa, Người còn gửi gắm niềm tin khi đặt trọn tương lai của cách mạng, của dân tộc vào họ.
Nhân ngày khai trường của năm học đầu tiên dưới chế độ mới, Người đã gửi thư khích lệ và
động viên học sinh cả nước: 'ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại
cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến
thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi
đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em'(4).
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định, như một lô-gíc tất yếu, việc 'bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau' là nhiệm vụ rất quan trọng và rất cần thiết.
2 - Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau như thế nào?
Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình, kết hợp với lý luận cách mạng, từ rất sớm, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ rằng, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Do vậy, ngay từ
những ngày đầu mới thành lập chính quyền cách mạng, Người đã coi việc xóa mù chữ, tiêu diệt
giặc dốt và nâng cao dân trí là nhiệm vụ thứ hai trong số sáu nhiệm vụ cấp bách của đất nước
lúc bấy giờ. Đặc biệt, Người đã đưa ra một quan điểm vừa mang tính chiến lược, vừa mang giá
trị nhân văn sâu sắc mà đến nay, đã trở thành phương châm hành động của toàn xã hội nói
chung, của ngành giáo dục Việt Nam nói riêng: 'Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người'(5). Bởi vậy, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn thường
xuyên quan tâm và chăm lo sự nghiệp giáo dục của nước nhà, coi giáo dục xã hội chủ nghĩa là
phương thức quan trọng nhất của sự nghiệp 'trồng người', là một mắt xích không thể thiếu trong
chiến lược bồi dưỡng thế hệ trẻ. Nói cách khác, trọng trách to lớn của ngành giáo dục là đào tạo
những người kế tục sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, theo Người, dù khó khăn đến đâu cũng phải
tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt; các ngành, các cấp Đảng và chính quyền địa phương phải
quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, nhằm đẩy sự
nghiệp giáo dục của nước ta lên những bước phát triển mới. Có thể nói, 'trồng người' là một tư
tưởng có ý nghĩa to lớn, bởi đó là kế lâu bền để phát triển đất nước. Ngày nay, khi con người
được coi là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
chúng ta càng cảm nhận thấy chiều sâu trong tư tưởng đó của Người.
Đối với sinh viên và học sinh, để xứng đáng là thế hệ cách mạng của đời sau, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi họ phải ra sức học tập: học tập trong nhà trường, trong gia đình và ngoài xã hội; học
tập qua sách vở và từ chính thực tiễn cuộc sống. Học không phải để 'làm quan' như trong xã hội
cũ, mà là 'Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để
làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà'(6).
Một trong những triết lý sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học phải đi đôi với hành, lý luận
phải gắn với thực tiễn. Vì vậy, bên cạnh quan điểm xác định giáo dục, học tập như một phương
thức chủ yếu để bồi dưỡng thế hệ trẻ, Người còn đòi hỏi thế hệ trẻ phải luôn tự rèn luyện, tu
dưỡng trong thực tiễn nhằm xây dựng, phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết để sau này
có thể cống hiến được nhiều nhất cho quê hương, cộng đồng và xã hội. Theo Người, việc tự rèn
luyện, tu dưỡng đó cần tuân theo nguyên tắc nhất quán: điều gì phải thì cố làm cho kỳ được;
điều gì trái thì hết sức tránh, dù nó là nhỏ.
Cách đây 60 năm (năm 1947), trong 'Thư gửi thanh niên', Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà Thanh niên muốn làm chủ tương lai một cách
xứng đáng thì ngay từ bây giờ phải tự giác rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải tích
cực làm việc để chuẩn bị cho tương lai. Việc giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên
hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội, nhằm giúp họ tránh những cái độc hại, tiêu
cực và tiếp thu, học hỏi những cái hay, tiến bộ trong cuộc sống. Thanh niên phải có tinh thần sẵn
sàng: 'đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm'; phải đoàn kết chặt chẽ,
kiên trì phấn đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học tập và lao động sản xuất, góp sức vào sự
nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
3 - Để thanh, thiếu niên và nhi đồng xứng đáng là thế hệ cách mạng của đời sau, họ cần được
bồi dưỡng những gì?
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có
những con người xã hội chủ nghĩa. Muốn làm tròn trọng trách người chủ tương lai của đất nước,
thế hệ trẻ phải được giáo dục, bồi dưỡng một cách thường xuyên và toàn diện. Có như vậy, họ
mới hội đủ các phẩm chất, năng lực cần thiết, cả về trí tuệ lẫn bản lĩnh chính trị, cả về nhân cách,
đạo đức lẫn sức khỏe, để đáp ứng những yêu cầu của công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Theo đó, việc bồi dưỡng thế hệ trẻ phải tập trung vào những nội dung cơ bản
sau:
Một là, bồi dưỡng đạo đức cách mạng: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong việc bồi dưỡng thế hệ
trẻ, nội dung quan trọng hàng đầu là xây dựng đạo đức cách mạng, giáo dục tư tưởng xã hội chủ
nghĩa và gột rửa chủ nghĩa cá nhân. Không phải ngẫu nhiên mà Người đặt tư cách đạo đức của
người cách mạng là nội dung trước tiên của cuốn sách 'Đường kách mệnh'. Tư tưởng của Người
về đạo đức cách mạng chứa đựng nhân sinh quan và giá trị quan hết sức sâu sắc đối với việc
xác lập nhân cách, lý tưởng cũng như chuẩn mực lối sống cho thế hệ trẻ. Đạo đức cách mạng là
đạo đức mới, là phẩm chất không thể thiếu và là cái gốc của con người xã hội chủ nghĩa. Bởi,
'Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân'(7).
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi nhất của đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm,
chính. Những phẩm chất này giống như bốn mùa của trời đất; nếu thiếu một trong bốn phẩm
chất đó thì con người không thể trở thành người theo đúng nghĩa. Nhưng, đạo đức cách mạng
không phải là cái có sẵn, không phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày của mỗi người. Do vậy, Người cho rằng, đối với thế hệ trẻ, phải luôn nỗ
lực rèn luyện đạo đức cách mạng: thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; sống trong
sạch, có chí tiến thủ và đoàn kết, không kiêu ngạo; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân;
phê phán những thói hư, tật xấu; thường xuyên tiến hành phê bình và tự phê bình để giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
Hai là, bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - kỹ thuật: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên vô dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong
những nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển: 'Dốt thì dại, dại thì hèn'(8). Vì vậy, để trở
thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên cạnh việc trau dồi đạo đức cách mạng, thanh
niên còn phải hăng hái học tập, trong đó có học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên
cứu, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhằm trang bị và nâng cao trình độ lý luận cách
mạng - ngọn đèn pha soi sáng cho hoạt động thực tiễn.
Cùng với việc học tập lý luận cách mạng, các thế hệ trẻ còn phải tích cực học tập văn hóa, khoa
học - kỹ thuật ; sử dụng những tri thức đó để xây dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, nhiệm vụ này quan trọng hơn bao giờ hết, bởi chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp lạc hậu. Cụ thể hóa mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp với từng cấp học, Người
viết: 'Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học
tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công
cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc
chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không
cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công'(9). Có như vậy, thế hệ trẻ mới có thể tích
lũy được những tri thức cần thiết, tạo tiền đề phát huy năng lực sáng tạo, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc.
Ba là, bồi dưỡng thể chất: Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, tương lai của loài
người hoàn toàn tùy thuộc vào việc giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến sự phát triển toàn diện của thanh, thiếu niên và nhi đồng Việt Nam, trong
đó có sự phát triển về mặt thể chất. Theo Người, việc giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, thực
hiện đời sống mới tất thảy đều phải có sức khỏe thì mới thành công. Bởi vì, 'Mỗi một người dân
yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe'(10).
Với tinh thần đó, Người đã tự mình nêu gương sáng về rèn luyện thể dục, thể thao; đồng thời,
kêu gọi tất cả mọi người, dù gái hay trai, già hay trẻ, đều phải thường xuyên rèn luyện thân thể,
coi 'luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe' vừa là trách nhiệm, vừa là bổn phận của mỗi người dân
yêu nước. Đặc biệt, đối với thanh niên, Người mong muốn họ phải có sức sống dẻo dai, thể chất
cường tráng, tinh thần mạnh mẽ và nghị lực lớn. Để có được như vậy, không có cách nào khác
ngoài việc hăng hái, tích cực rèn luyện thể dục, thể thao.
*
Thấm nhuần và thực hiện những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhiều thế hệ cách mạng đã nhanh chóng trưởng thành, đóng góp công lao to lớn vào sự phát
triển của dân tộc. Họ đã chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu
nước, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội; đã và đang tích cực
'xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn', như mong ước cháy bỏng của Người
trước khi từ biệt thế giới này.
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Họ đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và
tinh thần dám nghĩ, dám làm của mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi
phương diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng,
toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng
một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Rất nhiều
phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện, Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ học đường,
được đông đảo đoàn viên, thanh niên, sinh viên và học sinh hưởng ứng, thực hiện. Đảng, Nhà
nước và xã hội đã có nhiều hình thức ghi nhận và tôn vinh những thanh niên, sinh viên và học
sinh tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Có thể nói, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay vẫn xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen
ngợi và kỳ vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 'Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc
đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa
vừa 'hồng' vừa 'chuyên''(11).
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng
như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một
bộ phận thanh, thiếu niên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai
nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ,
ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm
chí vi phạm pháp luật Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của chính
bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ và văn minh của xã
hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng, các thế lực thù địch đang 'chờ đợi' và sẽ ra sức
khai thác, lợi dụng những hiện tượng đó để tiến hành chiến lược 'diễn biến hòa bình' hòng chống
phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn Đảng và
toàn dân ta càng phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ; coi đó là một trong những nhiệm
vụ hàng đầu, bởi nó liên quan trực tiếp đến tương lai của đất nước. Đó cũng là một biểu hiện,
một nội dung quan trọng của chiến lược 'lấy dân làm gốc'. Có thể khẳng định, cùng với những
biện pháp tích cực và đồng bộ khác, cuộc vận động 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh' mà Đảng ta vừa phát động chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ rèn luyện, phấn đấu
vươn lên.
===========
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
(Từ tác phẩm Đường Kách Mệnh đến bản Di chúc cuối cùng)
Ngày 16/10/2007. Cập nhật lúc 17h 8'
(ĐCSVN) - Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, từ bài giảng đầu tiên trong tác phẩm Đường
Kách Mệnh[1] đến bản Di chúc cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo
đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức là “cái gốc” của người cách mạng.
Vấn đề đạo đức cách mạng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn có sự nhất quán và tính lôgic
cao về tinh thần cách mạng cũng như phương pháp tư duy, nhất là phương pháp tư duy khoa
học, tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức của nhân loại, Người còn phát triển và sáng tạo những giá trị
tư tưởng đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Tầm quan trọng của đạo đức bao giờ cũng được Người đặt ở vị trí hàng đầu. Ngay từ khi Đảng
ta chưa ra đời, không phải ngẫu nhiên những bài giảng đầu tiên của Người cho thế hệ thanh niên
yêu nước đầu tiên ở nước ta theo con đường cách mạng vô sản là những bài giảng về tư cách
của người cách mạng. Trong trang đầu cuốn Đường Kách Mệnh - Người đã ghi 23 nét tư cách
của một người cách mạng trong ứng xử với mình, với người, với đời, với việc. Đó là những chuẩn
mực: “Tự mình phải:
Cần kiệm.
Hòa mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cận thận mà không nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.
Ít lòng ham muốn về vật chất.
Bí mật.
Đối với người phải:
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người.
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể”[2].
Trên cơ sở nhận thức về nền tảng của việc hình thành đạo đức mới, vấn đề đạo đức cách mạng
được Người nhắc lại nội dung tương tự khi nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, năm 1947,
nhưng cụ thể hơn[3], gồm 5 điểm: một, Mình đối với mình; hai, Đối với đồng chí mình phải thế
nào?; ba, Đối với công việc phải thế nào?; bốn, Đối với nhân dân; và năm, Đối với đoàn thể. Với
những lời căn dặn này cho thấy, Người đã đặt vấn đề đạo đức cách mạng một cách rất lôgic và
có cơ sở khoa học về các quan hệ lợi ích. Hầu như các nguyên tắc đạo đức Người đề ra trước hết
cho mình thực hiện, sau đó mới để giáo dục người khác, có thể nêu ra một số chuẩn mực cơ bản
về đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Người, như sau:
1/ Nếu bài học về đạo đức cách mạng đầu tiên trong cuốn Đường Kách Mệnh, Người chỉ đề ra
những nguyên lý chung thể hiện mối quan hệ giữa ba khía cạnh, phản ánh mối quan hệ đạo đức
mới, đạo đức cách mạng mà người cách mạng cần quán triệt trước tiên, đồng thời nêu cao việc
tu dưỡng đạo đức cách mạng; thì ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, Người đã đề ra những nguyên tắc về hành vi đạo đức cách mạng đối với
người có chức, có quyền trong Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, Người đề nghị: “Mở một
chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính” để “làm
cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động”.
Người coi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người
mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức mới của dân tộc ta. Đây là phẩm chất được
Người đề cập đến nhiều nhất, thường xuyên nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng
mà vẫn giữ được nền tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi người. Phẩm
chất này gắn liền với họat động hàng ngày của mỗi con người và có quan hệ mật thiết với tư
tưởng trung với nước, hiếu với dân. Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm,
chính. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại. Người có tinh thần chí công
vô tư là người ham làm những việc ích nước, lợi dân, không ham địa vị, công danh, phú quý,
không nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Người cho rằng những cán bộ, đảng viên có đầy đủ đức tính
nêu trên sẽ đứng vững trước mọi thử thách, hơn nữa yêu cầu họ phải thể hiện trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, đối với người, với việc và với chính mình.
Người từng nói: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính,
không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ
quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết
điểm sẽ càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có 5
điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” [4]. Có thể thấy rằng từ các khái niệm đạo đức cũ như: nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm, Người đã đưa vào đây nội dung đạo đức mới bằng cách giải thích nó theo
quan niệm mới, với một nội dung hoàn toàn khác, rất cách mạng, phản ánh các mối quan hệ một
cách rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu.
2/ Từ nội dung hẹp của các phạm trù đạo đức cũ, Người mở rộng, đưa vào đây một nội dung rất
mới, tiến bộ, cách mạng, vượt qua những hạn chế của tư tưởng đạo đức truyền thống và nâng
lên thành tư tưởng đạo đức mới, mà tiêu biểu nhất là các khái niệm: trung, hiếu, nhân, nghĩa…
“Từ trung với vua thành trung với nước; từ hiếu với cha mẹ mình thành hiếu với dân; từ nhân chỉ
là nhân ái thành nhân dân, từ cần cho riêng mình thành cần cho cả xã hội; từ kiệm cho riêng
mình thành tiết kiệm chung phục vụ cho đất nước; từ liêm nghĩa là liêm khiết, không tham
nhũng, nghĩa là chỉ giữ cho bản thân mình trong sạch, Người mở rộng thành vấn đề liêm khiết
mang tính xã hội; từ chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn, Người chuyển sang
vấn đề thiện, ác; làm việc chính, là người thiện; làm việc tà là người ác”[5]. Người nhấn mạnh:
“Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ đạo đức cách mạng mới là người cán bộ
cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải trái, giữ vững lập
trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”[6]. Trung vơí nước, hiếu với dân được coi là nội
dung cơ bản nhất, bao trùm nhất trong tư tưởng đạo đức cách mạng của Người, thể hiện mối
quan hệ giữa con người với Tổ quốc và nhân dân. “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của dân tộc, nước ở đây là nước của dân, dân là chủ nhân của đất nước.
Người cho rằng bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân. Xuất phát từ quan niệm như vậy, nên “hiếu” trong tư tưởng của
Người chính là “Hiếu với dân”. Hiếu với dân không chỉ là xem người dân như đối tượng dạy dỗ,
ban ơn mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Ở người, lý luận luôn gắn chặt với thực tiễn, lời
nói luôn đi đôi với việc làm. Cuộc đời của Người là minh chứng sinh động về tư tưởng tận trung
với nước, tận hiếu với dân.
3/ Nếu như trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất của mỗi con người - công dân đối với Tổ
quốc, đối với nhân dân, thì yêu thương con người là trách nhiệm của mỗi con người đối với con
người. Người cho đây là phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Yêu thương con người trước hết
là tình cảm dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người cùng khổ. Yêu thương con
người còn được thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với những người đồng chí xung quanh,
trong cuộc sống bình thường. Phải luôn nghiêm khắc với bản thân, nhưng rộng rãi độ lượng với
ngươì khác. Điều đặc biệt là ở Người, yêu thương con người luôn luôn gắn với niềm tin vào con
người, tin vào lương tri, tin vào lòng dũng cảm, tin vào sức sáng tạo của họ trong hành trình con
người tự giải phóng lấy mình, để con người làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình.
4/ Người đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cá nhân và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa
truyền thống và hiện đại tạo ra trong quan niệm về đạo đức cách mạng sự hài hòa về các mối
quan hệ lợi ích. Theo Người, tinh thần quốc tế trong sáng thực chất là chủ nghĩa yêu nước gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người cho rằng nếu tinh thần yêu nước không chân chính, tinh
thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn tới tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, hẹp hòi, sô vanh,
biệt lập, kỳ thị chủng tộc. Từ rất sớm, Người đã chủ trương quan hệ với các quốc gia dân tộc và
các tổ chức trên thế giới để thêm bạn, bớt thù. Quan điểm dân tộc đã được thổi vào thời đại, đã
vượt qua biên giới quốc gia, hướng tới mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Cần nhấn mạnh là tuy có những cách định nghiã khác nhau về nội hàm các khái niệm đạo đức
cách mạng, nhưng nhìn chung ở Người đều có sự nhất quán về tinh thần cách mạng và phương
pháp tư duy. Từ các khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước như: nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm, đến cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; từ trung, hiếu, đến thiện, ác
bao giờ Người cũng có cách giải thích riêng về những chuẩn mực đạo đức phù hợp dễ hiểu, dễ
chấp nhận với từng đối tượng, với mọi tầng lớp nhân dân: trí thức, quân đội, công an, công
nhân, nông dân, phụ nữ, phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng Đề cao đạo đức mới, Người
đã thể hiện một tầm nhìn xa trông rộng về nhân cách con người. Những phẩm chất mà Người
nêu ra là nhằm hướng con người tới cái thiện, cái tốt, cái cao cả, đồng thời ngăn chặn, khắc
phục những biểu hiện thoái hóa, biến chất có thể xảy ra, đặc biệt là chống khuynh hướng lạm
dụng quyền lực để tham nhũng, lãng phí. Ngay cả trước khi qua đời, việc đầu tiên được đề cập
đến trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân là nói về Đảng, việc đầu tiên khi đề cập đến
Đảng là đạo đức, Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”[7].
Tóm lại, từ bài viết đầu tiên trong tác phẩm Đường Kách Mệnh đến bản Di chúc cuối cùng, dù ở
những thời điểm lịch sử khác nhau nhưng tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng đều có sức
thuyết phục rất cao, có sức sống mạnh mẽ và có giá trị lâu bền. Bởi đó là sự thống nhất giữa lời
nói, tư tưởng và hành động. Người đặt vấn đề đạo đức cách mạng từ lĩnh vực lý luận sang lĩnh
vực thực tiễn, đưa đạo đức cách mạng vào chính sự nghiệp cách mạng, coi đó là một trong
những nguyên tắc hoạt động cách mạng, phản ảnh các quan hệ mới về lợi ích tạo ra nền tảng
vững chắc của chính quyền cách mạng nói chung và người cách mạng nói riêng./.