Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TÍNH KHOA HỌC CÁCH MẠNG VÀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.14 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

MƠN: Tư tưởng Hờ Chí Minh
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH TÍNH KHOA HỌC CÁCH MẠNG VÀ GIÁ TRI
NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

HÀ NỘI, NGÀY 21 THÁNG 11 NĂM 2010


A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Hồ Chí Minh là nhà lý luận thiên tài, người thầy của cách mạng Việt Nam.
Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa
Mác- Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Giữa lúc cách mạng Việt
Nam lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái
Quốc) là người Việt Nam yêu nước đầu tiên tìm ra con đường cứu dân, cứu nước.
Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, đặt chân lên nhiều châu lục, tiến hành khảo
sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các nước tư bản chủ yếu và nhiều nước thuộc
địa của chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được xu hướng phát
triển của thời đại; từ một người yêu nước nồng nhiệt, Người đã bắt gặp chủ nghĩa
Mác-Lênin và trở thành người Cộng sản. Từ đó Người đã rút ra kết luận: Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vơ sản. Đó là con đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng tiên
phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay
sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản ở Việt
Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm đi tới mục tiêu cao cả là giải phóng


dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng với bao trang sử chói lọi. Trải
qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần đoàn kết, tương thân
tương ái đã trở thành sức mạnh của dân tộc ta, giúp chúng ta chiến thắng bao kẻ
thù. Khơng những thế, tình cảm thiêng liêng cao q đó cịn trở thành niềm tự
hào bao đời của những người con đất Việt. Từ những tháng ngày lao khổ đến
giây phút vinh quang, từ ngày bị áp bức đến ngày giành lại nền độc lập, dân tộc


ta đã phải trải qua bao thăng trầm, đã chịu quá nhiều nỗi đau và nước mắt. Và
cũng chính từ trong quá trình dựng nước và giữ nước oanh liệt ấy, những truyền
thống quý báu và phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta đã nở hoa, trong đó nổi bật
là tư tưởng nhân văn nhân đạo, tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau: “Bầu ơi
thương lấy bí cùng”, “Thương người như thể thương thân” . Đó là nét đẹp nổi bật
đáng tự hào của con người Việt Nam, nhất là trong cơn hoạn nạn, rủi ro. Lòng
nhân ái của từng người con đất Việt đã gắn chặt vận mệnh của họ với sự sống
còn, tồn vong của dân tộc, với sự hùng cường, thịnh trị của Tổ quốc. Càng yêu
con người, càng thương con người, họ càng có thêm ý chí kiên cường, tinh thần
bất khuất, dám xả thân, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, dám vươn lên để
tìm con đường giải thốt cho dân tộc khỏi đói nghèo và xây dựng đất nước cường
thịnh. Giống như bao người con đất Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn
lên trong lịng một dân tộc giàu truyền thống nhân ái. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản bao qt nhất. Đó là tư tưởng
địi lại cho con người những gì mà con người có quyền được hưởng, trước hết là
quyền được sống, theo nghĩa "người ta sinh ra ai cũng có quyền được sống, được
tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc". Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được nâng
lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ của tồn nhân loại,
trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục Hưng, Khai Sáng. Đặc biệt, tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, học thuyết vững
chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng Cộng sản Chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên

tài: C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin.
Vì vậy, em chọn đề tài này nhằm làm rõ tính khoa ho ̣c cách ma ̣ng và giá tri ̣
nhân văn trong tư tưởng của Người.


II. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu:
- Về đớ i tượng nghiên cứu: Đó là tính khoa ho ̣c cách ma ̣ng và tư tưởng nhân
văn nhân đạo mà Người hướng đến xuyên suốt trong cuộc đời chính trị và nghệ
thuật của mình.
- Về phương pháp luận, Hồ Chí Minh sử dụng phương pháp biện chứng duy
vật hành động khoa học, khơng giáo điều, rập khn, máy móc hoặc xét lại, bảo
thủ trì trệ. Hồ Chí Minh ln nhắc chúng ta học đi đôi với hành, lý luận gắn liền
với thực tiễn, bất cứ ai làm việc gì, ở cấp bậc nào đều phải đi sâu nghiên cứu lý
luận, khơng ngừng học tập nâng cao trình độ, đồng thời phải coi trọng tổng kết
thực tiễn, bổ sung để làm sáng rõ cho lý luận.
- Nhiệm vụ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: Đề ra các sách lươ ̣c và chiế n
lươ ̣c cho công cuô ̣c giải phóng và xây dựng đấ t nước, giáo dục toàn diện về mặt
đạo đức giác ngộ Xã hội Chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất nhằm
tẩy sạch ảnh hưởng chế độ giáo dục nô dịch thực dân cịn sót lại như: thái độ thờ
ơ với xã hội, xa với đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng
cấp, dạy theo lối nhồi nhét... Cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ
quốc, giáo dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người lao động
mới.
III. Ý nghĩa đề tài:
Ý nghĩa của đề tài soi đường cho Đảng và nhân dân trên con đường xây
dựng đất nước, nâng cao tư duy lí luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo
đức cách mạng năng lực cơng tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng đại của Đảng
và nhà nước ta.



B. NỘI DUNG
I. Tính khoa học cách ma ̣ng trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển bản chấ t khoa học
cách ma ̣ng của chủ nghia Mác- Lênin
̃
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nhân tố ảnh hưởng và tác động quyết định đến
quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là cơ sở hình
thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà
Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có bước phát triển về chất từ một người yêu
nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng
đắn. Chính trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển
hố những nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của
nhân loại để tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử.
Vì vậy, trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa MácLênin có vai trị to lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.
Mố i quan hê ̣ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghia Mác Lênin
̃
a- Chủ nghĩa Mác- Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và cơng nhân trong đấu tranh xóa bỏ
mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đối
với Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng có nghĩa là đến với con đường
cách mạng vơ sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân
chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vơ sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới
giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới".



Đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có
bước nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết
hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa
yêu nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln khẳng định:
Chủ nghĩa Mác- Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng
nhất, "muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ
nghĩa Lê-nin". Đối với Người, chủ nghĩa Mác- Lênin là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời kiên quyết chống
chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Như vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất,
của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Khơng thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngồi hệ tư tưởng
Mác- Lênin, hay nói cách khác, khơng thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền
tảng của nó là chủ nghĩa Mác- Lênin. Cho nên, có thể nói, ở Việt Nam, giương
cao tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là giương cao chủ nghĩa Mác- Lênin. Muốn bảo
vệ và quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin một cách có hiệu quả, phải bảo vệ, qn
triệt và giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử mà cũng là lơ-gíc của
vấn đề. Nó giúp chỉ ra sai lầm của quan niệm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với
chủ nghĩa Mác- Lênin.
b- Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại"
Ở luận điểm này, có hai vấn đề cần làm rõ:


Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
lấy chủ nghĩa Mác- Lê-nin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự
kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ

nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, cả phương Đơng và phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của
mình đối với việc học tập, tiếp thu những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã
hội, tơn giáo trong lịch sử. Người nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu
dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả. Chủ
nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật
Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử,
Giê-su, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ
đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội...". Tơi cố
gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy".
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác- Lênin, bắt
nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác- Lênin, nhưng khơng hồn tồn đồng nhất với
chủ nghĩa Mác- Lênin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa
truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác- Lênin,
trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin... Vậy sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó như
thế nào?
Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, trở thành một
cán bộ của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã vạch
rõ sự khác nhau giữa thực tiễn của các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C.
Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam - một nước
thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở phương Đơng. Do đó, cần bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về


Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: "Cuộc đấu
tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Dù sao thì cũng không
thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng thể có được. Mác đã xây dựng học

thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch
sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại... Xem xét lại
chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương
Đơng. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm".
Việc tiếp thu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Hồ Chí
Minh là cả quá trình gắn với hoạt động thực tiễn, kết hợp lý luận với thực tiễn,
xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn. Người nhấn mạnh rằng, việc học tập,
vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin, trước hết phải nắm vững "cái cốt lõi", "linh hồn
sống" của nó là phương pháp biện chứng; học tập "tinh thần, lập trường, quan
điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để áp dụng lập trường, quan
điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong cơng
tác cách mạng của chúng ta". Người cịn chỉ rõ: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là
phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống khơng có
tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin".

Minh

2. Tính khoa học cách ma ̣ng trong hê ̣ thố ng luận điểm của Hờ Chí
Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận thể hiện tư duy độc lập,

sáng tạo, Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời cách ma ̣ng của mình đã vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn Việt Nam và tạo ra một hệ thống
luận điểm mới, sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh:
1- Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về
chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là
"Bản án chế độ thực dân Pháp" (xuất bản năm 1925) và "Đây công lý của thực


dân Pháp ở Đông Dương" đã vạch trần bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn
áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu

rõ nỗi đau khổ của kiếp nơ lệ, nguyện vọng khát khao được giải phóng và những
cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Đây là những tài liệu “có một khơng
hai” về chủ nghĩa thực dân; ở đó, sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí
Minh đã vượt hẳn những gì mà những nhà lý luận mác-xít đề cập đến. Những
luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là hình ảnh về "con
đỉa hai vịi", "con chim hai cánh", đã khơng chỉ có tác dụng thức tỉnh các dân tộc
thuộc địa, mà còn cảnh tỉnh các đảng cộng sản ở chính quốc.
Hồ Chí Minh là người chiến sĩ tiên phong trong phê phán chủ nghĩa thực
dân, đồng thời cũng là người lãnh đạo dân tộc mình thi hành bản án chôn vùi chủ
nghĩa thực dân ở Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân
trên toàn thế giới.
Đề cương “Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin”, viết năm 1920,
đã thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, vì đây
là chủ nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn
chế lúc bấy giờ trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa:
Cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là "hậu bị qn" của
cách mạng vơ sản chính quốc; cách mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa
mới được giải phóng, Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu sắc khát
vọng và tiềm năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu lên
luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ
với cách mạng chính quốc, nhưng khơng hồn tồn phụ thuộc vào cách mạng
chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể "chủ động đứng
lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta", giành thắng lợi trước cách mạng chính
quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc.


2- Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu,
vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác- Lê-nin
một cách sáng tạo, chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của các nước thuộc
địa, đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân thống trị và bè lũ tay sai

với toàn thể nhân dân, dân tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo... Theo Người,
ở Việt Nam cũng như ở các nước phương Đông, do trình độ sản xuất kém phát
triển nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước
phương Tây. Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân
tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: "Chủ nghĩa dân tộc là
động lực lớn của đất nước". Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc nhân danh
Quốc tế Cộng sản là "một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời".
3- Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh
ln giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng
định, phải đi từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc khơng thốt
khỏi kiếp ngựa trâu thì ngàn năm giai cấp cũng khơng được giải phóng. Đường
lối của cách mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đồn
kết tồn dân trên nền tảng liên minh cơng nhân, nơng dân, trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.
4- Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã có những phát hiện
sáng tạo về Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân
chiếm đa số dân cư; xác định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp chủ nghĩa
Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước". Đảng vừa đại
diện cho lợi ích của giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc.
5- Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của Cách mạng Việt Nam là
đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu,


Hồ Chí Minh đã xác định: phải giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa
vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí.
6-Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh
nghiệm hoạt động quân sự của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực
tiễn đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của
Việt Nam. Trong đó, nổi bật là quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh
toàn dân, toàn diện, trường kỳ; về xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân với ba
thứ quân chủ lực, địa phương, dân qn tự vệ; về nền quốc phịng tồn dân, toàn
diện, hiện đại...
7- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, sau khi cách mạng vô
sản thắng lợi, giai cấp vơ sản sẽ thiết lập nên nền chun chính vơ sản. Vận dụng
sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng
từ giải phóng dân tộc mà phát triển lên, Hồ Chí Minh cho rằng, "mục đích của
Quốc tế Cộng sản là làm thế giới vô sản cách mạng, thiết lập vô sản chun
chính", nhưng chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước mà đề ra đường lối, chiến lược cách mạng phù hợp, "chứ không phải nước
nào cũng phải làm cách mạng vô sản, lập chun chính như nhau". Vì vậy, ngay
từ Chánh cương vắn tắt (1930), Người đã nêu: Thiết lập Chính phủ công nông
binh; tổ chức ra quân đội công nông. Tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941),
Người đề ra chủ trương thành lập "một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh
thần Tân dân chủ. "Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải
thuộc quyền riêng mô ̣t giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tô ̣c".
8- Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, trước hết, Người khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và


con người. Vì vậy, chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (miền
Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng dân tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có tính cách
mạng cao và phù hợp với thực tiễn đất nước. Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là "đánh thắng lạc hậu và bần cùng, để xây
dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta, cho con cháu ta". Đặc điểm lớn nhất

của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là "từ một nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa... Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp hiện đại và nơng nghiệp hiện đại, có văn
hóa và khoa học tiên tiến".
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác- Lênin nằm trong sự
thống nhất hữu cơ; cả hai đều là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng ta, nhân dân ta. Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác- Lênin thay cho
tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như khơng thể hiểu và quán triệt, vận dụng sâu sắc
tư tưởng Hồ Chí Minh nếu khơng nắm vững chủ nghĩa Mác- Lênin.
II. Giá tri ̣nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam.
Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Người khơng màng
danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường


tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
bao qt tồn bộ Cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự
do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đó được kết tinh thành một
tuyên ngôn bất hủ không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà cịn đối với tồn thể
lồi người tiến bộ: “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do.”
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vơ cùng rộng lớn, nhưng tựu chung lại
vẫn là tình yêu thương con người. Tình u thương con người ở Hồ Chí Minh đã

trở thành lẽ sống của Người, yêu thương con người gắn với tin ở con người, dùng
sức của con người để giải phóng cho con người, vì con người và phục vụ con
người.
a. Nhận thức về con người
Khác với một số quan niệm chưa đúng đắn về nhân dân lao động, về con
người,tơn giáo, v.v.. Hồ Chí Minh đề cập con người cụ thể gắn với từng thời kì
lịch sử; khơng có con người chung chung, trừu tượng phi nguồn gốc lịch sử hay
con người kiểu tôn giáo. "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng,
bầu bạn… Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả lồi người", Hồ
Chí Minh đã từng nói như vậy, quan niệm “bốn bể đều là anh em” rất rõ ràng, cụ
thể. Tình thương u con người của Hồ Chí Minh chính là sự đồng cảm với
những người cùng chung cảnh ngộ, của những người dân mất nước, nô lệ, lầm
than. Trái tim Người hoà nhịp với khát vọng cháy bỏng được giải phóng của các
dân tộc bị áp bức. Người đau nỗi đau chung của nhân loại lầm than. Xuất phát từ
tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải
phóng khỏi mọi áp bức, bất cơng. “Từ giải phóng những người nô lệ mất nước,
những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người”. Đó chính là mục tiêu
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định trong Lời ra mắt của báo “Người
cùng khổ” (Le Paria) tại nước Pháp năm 1921.


Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, từ khi về nước lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giành chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh lại dùng đến
khái niệm "đồng bào", "quốc dân"... Khi miền Bắc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội,
Người dùng thêm nhiều khái niệm như "cơng nhân", "nơng dân", "trí thức", "lao
động chân tay", "lao động trí óc", "người chủ xã hội"...
b. Thương u con người, thương yêu nhân dân
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh xuất phát từ tình u thương
của những người đồng cảnh ngộ, mất nước, bị nô lệ, cùng chung số phận bị áp
bức bóc lột, đi tìm lối thốt cho dân tộc: khơng chung chung, trừu tượng kiểu tôn

giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô
sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ. Xuất phát từ tình yêu
thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng
khỏi mọi áp bức, bất cơng. Mục tiêu của Hồ Chí Minh đã từng nói rõ trong lời ra
mắt của báo "Người cùng khổ" (Le Paria) năm 1921: "đi từ giải phóng những
người nơ lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con
người".
Ln thương u con người, nên Hồ Chí Minh ln khát khao hịa bình,
một nền hịa bình thật sự, trong độc lập, tự do. Trước cách mạng, trong kháng
chiến, Hồ Chí Minh ln có thái độ nghiêm túc, thận trọng đối với vấn đề khởi
nghĩa, tranh thủ khả năng phát triển hịa bình để hạn chế sự đổ máu cho nhân dân
ta và nhân dân các nước. Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người chủ
trương chủ yếu sử dụng bạo lực chính trị. Đó là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã cố gắng làm tất cả những gì có thể
làm được để tránh cuộc chiến tranh Việt - Pháp. Nhưng khi bọn thực dân hiếu
chiến quyết gây ra chiến tranh để buộc dân ta sống kiếp đời nơ lệ, mất nước thì
Hồ Chí Minh kêu gọi cả dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì nền hịa bình và phẩm giá của nhân loại tiến bộ. Hồ Chí Minh coi sinh


mạng con người là quý giá nhất. Theo Người, "không có một trận đánh đẫm máu
nào là "đẹp" cả, mặc dù thắng lớn.
Người trân trọng từng ý kiến của dân, lắng nghe dân, học hỏi dân, bàn bạc
với dân, tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến của dân, tôn trọng và chấp hành
nghiêm minh pháp luật. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, Người đề ra những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng
với việc chống giặc ngoại xâm. Trước mắt phải xóa đói nghèo, làm cho kinh tế
phát triển "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá
giàu thì giàu thêm" (Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr65). Kinh
tế có phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh.

Người từng nói: Tơi thấy các cháu bụng ỏng, mắt choẹt, tôi hết sức đau lịng".
Người u cầu những người lãnh đạo chính quyền phải chăm lo đến đời sống
nhân dân, phải chăm lo từ việc "tương cà, mắm muối của dân", không được áp
bức quần chúng nhân dân.
Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ,
phát triển giáo dục. Người từng nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Người
yêu cầu đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao trình độ học vấn cho nhân
dân, chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người thường nói chế độ thực
dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hóa nhân dân ta
bằng những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô. Cho nên phải làm sao để
dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một
dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc
năm châu". Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh khơng chỉ giới hạn ở
nhân dân Việt Nam mà ở tình bác ái bao la. Người từng vạch rõ: "Trừ bọn Việt
gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết
đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải u q, kính trọng, giúp
đỡ... Phải thực hành chữ Bác-Ái" (Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.1995,


t5, tr644).
c. Tin vào sức mạnh, phẩm giá và tính sáng tạo của con người
Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng kiệt xuất của các anh hùng, hào kiệt của
dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... về sức mạnh của nhân dân "Khoan
thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ", "đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền
cũng là dân". Người còn kế thừa tư tưởng nhân văn "lấy dân làm gốc" và chủ
nghĩa nhân đạo hiện thực của học thuyết Mác để hình thành tư tưởng nhân văn
mới, tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng
nhân dân và lòng tơn trọng, kính trọng nhân dân lao động. Người nói "Trong bầu
trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực
lượng đồn kết của nhân dân".

Điểm nhấn trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh khơng những là tình
thương, sự đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Thực chất, đó khơng
phải là lịng thương hại, mà chính là lịng tin vững chắc vào khả năng và phẩm
giá tốt đẹp của con người. Tư tưởng “Dĩ dân vi bản” (Lấy dân làm gốc) với
Người vẫn mn đời khơng đổi. Lịng tin của Người vào sức mạnh và tính sáng
tạo của quần chúng nhân dân đã khẳng định điều đó. Sống trong lịng nhân dân,
gắn bó máu thịt với nhân dân nên suy nghĩ thường trực trong Người là “đem tài
dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”.
Người nhận thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng, "người là gốc của làng nước", "nước lấy dân làm gốc", "gốc có vững cây
mới bền", "xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Niềm tin vào sức mạnh của dân
còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ
Chí Minh chỉ rõ: nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng; nếu
khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo để dân
làm chủ. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Nhận thức như vậy để hiểu rằng


tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ
tạo nên sức mạnh vơ địch. Bởi vì sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và
lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng "con người mới" vì đây
là động lực quyết định hướng đi lên của xã hội Việt Nam tương lai. Người địi
hỏi phải có chiến lược trồng Người. Con người mới vừa là nhân vừa là quả của
quá trình đấu tranh xây dựng xã hội mới. Theo Người, con người mới xã hội chủ
nghĩa Việt Nam phải có tinh thần làm chủ xã hội "đã là người chủ thì phải biết tự
mình lo toan gánh vác, khơng ỷ lại, khơng ngồi chờ". Con người mới phải có tri
thức văn hóa và khoa học, có trình độ chun mơn nghiệp vụ. Con người mới
phải có phẩm chất đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính', "Chí cơng, vơ tư".
Phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chống chủ nghĩa cá nhân

khơng có nghĩa là phủ định lợi ích chính đáng của cá nhân. Người nói: "Mỗi
người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia
đình. Nếu lợi ích cá nhân đó khơng trái với lợi ích tập thể thì khơng phải là
xấu".Theo Người, con người mới Việt Nam là con người phải mang đậm truyền
thống dân tộc, đồng thời giàu chất quốc tế xã hội chủ nghĩa.
d. Lòng khoan dung rộng lớn
Tư tưởng bao dung Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm: “Sơng to, biển
rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái ché
nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn: vì độ lượng nó hẹp nhỏ”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã phân biệt bọn thực dân cướp nước ta với nhân dân lương
thiện ở các nước đó. Người cũng phân biệt bọn hiếu chiến Mỹ với nhân dân Mỹ
yêu tự do và hồ bình. Người khơng hề đánh đồng bọn xâm lược Mỹ với nhân
dân Mỹ. Và chính Người đã coi bạn bè năm chân tận tình ủng hộ cuộc đấu tranh
chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta, trong đó có cả nhân dân u chuộng hồ bình


Mỹ. Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tiến bộ xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra chủ
trương có lý, có tình đối với kiều dân nước ngồi ở Việt Nam, nhằm bảo vệ tính
mạng,tài sản của họ. Người đánh giá cao vấn đề này và ghép tội "vô cớ sát hại
kiều dân ngoại quốc" vào tử hình.Với lịng nhân ái bao la, phát huy truyền thống
"thương người như thể thương thân", "đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại",
Hồ Chí Minh có chính sách khoan hồng đại lượng, đối xử nhân đạo với tù binh.
Chủ nghĩa bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh khơng chỉ là sự
quan tâm đến hạnh phúc của con người, mà còn là tấm lòng rộng mở đối với cả
tự nhiên. Người khơng qn dặn dị các thế hệ sau này phải bảo vệ hệ sinh thá i
cho đa dạng, cân bằng. Người đề xuất ý tưởng trồng cây và bảo vệ sự trong sạch
của môi trường sống. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cần
giáo dục đạo đức sinh thái cho nhân dân.
Có thể nói, bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh gắn chặt chẽ với
các vấn đề đạo đức mới, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi là đạo đức vĩ đại. Đạo

đức này không chỉ quan tâm đến con người, thương người, tin tưởng ở con người,
tự giác phục vụ những lợi ích của con người mà cịn có cả tình cảm bao la quan
tâm đến tự nhiên, bảo vệ mối quan hệ hài hoà giữa con người với tự nhiên.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất tồn diện. Con người khơng
phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo Người phải "làm cho
phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần
đi". Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp
trong con người. Ngay cả đối với những người lầm đường lạc lối, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng rất khoan dung, độ lượng: "Năm ngón tay cũng có ngón ngắn,
ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng
có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên
ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ". Khi cán bộ, đảng viên có lỗi, Người chú
ý giáo dục, nhẹ về xử phạt. Người cố gắng cổ vũ con người, hướng con người tới


chân - thiện - mỹ và trân trọng mọi ý kiến khác nhau, kể cả những ý kiến khơng
đồng tình, trái với suy nghĩ của Người. Ứng xử văn hóa của Hồ Chí Minh đã
tranh thủ được trái tim, khối óc của bạn bè năm châu, làm cho kẻ thù cũng phải
khâm phục.
2. Con người vừa là mục tiêu,vừa là động lực cách mạng
a. Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khi đất
nước cịn nơ lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc,
giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn,
mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Bởi vì, Người cho rằng,
nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng khơng
có nghĩa lý gì; vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho
dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Trong Di chúc,
Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người". Xuất phát từ truyền thống

yêu nước, thương dân bị nô lệ, Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Suốt cuộc đời của người là vì dân, vì nước."Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn
tột bậc là nước được độc lập, tự do, nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành".Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên
của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của
Nhà nước là:
"1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành".


Người cịn nói "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã
tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết
rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ" Do vậy, khi có chính quyền rồi, Người luôn
nhắc nhở phải xây dựng bộ máy trong sạch, đấu tranh với những biểu hiện của
thói quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân; phải dựa vào nhân dân, khơi dậy
sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng
đời sống mới trong nhân dân…
b. Con người là động lực của cách mạng
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Khơng phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là
những con người được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ
phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được ni dưỡng trên nền truyền
thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam...
Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó
vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng,

vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. Người khẳng định:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì "trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa". Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải
đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho
con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một
quá trình lâu dài khơng ngừng hồn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng những con


người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ
biện chứng giữa "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và "con người xã hội chủ nghĩa".
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn
bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền
thống (Việt Nam và phương Đơng). Hai là hình thành những phẩm chất mới như:
có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức cách mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm
chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lịng nhân ái, vị tha, độ lượng.
3. Xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng
Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa
nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. Người khẳng định:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa. Hồ Chí Minh quan niệm"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người". Để "trồng người", có nhiều biện pháp, nhưng
giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra
tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại giáo dục tồi sẽ
ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh nói vai trị của giáo dục: Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn... Cho nên phải chống giặc dốt
cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm. Muốn có cán bộ tốt,

công dân tốt, phải "trồng" và dĩ nhiên là rất cơng phu. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục với cách mạng, giữa
giáo dục với sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước: "muốn giữ
vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu mọi người Việt Nam đều
phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để
có thể tham gia vào cơng cuộc xây dựng nước nhất. Vì thế, giáo dục có tầm quan
trọng hàng đầu trong chiến lược con người, bởi giáo dục đào tạo nên chất người,
nên nhân tài. Trong Nhật ký trong tù, Bác viết: "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn.


Phần nhiều do giáo dục mà nên". Chiến lược giáo dục là hạt nhân trong chiến
lược con người, cung cấp trí thức mới, đào tạo nên nhân tài cho đất nước. Gửi thư
cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, tháng 9/1945, Bác viết: "Ngày nay, các cháu được cái may mắn hơn cha anh
là được hưởng một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ
đào tạo các cháu nên nhưng người cơng dân có ích cho nước Việt Nam, một nền
giáo dục làm phát triển hồn tồn năng lực sẵn có của các cháu… Đó là một nền
giáo dục “vì lợi ích trăm năm" của đất nước.
Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải
đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng
đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, khơng tách rời nhau, trong đó "đức" là
gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành
động, lời nói với việc làm... Có như vậy mới có thể "học để làm người". "Trồng
người" là cơng việc "trăm năm", khơng thể nóng vội "một sớm một chiều", không
phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó.Nhận
thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời
mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy khơng
được coi nhẹ, sao nhãng sự nghiệp giáo dục. Theo tinh thần của V.I. Lênin: "Học
học nữa, học mãi" và của Khổng Tử: "Học không biết chán, dạy khơng biết mỏi",
Hồ Chí Minh cho rằng: "Việc học khơng bao giờ cùng, cịn sống cịn phải

học".Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hình mẫu của con người nhân
văn của thời đại mới. Trong con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lịng
u thương con người với lịng tin, sự tơn trọng và ý chí cùng hành động triệt để
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
C. KẾT LUẬN
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình mẫu về một con người nhân văn
của thời đại. Con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lịng u thương và


niềm tin vào con người với ý chí và hành động triệt để nhằm giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội và giải phóng con người Việt Nam. Cho đến lúc đi xa, Người
vẫn luôn đau đáu lo cho vận mệnh đất nước. Nhưng Bác đã đặt niềm tin vào sự
đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ của Đảng, của dân tộc. Bác tin một mai
đất nước ta sẽ được giái phóng, dân ta sẽ được độc lập tự do. Người ln ln
dành trọn mn vàn tình thương yêu cho mọi người con đất Việt. Lời dạy của
Bác mn vàn kính u cũng chính là tâm niệm của mỗi thanh niên bao thế hệ.
Theo lời dặn của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm tin tưởng đặc
biệt đối vào thế hệ trẻ. Đó chính là niềm cổ vũ lớn lao, là lực lượng lao động
mạnh mẽ để tuổi trẻ tự tin, vững bước đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng
ta, những sinh viên hôm nay hãy ra sức học tập, rèn luyện và làm theo lời Bác,
luôn tu dưỡng đạo đức để sau này trở thành những trí thức hồn thiện cả về đức
và tài, đem sức lực và trí tuệ cống hiến cho đất nước.

Danh mu ̣c tham khảo
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – NXB LĐ Hà Nội 2005.
2. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh- Bộ giáo dục và đào tạo.
3. Tạp chí cộng sản(www.tapchicongsan.org.vn)
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh- TS Phạm Ngọc Anh. PGS TS Bùi Đình
Phong đồng chủ biên- NXB lý luận chính trị.
5. Cổng thơng tin tư liệu về HCM (www.thehehochiminh.net)



6. Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách ma ̣ng, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp.
7. HCM Toàn tập, NXB chính trị quốc gia HN, 2000, tập 1.
8. Tài liêu đươ ̣c tham khảo ta ̣i hai website: tailieu.vn và thuviendientu.vn
̣
9. Báo Vietnamnet.vn



×