Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Kiến thức lớp 12 "Vợ nhặt" - Kim Lân –phần23 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.5 KB, 12 trang )

Kiến thức lớp 12
"Vợ nhặt" - Kim Lân –phần23

Phân tích ý nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật của
truyện Vợ nhặt (Kim Lân)

* BÀI LÀM 1

Nông thôn và nông dân vốn là đề tài quen thuộc của thể
loại truyện ngắn tưf xưa và nay. Dù ta phân loại dòng văn
học tiểu thuyết theo phương diện nào cũng không thể bỏ
qua dòng tiểu thuyết về nông thôn. Với đề tài đó, nhiều
nhà văn đã trở nên nổi tiếng và học cũng đã cho ra đời
nhiều tác phẩm có giá trị. Chẳng hạn trước Cách mạng
tháng Tám có tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, tác
phẩm Chí Phèo của Nam Cao, rồi tác phẩm Con trâu của
Trần Tiêu Những tác phẩm này đã được viết với nội
dung đơn giản nhưng mang tư tưởng khá sâu sắc. Trong
số những nhà văn viết về nông thôn đó, có một người tuy
viết sau và viết ít, nhưng khi tác phẩm vừa ra đời thì đã
cho mọi người ưa thích và hoan nghênh. Đó chính là
truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Với truyện
ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã viết rất chân thật và hết sức
sắc sảo và để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Thông thường một tác phẩm chỉ có thể đứng vững khi nhà
văn có nội dung mới, cách nói mới. Tác phẩm Vợ nhặt
của Kim Lân cũng vậy.

Trước hết, mới qua cái tựa đề Vợ Nhặt thôi mà nó cũng
đã mang lớp ý nghĩa, nó gây cho độc giả một sự chú ý hết


sức đặc biệt trước khi thưởng thức tác phẩm. Bởi xưa nay
trên thế gian người ta nói là nhặt được cái này, cái nọ chớ
có ai nói là nhặt được vợ bao giờ. Vả lại, lấy vợ vốn là một
trong ba vịêc khó nhất đời của người đàn ông: “tậu trâu,
lấy vợ, làm nhà”. Bởi vì việc dựng vợ, dựng chồng phần
nhiều được tổ chức thế này thế nọ, hết sức long trọng. Ấy
vậy mà anh Tràng tự nhiên nhặt đựơc cô vợ thì quả thật là
việc bất ngờ, lý thú. Và với cái nội dung đó thì chỉ có cái
nhan đề Vợ nhặt mói nói đúng và sát với diễn biến câu
chuyện mà thôi. Cũng với nhan đề độc đáo đó mà Kim
Lân đã nói lên được thân phận con người lao động nông
dân trong những năm bốn mươi lăm đói kém đến nỗi vợ
mà người ta có thể nhặt được một cách dễ dàng như nhặt
một cọng rơm, cọng cỏ vậy.

Một điều quan trọng hơn góp phần tạo nên sự thành công
của tác phẩm đó chính là nghệ thuật dựng truyện. Đọc
qua những trang truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân một
sự tưởng tượng hết sức phong phú cứ gợi và diễn ra
trong tâm trí của chúng ta. Một bức tranh nông dân trong
những năm bị cái đói hoành hành của một phần tư đất
nước, cứ như rõ mồn một. Nhân dân lao động bị đói, tiều
tuỵ đáng thương cứ hiện lên trước mắt. Còn nỗi đau đớn
nào hơn khi chứng kiến cái cảnh “ Cái đói đã tràn về” trẻ
con vì đói khát mà “chúng ngồi ủ rũ không buồn nhúc
nhích”. Trẻ em vì thế, người lớn phải trôi dạt nay đây mai
đó. Một cọng rau cho đỡ đói cũng không, đâu tới hạt cơm
hạt thóc bởi thế nhữn góc tường, phố chợ người đói
nằm “la liệt như ngã rạ” càng kinh tởm và đớn đâu khi có
“cái mùi gây gây của xác người chết”.


Kim Lân đã dân truyện dựng cảnh hiện thực một cách độc
đáo như vậy nhưng về phương diện khác cách xây dựng
nhân vật và diễn biến tâm lý nhân vật lại càng độc đáo
hơn. Nhân vật Tràng hiện lên qua trang văn với đầy đủ
những gì chân thật nhất của người nông dân - người nông
dân bị đói khát: “Chiếc áo vắt trên vai , dường như mỏi
mệt, vật vã của buổi chiều đè nặng trên cái lưng to của
hắn”. Ôi tiếng “hắn” cái tiếng xưng gọi mà ta đã quen
thuộc ở Chí Phèo của Nam Cao nay lại hiện lên trước mắt
: “Hắn ngồi khóc, khóc rồi chửi, hắn chửi ai? Hắn chửi đời,
chửi giời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những thằng cha
mẹ nào đẻ ra hắn ” Tiếng hắn vẻn vẹn vậy thôi, ghê tởm
ư? Thù ghét ư? Khinh bạc ư?

Không ! Cả hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao đều gợi lên
tiếng hắn với tất cả niềm đau xót, thương cảm ,trân trọng.

Ai đã một lần đọc Vợ nhặt,làm sao không xúc động và có
thể quên đựơc một nhân vật - bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng.

Không biết được chuyện con mình – Tràng - nhặt đựơc vợ
mang về tâm trạng của cụ diễn biến thật phong phú, phức
tạp. Trong những ngày tháng bị cái đói bất hạnh, bà thấu
hiểu. Bà rất ý thức về việc dựng vơ, dựng chồng cho con
mình “phải làm thế này, thế nọ”. Nhưng trời ơi “ cái khó bó
cái khôn”. Con người ta có thấu hiểu cái lo lắng đến đâu
thì cũng chỉ là con số không. Bởi vậy, cụ Tứ chỉ biết nghĩ
“tủi thân, tủi phận” mà thôi. Bà thương con mình rồi
thương con dâu. Cun nhìn người đaà bà lòng đầy thương

xót. Hỡi ơi ! Có ai thấu hiểu cho cụ không ? Tình thương
yêu, sự đồng cảm, chịu đựng hoàn cảnh không chỉ riêng
ai – cái đói cái khát – đã khiến lòng cụ không nghĩ gì khác,
lờn nói đầy xúc động của cụ “Chúng mày lấy nhau lúc
này” thương quá ! Sao nó mặn mà , sâu đậm đến
vậy.Hoàn cảnh đói khát đến chết người vậy mà nổi lên cái
nền ấy một khối đầm ấm yêu thương làm sao, có lẽ truyền
thống ngàn đời của dân tộc “Thương người như thể
thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” đựơc Kim Lân gửi
gắm qua những trang văn xúc động này.

Việc Tràng đã có vợ vừa là niềm vui, vừa là nỗi lo của bà
cụ Tứ. Có cha mẹ nào không sung sướng, hạnh phúc khi
con cái của mình đủ lông đủ cánh trải qua thời niên thiếu
nay trưởng thành đã có vợ có chồng Còn lo là lo vì hoàn
cảnh hiện tại từ trước đến giờ chỉ có hai mẹ con, nạn đói
hoành hành vốn đã khó đủ ăn nay thêm một miệng ăn lại
càng khó khăn vất vả thêm. Tuy vậy, niềm vui vẫn là phần
nhiều “khuôn mặt bủng beo của bà rạng rỡ hẳn lên”, “bà
cụ nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai sau này”, bà cố
giấu nỗi lo để cho con dâu được vui vẻ. Tuy vậy bà vẫn
“nghẹn” lời. Bà vẫn tin tưởng ở con, ở tương lai rạng rỡ
hơn. Một câu nói đầy tự tin cảu cụ “Tụi mày ráng bảo
nahu mà làm ăn may ra trời cho khá hơn không có ai
giàu ba họ có ai khó ba đời đâu”. Quả là một sự tin tưởng
hoàn toàn khách quan, có căn cứ, khó khăn rồi nhất định
sung sướng, hạnh phúc. Nếu nói như Hồ Chí Minh trong
Trời hửng thì cũng chẳng khác nào : Hết mưa là hửng
nắng lên thôi, hết khổ là vui vốn lẽ đời. Vì thực tế là như
vậy, hình ảnh lá cờ đỏ tung bay cùng với đám người cướp

kho thóc ở cuối truyện cũng hiện lên trong tâm trí Tràng
đã mở ra một số phận nhân vật một khung trời mới đi làm
cách mạng với những thắng lợi vang dậy non sông như
Cách mạng tháng Tám, Điện Biên Phủ sau này.

Với cách dựng truyện độc đáo, xây dựng nhân vật với sự
chuyển biến tâm lí, tinh tế Kim Lân đã thành công đáng kể
với truyện ngắn Vợ Nhặt. Có thể với nhân vật, tình tiết câu
chuyện đi qua số phận nhân vật là sự mở đầu cho ý thức
đấu truanh, giác ngộ cách mạng. Dù chỉ thông qua một vài
câu nói đến “lá cờ đỏ’, “Việt Minh” nhưng Kim Lân đã
thành công được và không để cho số phận nhân vật mình
tối tăm bế tắc như chị Dậu – anh Pha như Chí Phèo, anh
kép Tư Bền trước đó.

Tóm lại , đồng cảm với Kim Lân, xót thương, cảm thông
cho những con người trong Vợ nhặt, ta hãy hát cùng Tố
Hữu ca khúc vốn là truyền thống của dân tộc Việt Nam
ngàn đời:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau.

×