Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Kiến thức lớp 12 "Ông già và biển cả" - Ernest Hemingway –phần5 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 16 trang )

Kiến thức lớp 12

"Ông già và biển cả" - Ernest
Hemingway –phần5
Về nguyên lý “tảng băng trôi” của Ernest Hemingway
Những phát biểu dưới nhiều hình thức khác nhau của
Ernest Hemingway về sáng tác đã thực sự được các nhà
phê bình nghiên cứu về sáng tác của chính tác giả, Harry
Levin, Joseph Warren Beach rồi Frederic I Carpenter (1)
tìm cách lý giải chiều thứ ba, thứ tư, thứ năm trong cấu
trúc văn xi đa chiều của E.Hemingway là xuất phát từ
chính ý kiến của tác giả về thứ “văn xi khó hơn rất
nhiều so với thơ ca và chưa từng được viết ra nhưng có
thể được viết ra và chẳng cần đến xảo thuật cùng sự
đánh tráo nào cả” trong những ngọn đồi xanh châu Phi


(Green Hills of Afica, 1935), và trong chính tác phẩm này
cũng như trong các bài phỏng vấn, truyện ngắn, tiểu
thuyết, cách E.Hemingway hay nhân vật của ông đánh giá
thứ văn chương hùng biện hoặc nêu ý kiến về câu chữ…
đã giúp cho các nhà phê bình, nghiên cứu định hướng
trong quá trình nghiên cứu về phong cách E.Hemingway
(2).

Những cách làm như thế là hoàn toàn sáng rõ về phương
diện thao tác và phương pháp trong chừng mực nhà
nghiên cứu tránh cắt xén và coi các phát biểu của tác giả
chỉ đơn thuần là cái cớ mà những phát biểu là tuỳ thuộc
cách biện giải của nhà nghiên cứu, mặc dù những phát
biểu của nhà văn đôi khi không thể thâu tóm hết những


vấn đề sáng tác của chính bản thân. Đó là chưa kể, đơi
khi, cách nói của E.Hemingway lại mang tính đa nghĩa bất


ngờ, ví dụ một đoạn trong những ngọn đồi xanh châu Phi:

“Hãy cho biết cái gì, những thứ thực tế và cụ thể ấy, gây
hại cho nhà văn ?”

Tôi mệt mỏi về cuộc trao đổi đã ra chiều phỏng vấn. Thế
nên tơi đẩy nó thành cuộc phỏng vấn cho xong chuyện và
xin chào. Cần thiết phải đẩy một ngàn chuyện bất khả tri
vào một câu trong lúc này, ngay trước bữa ăn trưa, là rất
sinh tử:

“Chính trị, phụ nữ rượu chè, tiền bạc, tham vọng, và thiếu
chính trị, phụ nữ, rượu chè, tiền bạc và tham vọng”. Tơi
nói một cách sâu sắc.

Và sau khi đã đi trọn một đời văn, đã đạt đến đỉnh cao


vinh quang của nghiệp văn, Hemingway nhìn lại sáng tác
của mình mà đánh giá. Chính bấy giờ, trong bài phỏng
vấn do Geoge Plimpton (3) ghi. Hemingway đã nói về hình
ảnh “tảng băng trơi” một phần nổi bảy phần chìm như thứ
nguyên lý (principle) sáng tác của ông, và từ đấy, “tảng
băng trôi” trở đi trở lại trong nhiều bài viết về
E.Hemingway, đặc biệt ở Việt Nam.


Chúng ta tiếp cận ý kiến này của E.Hemingway khi nghiên
cứu về sáng tác của ông, theo chúng tôi, ít nhất xuất phát
từ hai lẽ. Thứ nhất, những phát biểu của E.Hemingway về
sáng tác và về sáng tác của chính mình sáng rõ một cách
hàm ẩn vì thế đặc biệt cuốn hút các nhà nghiên cứu; hơn
nữa vấn đề nguyên lý “tảng băng trôi” về thời điểm xuất
hiện và về nội hàm của nó như mang ý nghĩa tổng kết
sáng tác của nhà văn về phương diện lý luận. Thứ hai,


điều này thực sự thú vị vì liên quan đến tiềm thức phương
Đông về văn chương, là nguyên lý “tảng băng trôi” của
E.Hemingway bất ngờ giống đến độ như trùng khít với
quan niệm của chúng ta về văn chương (cổ), đặc biệt, về
thơ, và chúng ta thường dành cho thơ: ý tại ngôn ngoại,
điểm –diện, nhất điểm –vạn điểm, một góc – ba góc, q
hồ tinh bất q hồ đa… Chính điểm thứ hai này dễ khiến
chúng ta tiếp nhận nguyên lý “tảng băng trôi” của
E.Hemingway một cách đơn giản. Chúng ta dễ dàng đẩy
thao tác chọn lựa, thồi ảo trong quan niệm phương Đông
(về thơ) vào thao tác loại bỏ (omit, eliminate) trong quan
niệm của E.Hemingway về văn xuôi (prose) của ơng. Từ
đó các nhà nghiên cứu đi tìm những biểu hiện của nguyên
lý này ở nhiều phương diện khác nhau: ngôn ngữ và
giọng điệu của tác phẩm, vấn đề xây dựng hình tượng
nhân vật… và coi những biểu hiện này chủ yếu thuộc


phương diện hình thức nghệ thuật, thậm chí có lúc coi
nguyên lý “tảng băng trôi” là một phương diện trong nhiều

phương diện khác nhau của nghệ thuật văn xuôi
E.Hemingway như “miêu tả tâm lý”, “bút phán đối thoại và
độc thoại”… Những khám phá như vậy, ví dụ vấn đề liên
văn bản, giọng điệu mỉa mai và tượng trưng, hiện tượng
lặp từ hay hình ảnh, ngơn ngữ đối thoại giản dị, rời rạc…,
là hoàn toàn xác đáng nhưng chỉ mới dừng lại ở cấp độ
hình thức biểu hiện, “phương pháp viết” hay “quan niệm
về sáng tạo nghệ thuật và biểu hiện”.

Chúng tôi quan tâm đến nguyên lý “tảng băng trôi” của
E.Hemingway theo hướng khác như một đặc điểm thi
pháp có tính hệ thống, quan niệm trong sáng tác của
E.Hemingway chuyển tải quan niệm của nhà văn về con
người và thế giới.


Điều khá hiểm hóc và tạo nhiều hiểu lầm lại xuất phát từ
chính hình ảnh q sáng rõ của bảy phần chìm và một
phần nổi của “tảng băng trơi” và do đó dễ đẩy chúng ta
đến khái niệm mạch ngầm văn bản theo hướng chúng tơi
đã nói ở trên. Thực ra, trước khi phát biểu về nguyên lý
“tảng băng trôi”, E.Hemingway đề cập đến chuyện quan
sát của nhà văn nhân gợi lại chuyện ơng gặp người phụ
nữ có thai rồi ngay buổi chiều hôm ấy viết truyện ngắn.
Những quả đồi tựa như những con voi trắng, bỏ cả cơm
trưa. Sau đây là trọn đoạn trả lời (có đề cập đến ngun lý
“tảng băng trơi”) của E.Hemingway:

Phóng viên: Thế là khi ông không viết, ông vẫn là người
quan sát, chờ đợi một thứ gì đó có thể sử dụng được.



E.Hemingway: Chắc vậy. Nhà văn mà không quan sát là
hết đời. Nhưng anh ta không phải cố ra mà quan sát và
khơng nên nghĩ là điều gì quan sát được sẽ hữu ích ra
sao. Có thể là thời tập tễnh viết thì như vậy. Nhưng về
sau thì mọi thứ anh ta nhìn thấy sẽ hồ vào kho dự trữ lớn
những điều anh ta đang biết hoặc đã gặp. Nếu biết điều
quan sát được chút gì lợi ích, tơi ln ln cố gắng viết
theo ngun lý tảng băng trơi. Có bảy phần tám tảng băng
trôi dưới nước để cho (ĐNC nhấn mạnh) một phần lộ ra.
Thứ gì anh ta biết có thể bỏ đi và điều đó chỉ làm tảng
băng trơi của anh thêm mạnh mẽ. Đó là phần khơng lộ ra.
Nếu nhà văn bỏ đi một vài thứ bởi vì anh ta khơng biết
chúng thế là có một lỗ hổng trong câu chuyện.

Ơng già và biển cả có thể dài trên một ngàn trang và có
đủ mặt nhân vật trong làng cùng đủ mọi cách kiếm sống,


ra đời, học hành, sinh con đẻ cái… Điều đó được hoàn tất
một cách xuất sắc bởi những nhà văn khác. Trong chuyên
viết lách anh thường phải quẩn quanh trong thứ đã được
thực hiện thỏa đáng. Vì thế tơi phải cố gắng học làm một
vài điều khác. Trước hết tôi phải cố gắng bỏ đi tất cả
những thứ không cần thiết để chuyển tải kinh nghiệm đến
người đọc, nhờ vậy sau khi bạn đọc nam nữ đã đọc được
điều đó thì nó sẽ trở thành một phần kinh nghiệm của họ
và như là thực sự xảy ra. Điều này rất khó làm và tơi đã
cật lực thực hiện.


Bỏ qua chuyện ấy được thực hiện như thế nào, dẫu sao
lần này tơi có được cơ may khó tin và có thể chuyển tải
kinh nghiệm một cách trọn vẹn và đó là thứ kinh nghiệm
mà chưa ai từng chuyển tải. Cơ may là thế này: tơi đã tóm
được một người đàn ơng đáng mặt và một đứa bé trai


ngon lành và gần đây các nhà văn đã quên rằng vẫn đang
có những thứ như thế. Cả biển cả cũng đáng được viết
như người vậy. Thế là nơi đó tôi gặp may. Tôi đã từng
gặp ông bạn cá đao và biết rõ điều đó. Thế là tơi bỏ đi. Tôi
đã từng chứng kiến một đàn năm mươi con cá nhà táng
trong cùng một luồng nước và có lần phóng lao vào một
con dài 60 feet và để mất. Thế là tôi bỏ đi. Tất cả những
câu chuyện biết từ cái làng chài tôi đều bỏ đi. Nhưng kiến
thức là thứ làm nên phần chìm của tảng băng trơi.

Ngun lý “tảng băng trôi” như vậy liên quan đến một loạt
vấn đề: quan sát, kiến thức, kinh nghiệm, loại bỏ, tính dân
chủ của sáng tác, lỗ hổng của tác phẩm… đặc biệt mối
quan hệ giữa phần nổi với phần chìm. Thật ra tất cả
những vấn đề ấy có mối quan hệ mật thiết trên cơ sở loại
bỏ. Ít nhất, trong lần phỏng vấn này, Hemingway trước đó


đã nói đến thao tác này trong mối quan hệ với kiến thức,
lỗ hổng của tác phẩm, phần chìm, phần nổi: “Cái gì anh có
thể bỏ được là anh biết rõ anh vẫn đưa được vào tác
phẩm và chất của nó sẽ lộ ra. Khi nhà văn bỏ qua những

thứ mà mình khơng biết thì chúng sẽ bài ra những lỗ hổng
trogn tác phẩm”. Và sau đó: “Thứ gì anh biết anh có thể
bỏ đi và điều đó chỉ làm tảng băng trơi của anh thêm
mạnh mẽ. Đó là phần không lộ ra. Nếu nhà văn bỏ đi một
vài thứ bởi vì anh ta khơng biết chúng thế là có một lỗ
hổng trong câu chuyện”.

Cơ sở của “loại bỏ” là kiến thức, kiến thức viên mãn về
một vấn đề nào đó trong kho dự trữ lớn lao mà nhà văn có
được. Nếu khơng, sẽ khơng phải là phần chìm mà là lỗ
hổng. Với thao tác lược bỏ này, E.Hemingway đặc biệt
quan tâm đến phần chìm; trong khi đó với thao tác lựa


chọn, chúng ta dễ hướng tới phần nổi. Điều này giúp lý
giải hiện tượng ngôn ngữ trong tác phẩm E.Hemingway.

Trong bài phỏng vấn đã nêu, rất nhiều lần E.Hemingway
đề cập đến kiến thức và nhiều dạng kiến thức: kiến thức
xác thân, kiến thức riêng, kiến thức khách quan, kiến thức
không thể giải thích được như thứ kinh nghiệm về gia
đình, chủng loại đã bị quên lãng, đồng thời ông cho rằng
hoạt động sáng tác (theo cách hiểu của chúng ta) là hoạt
động phát minh (invent), làm ra (make) từ kiến thức, kinh
nghiệm và hiểu biết về hiện thực, thế giới. Những điều đó
cho chúng ta thấy rằng sáng tác và hoạt động sáng tác
của E.Hemingway, nhìn từ góc nhìn của chính tác giả, gắn
bó với nhận thức hiện thực và điều đó là nguyên tắc. Xuất
phát từ việc loại bỏ những gì đã biết rõ về hiện thực, thế
giới trên cơ sở toàn bộ những kiến thức kinh nghiệm, hiểu



biết về thế giới, nguyên lý “tảng băng trôi” tạo nên một
hiệu quả nghệ thuật trên người đọc, thực hiện q trình
dân chủ hố hoạt động sáng tác và tiếp nhận khi chuyển
tải kinh nghiệm như một quan niệm bản thân về thế giới
đến người đọc. Và như thế bản thân hình ảnh “tảng băng
trơi” (bảy phần tám dưới nước cho một phần lộ ra) kia
khơng phải là hình thức biểu hiện như hiện tượng hàm
súc là hình thức biểu hiện cảm xúc trong thơ (cổ) mà là
hình thức cảm nhận (cảm thức) hiện thực, thế giới chủ
yếu trong văn xi (của E.Hemingway).

Từ đây chúng ta có thể nhận ra mối quan hệ giữa thao tác
lược bỏ với các biểu hiện của hình thức cảm nhận hiện
thực hay cảm thức hiện thực (ngun lý “tảng băng trơi”)
của E.Hemingway. Đó là hiện tượng khoảng trắng trong
đối thoại và độc thoại; hiện tượng lắp ghép, lặp lại, phiến


đoạn trong kết cấu ở nhiều cấp độ; hiện tượng phi cốt
truyện hay cốt truyện bên trong của cốt truyện; hiện tượng
liên văn bản trong cách đọc văn bản tác phẩm; hiện tượng
đa giọng một cách đặc biệt trong ngôn ngữ; hiện tượng
chất thơ trong lời văn… Bởi vì những biểu hiện như vậy
đều gắn bó với hình thưc cảm nhận hiện thực, con người:
tảng băng trơi, bảy chìm một nổi. Con người cô đơn, xa lạ
vừa như đang cố giấu mình vừa như đang tìm nhau; con
người bao giờ cũng như vừa sống hết mình lại vừa phải
nén lại, theo đuổi một điều gì rất riêng như một nỗi ám

ảnh. Kiểu nhân vật con người ấy trong hiện tượng liên văn
bản có khi là sự tiếp nối của một nhân vật, (4). Nhân vật
luôn luôn đi trên đường trong từng tác phẩm và luôn luôn
đi trên đường trong một chuỗi tác phẩm từ sự thúc đẩy
của thứ tinh thần thời đại, làm một cuộc phiêu lưu mà
cuộc đời là hành trình và là đích tới của nhân vật.


Trong bài viết ngắn này, chúng tôi chỉ nhằm làm sáng tỏ
nguyên lý “tảng băng trôi” của E.Hemingway không thuộc
phạm vi hình thức biểu hiện và là một hình thức cảm nhận
hiện thực (cảm thức hiện thực), một đặc điểm thi pháp
sang tính hệ thống và quan niệm trong sáng của
E.Hemingway; chứ không đề ra mục tiêu lý giải, miêu tả
và chứng minh những biểu hiện của hình thức cảm nhận
hiện thực ấy cũng như mối quan hệ giữa những biểu hiện
ấy với quan niệm về con người và thế giới của
E.Hemingway. Nhưng những khái quát trên đây về những
điểm vừa nêu có thể gợi lên những điểm đáng quan tâm,
mới mẻ về thế giới nghệ thuật của Ernest Hemingway.
-----------------------------Chú thích:
(1) Xin đọc: Harry Levin, “Observations on the style of


Ernest Hemingway” và Frederic I. Carpenter, “Hemingway
Achieves the Fifth Dimension” trong Hemingway and His
Critics, Hill and wang. Inc, NewYork, 1961.
(2) Xin đọc: Harry Levin; SID, Andre’ Maurois, “Ernest
Hemingway”, SID; Earl H.Rovit, “Ernest Hemingway: The
Sun Also Rises, “Landmarke of American Writing, Forum

Lectures, USA, 1970.
(3) George flimpton, “An Interview with Ernest
Hemingway”, SID. Những đoạn trích đều do chúng tơi dịch
từ bài này.
(4) Xin đọc: Philip Young, Ernest Hemingway, NewYork,
1952.



×