Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Kiến thức lớp 11 Thương vợ - của Tú Xương-phần 1 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.76 KB, 29 trang )

Kiến thức lớp 11
Thương vợ - của Tú Xương
BÌNH GIẢNG BÀI THƠ THƯƠNG VỢ CỦA
TÚ XƯƠNG
Chúng ta đã từng biết đến một Khuê ai lục của Ngô
Thì Sỹ khóc người vợ yêu qua đời giữa lúc đầu xanh
tuổi trẻ, một Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du
thương tiếc người vợ đã khuất, những câu thơ dứt
ruột của Tự Đức và trước Tú Xương một chút là câu
đối khóc vợ chứa chan tình người của Nguyễn
Khuyến.

Chúng ta đã từng biết đến một Khuê ai lục của Ngô Thì Sỹ
khóc người vợ yêu qua đời giữa lúc đầu xanh tuổi trẻ, một
Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du thương tiếc người
vợ đã khuất, những câu thơ dứt ruột của Tự Đức và trước
Tú Xương một chút là câu đối khóc vợ chứa chan tình
người của Nguyễn Khuyến. Các nhà thơ trung đại Việt
Nam viết về vợ mình không nhiều, mà chủ yếu lại là văn
tế và câu đối khóc người đã khuất. Chỉ có một số nhà thơ
như Cao Bá Quát, Bùi Hữu Nghĩa, Phạm Văn Nghị là có
viết về vợ mình ngay lúc đang sống. Nhưng viết nhiều
nhất và hay nhất, mà lại là về một người vợ đang còn hiện
hữu trên đời thì có lẽ Trần Tế Xương (1870 - 1907) là tác
giả tiêu biểu hơn cả. Và nếu có làm văn tế thì cũng là Văn
tế sống vợ (!),không phải để tiếc thương mà để cười
thương ngợi ca người bạn đời của mình.k
Tú Xương có rất nhiều khác biệt với các tác giả trước ông.
Nhà thơ này của làng Vị Xuyên là con người của buổi giao
thời, là dấu nối đầy ấn tượng giữa nền văn học trung đại ở
giai đoạn cuối chiều nhưng lại kết tinh tinh hoa của hàng


nghìn năm với nền văn học cận hiện đại đang bắt đầu có
dấu hiệu hình thành với bao điều mới mẻ. Trên đầu Tú
Xương không còn những áp lực nặng nề của tư tưởng và
quan niệm chính thống khắt khe đã quy định các tác giả
trước ông, trong ông nhiều giá trị của quá khứ đang từng
bước sụp đổ và cái mới thì chưa kịp tới. Quan niệm của
một nhà thơ trào phúng cũng giúp ông tiếp cận cuộc đời
theo một kiểu khác, gần hơn, với một kiểu tư duy nghiêng
về phân tích, mổ xẻ đối tượng, đưa vào trong thơ nhiều
hình ảnh sống động hơn, quan niệm thẩm mỹ cũng biến
đổi hướng về thực tại. Điều đó tạo cho ông những khoảng
không sáng tạo quan trọng, giúp ông khác với truyền
thống.

Thơ Nôm Đường luật đến Tú Xương đã trải qua một thời
gian phát triển khá dài, nó liên tục được cách tân từ thời
Nguyễn Trãi, và tác giả Thương vợ chính là người đã đem
đến cho thể loại văn học đã được Việt hóa cao độ này
những phá cách mới mẻ giàu giá trị nghệ thuật. Đây là
một bài thơ Nôm, viết theo thể thất ngôn bát cú Đường
luật, có kết cấu theo trình tự đề, thực, luận, kết, ông Tú
viết để tặng người vợ tảo tần mưa nắng của mình.

Trần Tế Xương chủ yếu là một nhà thơ trào phúngT, trào
phúng chuyên nghiệp. Những bài thơ nghiêng về trữ tình
như Sông Lấp, Áo bông che bạn, Thương vợ không nhiều,
nhưng bài nào cũng xuất chúng. Thương vợ lại tiêu biểu
cho sự hòa hợp giữa hai phẩm chất nghệ thuật nổi bật
trong sáng tác của ông: trào phúng và trữ tình, trong đó
trữ tình là chính, là cơ bản. Bà Tú là một đề tài khá quen

thuộc trong thơ Tú Xương, hình ảnh bà đã đi vào sáng tác
của ông trong các bài như: Đau mắt, Văn tế sống vợ, Tự
cười mình, Hỏi mình và Thương vợ. Những bài thơ này
cho chúng ta thấy, bên cạnh một Tú Xươn trào phúng sắc
sảo, ngang ngạnh, tinh quái, khác đời là một Tú Xương
khác rất mực đằm thắm, biết tự hạ mình để làm đẹp
người khác. Không phải lúc nào con người ấy cũng chế
giễu, cười người, cay độc mà nhiều lúc ông vẫn để cho
lòng mình sâu lắng lại và bật ra những bài thơ chứa chan
tình cảm, giàu sự suy tư, dằn vặt.

Thương vợ viết về bà Tú nhưng thực ra lại có sự song
hành của cả hai hình tượng: hình tượng bà Tú được thể
hiện một cách nổi bật trực tiếp và hình tượng ông Tú
được khắc hoạ một cách gián tiếp nấp sau người vợ
nhưng vẫn khá rõ nét. Thực chất Tú Xương viết thơ để ca
ngợi vợ và muốn khắc hoạ hình qảnh một ông “chồng
thừa” vô trách nhiệm chứ không hề có ý đề cao mình
nhưng vô hình chung vẫn hiển hiện trong bài thơ một
nhân cách cao đẹp của người chồng và từ đó là một quan
niệm khác biệt về người vợ so với truyền thống.

Tú Xương đã giới thiệu vợ mình một cách thân mật, gần
gũi, hóm hỉnh nhưng ẩn chứa trong đó bao tình cảm và
nỗi niềm dằn vặt, xót xa:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Câu thơ ngắn gọn đã phản ánh một cách cụ thể, chi tiết
không gian, địa điểm và công việc làm ăn của bà Tú. Tên
thật của bà là Phạm Thị Mẫn, quê ở Lương Đường, Hải
Dương, nhưng sinh tại Nam Định. Bà chuyên buôn bán

gạo ở bến sông để nuôi gia đình. Hai từ “quanh năm” nói
lên được nỗi vất vả, tần tảo của bà Tú triền miên hết ngày
này đến ngày khác, tháng này đến tháng khác, năm này
đến năm khác Vòng quay của thời gian vô tận đã cuốn
bà vào cuộc vật lộn mưu sinh đầy vất vả. Cách tính thời
gian như thế vừa nói được nỗi lo toan khó nhọc của bà
Tú, lại vừa là cách ông Tú tỏ lòng biết ơn công lao tần tảo
sớm hôm của vợ mình. Biện pháp tăng cấp ý được sử
dụng để diễn tả sự vất vả, từ thời gian (quanh năm), nghề
nghiệp (buôn thúng bán mẹt), cho đến không gian, địa
điểm làm ăn: “mom sông”. Mom sông là một nơi chênh
vênh, ba bề là nước, nó gợi lên sự nguy hiểm, bất trắc,
vốn không phải là nơi dành để buôn bán bình thường. Bởi
vậy hơn ai hết, Tú Xương hiểu rõ mục đích của nỗi vất vả
đó nơi người vợ:
Nuôi đủ năm con với một chồng
Đôi quang gánh cuộc đời trên vai bà Tú thật quá nặng.
Một mình bà phải nuôi đến sáu miệng ăn, đó là chưa kể
đến chính bản thân mình. Tú Xương không tính bà vào
thành phần phải “nuôi đủ” là chính đáng, do bà là người
làm ra của cải cưu mang cả gia đình, nhưng cũng là một
cách đề cao bà, ngầm xếp bà ra một thứ bậc khác. Đây là
cách tính công, đề cao công lao của vợ một cách chi li, rất
mực ân tình của Tú Xương. Mẹ nuôi con mà không có
chồng giúp sức, tuy vất vả nhưng còn là chuyện thường
tình, dẫu sao cũng là thiên chức của người phụ nữ. Điều
lạ là cả đến ông Tú bà cũng phải nuôi. Quả thực đây là
một sự vô lý, bất công khi gánh nặng gia đình dồn hết lên
vai người vợ. Tú Xương đã tách ra làm hai cái gánh nặng
ấy: năm con với một chồng, để thấy rõ cái công ơn của bà

với gia đình và với riêng ông. Nhưng gánh nặng dường
như nghiêng lệch, trĩu nặng hơn về một bên, phía một
mình ông chồng vô tích sự nhưng lại đa sự nhiều hơn
năm đứa con thơ, khiến câu thơ cũng như oằn hẳn về
phía cuối. Cách kể công cho vợ như vậy thật là độc đáo,
thật là Tú Xương. Nhà thơ đã tự hạ mình xuống mức thấp
hơn cả lũ con, đứng riêng ra một bên, vì ông là một thứ
chồng đặc biệt mà bà Tú phải nuôi riêng. Liên từ “với”
nghe thật buồn, thật hài hước, thật hổ thẹn và thảm hại.
“Nuôi đủ” ông không chỉ là đảm bảo những nhu cầu như
một người bình thường mà còn là đủ thứ cao sang tốn
kém, đủ cả mọi đòi hỏi sở thích ăn chơi đàn đúm của ông:
Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao lâu biệt vị, hồng lâu biết mùi.
Nuôi một người ăn chơi phong lưu “ngựa xe chẳng có lúc
nào ngơi”, nổi tiếng có “nòi tình”, lại còn suốt đời theo đòi
thi cử công danh như vậy thật khác hẳn với việc nuôi con,
và có lẽ còn tốn kém hơn cả năm đứa con thơ. Theo quan
niệm truyền thống thì kẻ làm trai phải để chí ở công danh,
sự nghiệp, thông qua con đường khoa cử làm quan, còn
chuyện bếp núc gia đình thì phó mặc cho người phụ nữ.
Đã có biết bao thầy đồ nghèo nhờ vợ tảo tần cơm áo mà
thành danh. Xã hội ấy có biết bao “ông quan ăn lương
vợ”, biết bao ông chồng ăm bám mà vẫn lên mặt hành hạ
vợ con. Thói gia trưởng, sĩ diện khiến cho mấy ai dám hạ
mình nói thẳng, nói thật cái hoàn cảnh ăn bám, vô tích sự
của mình. Nhưng đã có một Tú Xương đầy dũng cảm
dám vất bỏ cái nếp nghĩ cổ hủ đề cao người đàn ông,
khinh rẻ người phụ nữ, dám bêu ra trước thiên hạ những
kém cỏi, sĩ diện hão đó để tôn vinh công lao người vợ, để

sống thật với những cảm xúc, suy nghĩ của chính mình.
Sự khác đời, khác với với truyền thống của nhà thơ chính
là ở chỗ đó. Những người khác cho đó là chuyện thường
tình, chuyện tất yếu, còn Tú Xương nhận thức rõ ràng về
sự thừa ra, vô lý của mình. Mặc cảm “con người thừa” là
mặc cảm của thế hệ Tú Xương, đã rõ nét từ Nguyễn
Khuyến (Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe / Tưởng
rằng đồ thật hóa đồ chơi; Nghĩ mình cũng gớm cho mình
nhỉ / Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng), nhưng lại càng
rõ nét hơn, hiện thực hóa hơn ở nhà thơ thành Nam, ông
đã đẩy “con người thừa” thành con người nhỏ bé thảm hại
và không ngần ngại phủ định mình, tầm thường hóa bản
thân mình ở mức thấp nhất. Trước ông chưa có một nhà
thơ nào vượt qua nổi ý thức tự trọng của một nhà nho để
bày ra trước mọi người những hạn chế của mình. Nhưng
đó dường như không phải chủ đích của ông. Điều ông
muốn thể hiện khi dám vất bỏ cái sĩ diện hão của kẻ “dài
lưng tốn vải ăn no lại nằm” chính là xuất phát từ lòng tri ân
với người vợ đã hết lòng vì ông, biết đền bù lại bằng cái
tình, bằng tấm lòng trân trọng, biết ơn nỗi vất vả mệt nhọc
của bà. Nói lên được điều đó đối với một người chồng
trong một xã hội coi thường người phụ nữ thật không phải
điều dễ dàng. Tấm lòng ấy thật đáng yêu, đáng trân trọng
biết bao! Câu thơ tả thực chất chứa ý vị tự trào mà lại cay
đắng, xót xa, cười ra nước mắt.

Vẻ đẹp của người vợ càng được biểu hiện một cách cụ
thể qua những chật vật, bon chen trong cảnh làm ăn vất
vả, tội nghiệp hàng ngày:


Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Các nhà nghiên cứu đã nói về việc Tú Xương đã mượn
hình ảnh con cò trong ca dao xưa để nói về nỗi vất vả đơn
chiếc và sự chịu thương, chịu khó, hi sinh thầm lặng của
bà Tú:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
So với ca dao, câu thơ của Tú Xương có nhiều cái mới.
Cái mới thứ nhất là việc đưa động từ “lặn lội” lên đầu câu,
khiến câu thơ trở nên có sức nặng hơn khi khắc sâu nỗi
vất vả đơn chiếc của bà Tú giữa cái rợn ngợp của không
gian. Cái mới thứ hai, cũng là sáng tạo mang tính chất
thời đại, là sự tiếp tục của chủ nghĩa nhân đạo vì con
người và phát hiện ra con người của văn học thế kỷ XVIII
- XIX, khi nhà thơ chuyển từ “con cò” trong ca dao thành
“thân cò” để chỉ cả một kiếp người, nhấn mạnh đến thân
phận người phụ nữ. Chữ “thân” luôn gợi cảm giác nhỏ bé
tội nghiệp, bơ vơ chịu đựng. Nữ sĩ Xuân Hương khi xưa
đã từng ngậm ngùi viết:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Ở người phụ nữ xưa, “thân” luôn gắn với “phận”, chính vì
vậy mà thi hào Nguyễn Du đã bao lần phải thốt lên:
Đau đớn thay phận đàn bà
Và nàng Kiều của ông trong những tháng ngày nhơ nhuốc
đã phải tạm cúi đầu chấp nhận số phận:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.

Những vấn đề xã hội về thân phận con người đến Tú
Xương đã trở nên gần gũi hơn khi nhà thơ nhận thấy điều
đó hiện hữu ngay trong những người thân của mình và
ám ảnh trong chính bản thân mình, một kẻ lỡ thời vô tích
sự. Điều thứ ba là nếu trong ca dao mới chỉ có cái heo hút
của không gian thì “thân cò” trong thơ Tú Xương còn ở
giữa sự rợn ngợp của thời gian. “Khi quãng vắng” khác
với “nơi quãng vắng”, “ở quãng vắng”, nó diễn tả được cả
cảm giác đơn lẻ đầy hiểm nguy về không gian và nỗi khắc
khoải côi cút về thời gian của sự vất vả, tảo tần.
Ta như thấy đằng sau mỗi câu chữ là ánh mắt lo âu đầy
ăn năn tự vấn của người chồng đang dõi theo bóng dáng
lẻ loi, lam lũ của người vợ trên con đường gập gềnh
sương gió, giữa thời buổi của sự bon chen và tình đời bạc
bẽo:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Đó thực sự là cuộc chiến âm thầm và dai dẳng giữa kì
kèo, đôi co, chen chúc, bất chấp cảnh “đò đầy” để giành
giật miếng cơm manh áo cho con, để đổi lại sự thong
dong nhàn nhã cho chồng. Chuyến đò đầy gian nan nguy
hiểm đó giống như chính cuộc đời đầy vất vả của bà Tú
vậy: biết đò đã đầy, chất chứa bao hiểm nguy, văng vẳng
bên tai lời mẹ dặn “đò đầy chớ qua” mà vẫn cứ phải dấn
thân, phải bước tới, phải vật lộn. Hai từ láy “lặn lội”, rồi “eo
sèo” được đảo lên đầu câu càng như nhấn mạnh thêm nỗi
cực nhọc, lam lũ trong bươn trải kiếm sống của người phụ
nữ này.

Phải nói rằng, nghệ thuật bình đối trong hai câu thực đã
góp phần quan trọng vào việc dựng lại chân dung con

người cả về thể chất lẫn tinh thần và công cuộc làm ăn
kiếm sống không một phút ngơi nghỉ trong mọi bối cảnh
gian khó của bà Tú. Hai câu thơ cũng dựng lại không khí
và khung cảnh buôn bán của thành Nam một thời. Thơ
thất ngôn bát cú có kết cấu chặt chẽ nhưng nghệ thuật
bình đối và việc chọn lọc từ ngữ tinh giản đã giúp cho
những hình ảnh được xây dựng từ đây có sức gợi tả nổi
bật. Tài năng của Tú Xương là ở chỗ đã đưa được vào
trong thể thơ gò bó này rất nhiều chi tiết chân thực và sinh
động từ cuộc sống một cách rất tự nhiên. Việc tận dụng
một cách triệt để những thế mạnh của thể thơ đã khiến
cho mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh đều trở nên chói sáng mà
nhịp thơ vẫn phát triển hài hòa, nhịp nhàng. Tinh hoa của
một thể thơ phát triển và dân tộc hóa đã gần một nghìn
năm được kết tinh lại trong một con người, trong một bài
thơ. Thương vợ chính là dấu nối giữa hai thế kỷ thơ Việt,
nối truyền thống với hiện đại.

Nếu ở hai câu đề và hai câu thực, nhà thơ còn đứng
ngoài để miêu tả, thì đến hai câu luận Tú Xương đã nhập
thân vào nhân vật để diễn tả một cách chân tình nỗi niềm
sâu kín của bà Tú. Người chồng đầy tình nghĩa này đã
phân thân ở nhiều điểm nhìn khác nhau để nhìn cho thấu,
cho hết công lao thầm lặng của người vợ:

Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Ông bà lấy nhau đã có tới năm mặt con kể ra cũng là một
mối lương duyên “trời” ban. Ông Tú lại lại là người có tài

có tình. Bà đã từng khen thơ ông “Chẳng hay sao lại đỗ
ngay tú tài” và đôi lúc cũng được “nở mặt nở mày” với đời
vì ông. Nhung duyên thì có một mà nợ lại những hai.
Niềm cay cú của ông đối với việc thi cử và kéo theo đó là
cái nghèo đeo đuổi đã khiến bà phải lăn lộn kiếm sống.
Thêm vào đó ông lại là một kẻ khác đời, dở người và
những “thói hư, tật xấu” cứ theo đuổi ông suốt cuộc đời.
Nói đến “nợ” là nói đến sự đau khổ, xui xẻo phải gánh
chịu. Ông Tú tự nhận mình là cái “nợ” của đời bà, ông
thương cảm cho bà và tự dằn vặt mình. “Âu” là cam,
“đành” cũng là cam, hai lần cam chịu. “Âu đành phận”
giống như một cái gật đầu nhẫn nhục chịu đựng, cái nợ
đời như một sự tất yếu không thể không chấp nhận. Điều
kỳ diệu là người mẹ, người vợ đó không hề ý thức rằng đó
là sự hy sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam khác, bà
làm mọi việc một cách tự nhiên, nhi nhiên, âm thầm,
không hề đòi hỏi, oán trách. Dám quản công vừa là thái
độ không hề ngần ngại, lại vừa chứa đựng cả cái ý khiêm
nhường, không muốn nhắc đến sự khó nhọc của mình.
Cách nói cam chịu số phận là cách ông Tú cảm thương
thay cho vợ chứ bà đâu có tính đếm công lao của mình.
Hình tượng bà Tú như càng trở nên vị tha, nhân hậu hơn
qua mỗi dòng thơ. Tú Xương cũng rất có tài dùng số từ để
làm tăng giá trị của hình ảnh, câu chữ. Lúc đầu là số cộng
(năm con với một chồng) nhưng số cộng này khá đặc biệt
ở chỗ: cộng thêm một cách có lợi cho vợ bằng cách trừ đi
(kể ra) những cái vô tích sự của chồng. Cái cộng đó
tưởng như là “thừa” ra mà thực chất là thêm vào. Tiếp
theo là sự nhân đôi (một duyên hai nợ, năm nắng mười
mưa) cũng là những phép toán nhấn mạnh sự thiệt thòi,

vất vả và công lao không thể nói hết bằng lời của bà Tú.
Ngôn ngữ lời nói, thành ngữ dân gian được vận dụng linh
hoạt, tự nhiên khiến cho những tính toán đó không hề gây
ấn tượng là những con số thuần túy.

Ở sáu câu thơ đầu, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh
người vợ trong vất vả gian lao vẫn sáng ngời những phẩm
chất tốt đẹp và đức hy sinh, nhẫn nại thầm lặng của người
phụ nữ Việt Nam. Và thấp thoáng đằng sau đó là hình ảnh
của người chồng với sự cảm thông và trân trọng ân tình
của vợ. Nhưng phải đến hai câu thơ cuối, hình ảnh người
chồng mới thực sự hiện ra và vẫn là để nói hộ vợ mình.
Nhà thơ đã tự trách mình, tự dằn vặt mình đến nghiệt ngã:

×