Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Kiến thức lớp 11 Thương vợ - của Tú Xương –phần4 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.09 KB, 36 trang )

Kiến thức lớp 11
Thương vợ - của Tú Xương –phần4
CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1.Cuộc đời

Trần Tế Xương tên thật là Trần Duy Uyên, quen gọi là Tú Xương, tự là
Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích, đến khi thi Hương mới lấy tên là Trần Tế
Xương. Ông sinh ngày 10-8-1871 tại lànVị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam
Ðịnh và mất ngày 20-1-1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện.

Tú Xương là một người rất thông minh, tính tình thích trào lộng. Có nhiều
giai thoại kể về cá tính của ông.

Cuộc đời Tú Xương lận đận về thi cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi
rớt in đậm nét trong tiềm thức Tú Xương.

Ông cưới vợ rất sớm. Phạm Thị Mẫn từ một cô gái quê Con gái nhà dòng,
lấy chồng kẻ chợ. Tiếng có miếng không, gặp hay chăng chớ trở thành bà
Tú tần tảo một nắng hai sương Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi
đủ năm con với một chồng. Ông Tú vẫn có thể có tiền để ăn chơi nhưng
gia cảnh nghèo túng, việc nhà trông cậy vào một tay bà Tú.

Có thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia đình là nguồn đề tài phong
phú trong sáng tác của Tú Xương.

2.Thời đại:
Cuộc đời ông nằm gọn trong giai đoạn nước mất, nhà tan.

Năm Tú Xương ba tuổi (1873) Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất rồi tấn công
Nam Ðịnh.


Năm mười bốn tuổi (1884) triều đình ký hàng ước dâng đất nước ta cho
giặc.

Tuổi thơ của Tú Xương trôi qua trong những ngày đen tối và ký ức về
những cuộc chiến đấu của các phong trào khởi nghĩa chống Pháp cũng
mờ dần. Nhất là sau cuộc khởi nghĩa của Phan Ðình Phùng (1896) bị thất
bại thì phong trào đấu tranh chống Pháp dường như tắt hẳn.

Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị đất nước, xã hội có nhiều biến động,
nhất là ở thành thị. Tú Xương lại sinh ra và lớn lên ở thành thị vào thời kỳ
chế độ thực dân nửa phong kiến được xác lập, nền kinh tế tư bản phát
triển ở một nước thuộc địa làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn đời sống tinh
thần của nhân dân. Nhà thơ đã ghi lại rất sinh động, trung thành bức tranh
xã hội buổi giao thời ấy và thể hiện tâm trạng của mình.

Có thể nói, đứng trước sự tha hoá của xã hội nên nguyên tắc Tam cương
ngũ thường của Tú Xương không đậm như Nguyễn Khuyến và càng xa rời
Ðồ Chiểu.

3. Tác phẩm

Tú Xương mất sớm, ông chua đi trọn con đường sáng tác của mình.
Nhưng những tác phẩm Tú Xương để lại có tác dụng như một bản cáo
trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa
cuối thế kỷ XIX.

Tú Xương sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Ông viết khoảng 151
bài thơ bằng chữ Nôm với đủ các thể loại. Ngoài ra, ông có dịch một số
thơ Ðường.


II.NỘI DUNG THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG:

1.Thơ Tú Xương là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xã hội
thực dân nửa phong kiến

Trong thơ ông có hình bóng con người và sinh hoạt của xã hội phong kiến
cũ đã bị thực dân hóa, và có hình bóng những vật mới, những sinh hoạt
mới - sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thơ Tú Xương là
tiếng nói đả kích, châm biếm sâu sắc và dữ dội vào các đối tượng mà ông
căm ghét.

1.1.Ðả kích bọn thực dân Pháp:
Ðối với thực dân Pháp, tuy chua phải là đối tượng chính để tập trung phê
phán nhưng ta vẫn bắt gặp bóng dáng những tên thực dân xuất hiện với
dáng vẻ rất buồn cười. Ðó là hình ảnh những ông Tây, bà Ðầm rất nghênh
ngang lố bịch (Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh Dậu). Với ngòi bút châm
biếm sắc sảo, Tú Xương đả kích chúng không khoang nhượng, vạch trần
thói gian ác, bần tiện, thủ đoạn kiếm ăn dơ bẩn của chúng bằng bút pháp
trào phúng sâu sắc (Ông Cò).

1.2.Ðối với bọn quan lại, tay sai:
Ðề tài này thật ra không có gì mới mẻ so với trước, nhưng cái mới ở đây là
bút pháp của Tú Xương có cá tính và mang nét cảm hứng thời sự.

Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh bọn quan lại hiện lên rất phong phú đa
dạng. Ðó là những lũ bất tài, dốt nát (Bác Cử Nhu); chúng không khác chi
những tên hề (Hát bội).
Ông phê phán trò gian lận, hối lộ, bòn rút của dân không nghĩ gì đến trách
nhiệm (Ðùa ông Phủ).
Ông còn vạch trần bản chất làm tay sai của những tên quan lại lúc bấy giờ

(Cô hầu gửi quan lớn).

Từ đó thấy được thái độ phẫn uất của Tú Xương trước thực trạng xã hội
và ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án, phê phán những con người,
những hiện tượng trái tai, gai mắt.

Nhà thơ đã dựng lại chân dung của bọn quan lại, mỗi người mỗi vẻ nhưng
đều rất sắc cạnh, cụ thể. Một tên quan huyện Mình trung đâu đấy trách
người trinh, một ông Aám Chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi, ông Ðốc cờ
bạc ăn chơi rặt một màu, ông Cử Sách như hủ nút, chữ như mù, một cô
Bố Chồng chung, vợ chạ, một chú Hàn thì Ðậu lạy, quan xin… và cả một
xã hội lố lăng, rởm đời với quý vị phu nhân, các cậu ấm tử, sư sãi… cũng
được Tú Xương tái hiện, sinh động, cụ thể:

Hai cậu con con đóng vai ấm tử, lỗi bếp bồi cậu cũng như nhau.
Ðôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thỏa bà nào cũng nhất.
Nhất tắc mộ sư mô chi cực, nay chùa này, mai chùa khác, mở lòng từ tô
tượng, đúc chuông.
Nhất tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuống mành kia, che miệng thế
đong dầu rót mật
(Khai lý lịch)

1.3.Ðối với khoa cử, nho học:
Trong bức tranh xã hội của Tú Xương còn có những nho sĩ đi thi, những
ông Nghè, ông Cống; có hình ảnh của trường thi, của một nền nho học
đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú Xương không còn tìm thấy hình ảnh
uy nghi, trang trọng của một trường thi chữ Hán xưa kia nữa mà nó đang
lùi dần trước uy thế của kẻ thù.

Ông phản ánh thực trạng nho học suy đồi bằng tiếng thở dài áo não (Than

đạo học). Ông còn chế giễu những người kéo nhau đi thi ở những trường
lớp mới mở của thực dân (Ðổi thi).

Trong buổi lễ xứng danh khoa Ðinh Dậu, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người
đọc bức tranh về cảnh trường thi cảnh ngao ngán của sĩ tử trước thực
trạng nước mất, nhà tan, sĩ khí tiêu điều, bút lông hết được săn đón Vứt
bút lộng đi giắt bút chì. Ðó là hình ảnh:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra

Cái tàn tạ của nho học được Nguyễn Bính ghi lại:
Mực tàu giấy bản là đây
Nước non đi hết những người áo xanh
Lỡ duyên bút tóc củ hành
Trường thi Nam Ðịnh biến thành trường bay.

Tú Xương than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả
những ông Phán:
Nào có gì lạ cái chữ nho
Ông nghè, ông cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm ông Phán.
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò
(Chữ nho)

1.4. Phê phán thế lực đồng tiền:
Trước Tú Xương, nhiều tác giả Việt Nam cũng như nừơc ngoài đã lên án
sức mạnh đồng tiền. Nó chi phối tư tưởng và hành động của con người.

Ðến thời Tú Xương, đồng tiền lại một lần nữa gây đảo điên xã hội nhất là ở
thành thị. Nó làm cho đạo đức suy đồi từ trong gia đình cho đến ngoài xã
hội.

Tú Xương đã mắng nhiếc cái xã hội đã hỗn loạn lên vì đồng tiền (Ðất Vị
hoàng, Vị Hoàng hoài cổ)

Có thể thấy bức tranh xã hội của Tú Xương bị tha hóa đến trầm trọng. Nào
là cảnh:

Ở phố Hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, độc thì lang
Chồng chung vợ cha kìa cô Bố
Ðậu lại quan xin nọ chú Hàn
( Phố Hàng song)

Vì đồng tiền, con người lường gạt nhau để sống, đối xử với nhau không ra
gì. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, tình yêu, tình bè bạn . . . đều bị chà đạp
bởi thế lực của đồng tiền. Bài thơ Mùng hai tết viếng cô Ký, Ðể vợ chơi
nhăng đã phê phán thói đời thật đáng sợ. Ông chồng khóc vợ chết chỉ vì
thương cái xe tay. Còn vợ đối với chồng thì Trăm năm tuổi lại trăm thằng

Ngòi bút Tú Xương đã khái quát bức tranh hiện thực sinh động về một xã
hội lố lăng, rởm đời, có những cảnh khá nực cười, những cảnh chướng tai,
gai mắt cứ nhan nhản xuất hiện trong thơ Tú Xương ( Năm mới, Thói đời,
Chữ nho):

Khăn là bác nọ lo tày rế,
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè.
Công đức tu hành sư có lọng,

Xu hào xủng xoảng mán ngồi xe.
( Năm mới)

Hay cảnh nực cười khác:
Chí cha chí chát khua giày dép,
Ðen thủi đen thui cũng lụa là.

1.5 Lên án những thói hư tật xấu của thời đại:
Phê phán những người hành đạo mà lòng dạ xấu xa và hành vi bẩn thỉu
như cảnh sư sãi vụng trộm trong chùa, sư cho vay nặng lãi, sư chứa của
gian đến nỗi phải ở tù (Sư ở từ, Ông sư và mấy ả lên đồng)

Ông còn lên án thói đồng bóng, cho đồng bóng là trò mê tín giả dối không
thể chịu được:
Ðồng giỏi sao đồng không giúp nước
Hay là đồng sợ súng thần công.

Phê phán những phong tục xa hoa, phù phiếm trong ngày tết ý tứ mỉa mai
trước thực trạng nước mất, nhà tan (Thói đời), vạch trần những tâm lý giả
dối, sáo rỗng của con người trong ngày tết bằng lời lẽ châm biếm sắc sảo.
Bài thơ Chúc tết đã chế giễu độc địa và sâu sắc:
Lẵng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giả trầu.

Nó lại chúc nhau cái sự sang!
Ðứa thời mua tước đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.


Nó lại mừng nhau cái sự giàu!
Trăm ngìn vạn mớ để vào đâu?
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
Ðồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu

Nó lại mừng nhau sự lắm con
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.

2. Thơ Tú Xương là tiếng nói tâm tình trĩu nặng đau xót:
2.1. Nỗi đau xót về bản thân và thời cuộc:

- Về bản thân:
Gánh nặng đeo đẳng nhà thơ suốt đòi là nợ lều chõng. Ban đầu hỏng thi,
ông còn cười cợt, còn tự nghĩ cách để an ủi mình. Nhưng các khoa thi sau
( 1903, 1906) ông càng thất vọng, càng chua chát. Tú Xương ngày càng
đau buồn, chán nãn, tuyệt vọng và cay cú:
Học đã sôi cơm nhưng chữa chín.
Thi không ăn ớt thế mà cay

Ðến khoa thi cuối ( 1906) tiếng thở dài của Tú Xuơng càng áo não và bi
thiết hơn nhiều:
Bụng buồn còn biết nói năng chi
Ðệ nhất buồn là cái hỏng thi
Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế chẳng ra gì
( Buồn thi hỏng)


Ở đây, dù đau vì thi rớt, vì công danh không thành đạt nhưng Tú Xương
vẫn ít ủy mị và luôn tỏ thái độ khôi hài, lúc nào nụ cười trào phúng cũng
đến với ông. Qua những lời tự trào, tư thú về mình càng thấy rõ con người
và tính cách Tú Xương:

Tú Xương tự khoe về sự ăn chơi của mình:
Nghiện chèm nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,
Hay hát, hay chơi, hay nghề xuống lõng.
Quanh năm phong vận, áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô Nhật Bản anh,
Ra phố nghênh ngang, quần Tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Ðịnh bóng . . .
( Phú hòng thi)

- Về cảnh nghèo: Qua thơ ông, gia cảnh nhà ông hiện lên rất áo não và bi
thiết
( Mùa nực mặc áo bông) Nhà thơ từng thấm thía cảnh chạy ăn, vay nợ,
nhiều lúc ông phải gào lên:
Van nợ lắm khi trào nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi
( Than nghèo)

Trong hoàn cảnh nào, Tú Xương vẫn cười cợt, châm biếm, nói ngông. Vì
nghèo quá, ông đã tính đến chuyện đi tu nhưng không phải tu vì đạo lý mà
tu vì tấm áo (Nghèo), rồi nghĩ đến chuyện làm mứt rận đãi gai đình trong
ngày tết, có những ý nghĩ ngông nghênh, hợm hĩnh ( Mứt rận), hoặc nhiều
lúc ông đâm ra chán chường tuyệt vọng:
Ngủ quách sự đời thây đứa thức.
Bên chùa chú trọc đã khua chuông.
( Ðêm hè)
Vốn là con nhà trào phúng nên trong hoàn cảnh nào nhà thơ vẫn có thể
cười cợt, vẫn bông đùa:

Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chữa lĩnh tiêu

Ðúng là nói cho vui, chứ kho đâu mà lĩnh, tiền đâu mà tiêu? Chính cái
nghịch lý này đã hình thành nên tính cách của Tú Xương.

2.2. Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh
đất nước:

- Tình cảm của Tú Xương đối với nhân dân:
Ðối với người nghèo như những người học trò, những người nông dân
chân lắm tay bùn (Thề với ăn xin) . . . những dòng thơ của Tú Xương chứa
chan tình cảm và đầy lòng ưu ái (Ðại hạn)

Hoặc ở một bài thơ khác, tâm trạng Tú Xương càng thể hiện rõ hơn:
Ỳ ào tiếng học nghe không rõ
Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu
Ông lão nhà quê tan tản dậy,
Bảo con đem đó, chớ đem gầu . . .

Ðối với người phụ nữ, hình ảnh họ hiện lên thật đáng thương, họ không
những khổ sở về vật chất mà còn bị đau đớn về mặt tinh thần Thương vợ
là một bài thơ tiêu biểu của Tú Xương viết về vợ:

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.

Nỗi u hoài kín đáo của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước
thường triền miên, day dứt:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
( Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh dậu)

Nhà thơ thường thao thức suốt đêm dài để lặng lẽ suy tư và thấy được cái
heo hút Vắng lặng của đêm trường:
Ðêm sao đêm mãi tối mò mò,
Ðêm đến bao giờ mới sáng cho.
Ðàn trẻ u ơ chừng muốn dậy,
Ông già thúng thắng vẫn đang ho.
Ngọn đèn rình trộm khêu còn bé,
Tiếng chó kinh người cắn vẫn to.
Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa,
Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho.
( Ðêm dài)

Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ vẫn còn tỉnh táo để nhận ra mình:
Kìa cái đêm nay mới gọi đêm
Mắt giương không ngủ bũng không thèm
Tình này ai thấu cho ta nhỉ
Tâm sự năm canh một bóng đèn.

Ðiểm sáng nhất, xúc động nhất trong thơ ông là ở tình này. Ðó là tình cảm
của ông đối với quê hương đất nước.


Nỗi đau khi nhìn thấy đất nước đổi thay mà bản thân ông thì không làm gì
thay đổi thời cuộc ( Sông lấp). Bài thơ chứng tỏ Tú Xương vẫn là người
nặng tình đời và tha thiết với cuộc sống. Mặc dù có lúc ông đâm ra bối rối,
lạc lõng, mất phương hướng trước bao biến đổi của thời cuộc:
Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt,
Ðợi nước càng thêm tóc bạc phơ
Ðường đất xa khơi ai mách bảo?
Biết đâu mà ngóng dến bao giờ?
( Lạc đường)

Lòng yêu nước của Tú Xuơng còn thể hiện qua sự khâm phục của Tú
Xương đối với những người có tài, có đức ra cứu đời, giúp nước:
Vá trời gặp hội mây năm vẻ
Lấp bể ra công đất một hòn
( Gửi cụ thủ khoa Phan)

Tuy không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách mạnh như bao nghĩa sĩ yêu
nước khác nhưng ông có cảm tình nồng hậu đối với những người làm
cách mạng. Hình ảnh Phan Bội Châu Vá trời, lấp bể đã đến với Tú Xương
bằng tất cả sự kính mến, khâm phục.

3. Triết lý sống của Tú Xương giữa thời buổi loạn ly của đất nước:
Triết lý sống của Tú Xương đặc biệt không giống ai giữa thời buổi loạn ly.
Ông sống giả câm, giả điếc, làm ngơ trước dư luận. Sống như ông phải có
kiểu cách riêng, giống như hình ảnh của chú Mán ở Nam Ðịnh:
Khi để chỏm, lúc cạo đầu
Nghêu ngao câu hát nửa tàu, nửa ta
Chẳng đội nón chịu màu da dãi nắng,
Chẳng nhuộm răng để trắng dễ cười đời,
Chốn quyền môn lòn cúi mặc ai,

Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã biết.
( Chú Mán)

Thái độ sống khác của Tú Xương có phải chăng là thái độ chống đối của
nhà thơ trước thời cuộc? Ông không muốn hòa vào cuộc sống ngột ngạt
không lối thoát này, không muốn hợp tác với cái văn minh trong thời kỳ
nước mất, nhà tan. Giữa bao cái rối rắm mà mọi người đang tìm cách chen
chân vào thì Tú Xương tách khỏi nó. Từ đó thể hiện sự yêu thích tự do,
không chịu cúi lòn làm nô lệ.

Triết lý sống của Tú Xương nếu đem đặt bên cạnh triết lý sống của các
nhà chiến sĩ yêu nước là xả thân vì nước lúc bấy giờ thì triết lý sống của
Tú Xương có phần nhạt nhẽo, vô vị. Nhưng nói chung, triết lý sống của
ông đã phần nào phản ảnh được tâm trạng của lớp người sống trong thời
buổi không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc.

III. NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG:

1. Kết cấu:
1.1.Thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú.
Có bài thơ vừa có hiện thực vừa có trào phúng. Bằng nhiều thủ pháp nghệ
thuật, Tú Xương sử dụng tiếng cười làm vũ khí. Ở Tú Xương không có cái
nhàn nhạt, cái lưng chừng, cười là cười phá, chửi là chửi độc, chua chát
đến ứa mật, ứa máu.

Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lững, ỡm ờ,
hoặc những từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ thơ thường độc đáo, đột ngột, táo
bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Tú Xương đã quàng
vào cổ ông Hàn nọ ( Vốn làm nghề nấu rượu) những xâu, chai, lọ, vung,
nồi lổn nhổn:

Hàn lâm tu soạn kém gì ai?
Ðủ cả vung nồi, cả cóng chai
( Ðưa ông hàn)

Cái tài tình của Tú Xương là chợp đúng cái thần của sự vật bằng một vài
nét điển hình, rồi với cách nói thẳng thừng, táo bạo và hài hước của mình,
ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi người xem có khi ở câu đầu:

×