ĐH Kinh tế quốc dân
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra đời và phát triển trong hơn
15 năm nhưng số lượng các cơng ty kiểm tốn đã ngày càng gia tăng, chứng
tỏ nhu cầu đối với lĩnh vực này ngày càng cao. Trong đó, sự ra đời của Cơng
ty Kiểm tốn Việt Nam (VACO) được đánh dấu là một mốc lịch sử cho ngành
kiểm toán tại Việt Nam.
Kiểm toán Báo cáo tài chính ln là dịch vụ truyền thống và chiếm tỷ
trọng lớn trong doanh thu của các cơng ty kiểm tốn hiện nay. Trước xu thế
hội nhập như ngày nay các cơng ty kiểm tốn độc lập ở Việt Nam ln phải
đặt ra yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để có thể
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh với các công ty kiểm
tốn nước ngồi.
Trong đó đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn là một bước vơ cùng
quan trọng để giúp cho các cơng ty kiểm tốn xây dựng một kế hoạch kiểm
tốn hợp lý góp phần nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả của cuộc kiểm
toán. Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc đánh giá trọng yếu ở các cơng ty vẫn
cịn nhiều điểm chưa hồn thiện do đây là một cơng việc khó và địi hỏi trình
độ phán xét của kiểm tốn viên. Được đánh giá là một trong những cơng ty có
quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn khá hồn chỉnh và tiêu
chuẩn, trong thời gian thực tập tại VACO em đã có cơ hội tiếp xúc và so sánh
giữa lý thuyết và thực tế và nhận ra được rất nhiều kiến thức cũng như kinh
nghiệm q báu. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “Hồn thiện quy trình
đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính
do Cơng ty Kiểm tốn Việt Nam thực hiện” để nghiên cứu, phát triển cho
Luận văn tốt nghiệp của mình.
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm tốn 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Từ ý nghĩa quan trọng của đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán
Báo cáo tài chính và thực tế cơng tác đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn
tại Cơng ty Kiểm tốn Việt Nam, Luận văn muốn làm rõ được lý luận về
trọng yếu, rủi ro kiểm tốn nói chung và đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm
toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính nói riêng. Hơn nữa, Luận văn cũng
muốn tìm hiểu quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn tại Cơng ty
Kiểm tốn Việt Nam. Từ đó, em đã có cơ sở để so sánh giữa thực tế và lý
thuyết và có cơ sở để đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy
trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn tại Cơng ty Kiểm tốn Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và sử dụng các phương pháp kỹ thuật như phương pháp
toán học, phương pháp tư duy lôgic, phương pháp diễn giải, quy nạp, phương
pháp so sánh và phân tích để tổng hợp về lý luận và thực tiễn đánh giá trọng
yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Ngồi ra, đề tài
cũng sử dụng phương pháp sơ đồ, bảng biểu để làm rõ và bổ sung thêm cho lý
luận cũng như thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán Báo cáo tài chính.
Hướng đóng góp của đề tài
Đề tài đã hệ thống hóa lý luận về trọng yếu và rủi ro kiểm tốn trong
kiểm tốn nói chung và đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm tốn trong Báo cáo tài
chính nói riêng. Bên cạnh đó, đề tài đã mơ tả được thực trạng đánh giá trọng
yếu và rủi ro kiểm toán tại Cơng ty Kiểm tốn Việt Nam. Từ đó, đề tài đã đưa
ra được nhận xét cho những vấn đề cịn tồn tại và phương hướng nhằm hồn
thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán tại Cơng ty Kiểm tốn
Việt Nam.
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm tốn 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
Nội dung của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán báo cáo tài chính
Chương 2: Thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán báo cáo tài chính tại Cơng ty Kểm tốn Việt Nam
Chương 3: Nhận xét, kiến nghị và giải pháp nhằm hồn thiện quy
trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm tốn báo cáo tài
chính tại Cơng ty Kiểm tốn Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Phương Hoa cùng
các anh chị tại Công ty Kiểm tốn Việt Nam đã có những hướng dẫn chỉ bảo
tận tình cho em để em có thể hồn thành tốt Luận văn của mình.
Sinh viên
Tống Thị Huyền Trang
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
ĐH Kinh tế quốc dân
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. KHÁI NIỆM TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1.1. Trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan trọng
thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý
nghĩa quan trọng”.
Trọng yếu là một thuật ngữ quan trọng trong kế toán, kiểm toán.
Nguyên tắc trọng yếu cần chú trọng đến những vấn đề mang tính cốt yếu,
quyết định bản chất và nội dung của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh. Chính
vì vậy khái niệm trọng yếu được đề cập ở rất nhiều tài liệu trong nước cũng
như quốc tế. Có thể trích dẫn một số tài liệu sau:
Theo Bản cơng bố về chuẩn mực kiểm tốn số 47 (SAS 47): “kiểm toán
viên nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề trọng yếu trong khi lập kế hoạch
kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán cũng như khi đưa ra kết luận kiểm
toán” (Lý thuyết kiểm tốn -NXB Tài chính 2005).
Theo sách Lý thuyết kiểm tốn (NXB Tài chính 2005): “Trọng yếu, xét
trong mối quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm chung chỉ rõ tầm cỡ
và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm tốn có ảnh hưởng tới
tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm tốn và việc sử
dụng thơng tin đã đánh giá đó để ra quyết định quản lý. Trên góc độ của
người sử dụng thơng tin, nói một cách đơn giản, một thơng tin quan trọng và
cần phải được trình bày nếu nó có khả năng ảnh hưởng tới các quyết định của
người sử dụng”.
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (VSA 200) - Mục tiêu và
nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính: “Trọng yếu: là thuật
ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế tốn)
trong Báo cáo tài chính.
Thơng tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thơng tin đó hay
thiếu chính xác của thơng tin đó sẽ ảnh hưởng tới các quyết định của người sử
dụng Báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của
thơng tin hay của sai sót được đánh giá trong hồn cảnh cụ thể. Tính trọng
yếu của thơng tin phải được xem xét trên cả tiêu chuẩn định lượng và định
tính.”
Theo Chuẩn mực kiểm tốn quốc tế (ISA 320) - Tính trọng yếu trong
kiểm tốn: “Thơng tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thơng tin
đó có thể ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng Báo cáo tài
chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục
hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót
đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà
một thơng tin hữu ích cần phải có”.
Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm tốn quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất
của sai phạm (kể cả bỏ sót) thơng tin tài chính hoặc đơn lẻ hoặc từng nhóm,
mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đốn thì sẽ
khơng chính xác hoặc rút ra kết luận sai lầm”.
Từ rất nhiều các định nghĩa ở trên ta thấy rằng dù ở trên thế giới hay
Việt Nam “trọng yếu” đều được quan niệm như một thuật ngữ dùng để thể
hiện tầm quan trọng của một thơng tin hay một số liệu kế tốn trong Báo cáo
tài chính mà nếu thiếu nó hoặc thiếu chính xác của thơng tin đó sẽ ảnh hưởng
đến nhận thức của người sử dụng Báo cáo tài chính, từ đó dẫn đến sai lầm
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
trong việc đánh giá thông tin và ra các quyết định quản lý. Sự tương đồng
giữa kiểm toán và quản lý này đã dẫn đến tính tất yếu phải lựa chọn nội dung
kiểm toán tối ưu, vừa đánh giá đúng bản chất của đối tượng kiểm toán, vừa
đáp ứng kịp thời nhu cầu của người quan tâm với giá phí kiểm tốn thấp trên
cơ sở thực hiện tốt chức năng kiểm toán.
Bởi vậy, để giải quyết yêu cầu trên trong khái niệm “trọng yếu” đã bao
hàm hai mặt liên quan tới nhận thức đối tượng: Quy mô hay tầm cỡ (mặt
lượng) và vị trí hay tính hệ trọng (mặt chất) của phần nội dung cơ bản.
Về quy mơ
Nhiều kế tốn viên và kiểm tốn viên mong muốn có được một con số
tuyệt đối chỉ dẫn cho họ về trọng yếu. Nhưng điều này là rất khó vì trọng yếu
là một khái niệm tương đối hơn là tuyệt đối và trong thực tế rất khó để ấn
định một con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội dung kiểm
tốn, đặc biệt là khi có các yếu tố tiềm ẩn. Một con số có thể là trọng yếu với
cơng ty này nhưng không trọng yếu với công ty khác. Bởi vậy, kiểm tốn viên
thường quan tâm tới quy mơ tương đối hơn quy mô tuyệt đối.
Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh
giá với một số gốc. Số gốc thường khác nhau trong những tình huống cụ thể.
Chẳng hạn, với báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, số gốc có thể là doanh
thu thuần; với bảng cân đối kế toán, số gốc có thể là tổng tài sản hoặc tài sản
lưu động… Phần đơng các kiểm tốn viên đều cho rằng “tổng hợp các sai
phạm mà có tỷ lệ nhỏ hơn 5% so với giá trị thu nhập rịng thì được xem là
khơng trọng yếu nhưng nếu lớn hơn 10% thì chắc chắn trọng yếu”. Nhưng có
khi kiểm tốn viên sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính trọng yếu. Một
con số tuyệt đối là số thể hiện mức quan trọng mà không cần nhắc thêm một
yếu tố nào khác. Ví dụ như, một vài kiểm tốn viên cho rằng “một triệu USD
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
hoặc một con số lớn hơn thì ln là con số trọng yếu, khơng cần quan tâm đến
vấn đề nào khác”.
Ngồi ra, khi xem xét quy mơ trọng yếu, kiểm tốn viên nên cân nhắc
cả sự ảnh hưởng luỹ kế của đối tượng xem xét. Trên thực tế thì có rất nhiều
sai phạm khi xem xét chúng một cách cơ lập thì khơng phát hiện ra trọng yếu,
nhưng nếu cộng dồn tất cả các sai phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính
hệ thống của sai phạm và khi đó phát hiện tính trọng yếu của chúng. Theo
Chuẩn mực Kiểm tốn Việt Nam số 320 - Tính trọng yếu trong kiểm tốn:
“Kiểm tốn viên cần xem xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ
nhưng khi tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu tới Báo cáo tài chính, như:
một sai sót trong thủ tục hạch tốn cuối tháng có thể trở thành một sai sót
trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng”.
Việc xác định tính trọng yếu qua quy mơ khơng phải là dễ dàng chính
vì vậy để xác định đúng nội dung kiểm toán trên phương diện này chúng ta
cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, quy mô trọng yếu phải được xác định. Đó là việc xác định
trọng yếu dựa trên các đối tượng nào (Báo cáo tài chính, tồn bộ tài liệu kế
tốn hay thực trạng tài chính nói chung) và cũng tùy thuộc vào cả khách thể
kiểm tốn thuộc loại hình doanh nghiệp nào (sản xuất, công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, xây lắp hay vận tải…). Vì mỗi ngành,
mỗi lĩnh vực lại có những đặc điểm riêng nên việc tìm hiểu khách hàng là một
cơng việc hết sức quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán.
Thứ hai, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy
mô bằng con số tuyệt đối mà cịn phải trong tương quan với các đối tượng
kiểm tốn khác. Về định lượng đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghiệp
vụ so với một cơ sở tính toán như tổng tài sản, tổng doanh thu, lợi nhuận
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
trước thuế…Và cũng tùy vào bản chất mà khi tính tốn ta nên cộng dồn hay
tách riêng các khoản mục, nghiệp vụ, sai sót có liên quan.
Thứ ba, quy mơ trọng yếu cịn phụ thuộc vào đối tượng và mục tiêu
của cuộc kiểm tốn là kiểm tốn tài chính, kiểm tốn nghiệp vụ với các chức
năng xác minh hay xác minh, tư vấn….
Về tính chất
Trong kiểm tốn Báo cáo tài chính, kiểm tốn viên đánh giá tính trọng
yếu cần tuỳ thuộc vào loại hình, quy mơ doanh nghiệp. Đồng thời cần có sự
am hiểu tài chính kế tốn, các quy định pháp luật với doanh nghiệp và dựa
vào kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Các khoản mục nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các
khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các
khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng.
Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian
lận: Gian lận và sai sót đều dùng để chỉ các sai phạm nói chung, tuy nhiên
giữa chúng lại có sự khác nhau cơ bản. Với cùng một quy mô tiền tệ, gian lận
thường được chú trọng hơn sai sót vì nó làm người ta nghĩ đến tính trung thực
và độ tin cậy của các nhà quản lý và các thành viên có liên quan. Do đó, một
hành vi gian lận luôn được coi trọng bất kể quy mơ của nó là bao nhiêu. Các
khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian lận thường bao
gồm:
-
Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch khơng hợp pháp vì
có thể có sự móc nối giữa các bên nhằm thu lợi cho cá nhân;
-
Các nghiệp vụ thanh lý tài sản: có khả năng có sự liên kết giữa
người tiến hành thanh lý và người mua tài sản trong khi tài sản đó vẫn đang
trong quá trình sử dụng;
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm tốn 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
- Các nghiệp vụ về tiền mặt: các nghiệp vụ này xảy ra thường xuyên,
tiền mặt lại có đặc điểm là gọn nhẹ, dễ biển thủ nên dễ xảy ra gian lận;
- Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: doanh nghiệp và khách
hàng hoặc nhà cung cấp có thể móc ngoặc với nhau để báo cáo sai về thực
trạng hoạt động của mình;
- Các nghịêp vụ bất thường: các nghiệp vụ này ít xảy ra nhưng nó lại
ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp;
- Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: các nghiệp vụ liên quan đến
quyền lợi bao giờ cũng chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như bất cứ ai
cũng muốn thu lợi cho bản thân mình;
-
Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách: các nghiệp vụ phát sinh đều
phải được ghi sổ, nếu đơn vị cố ý bỏ ngoài sổ sách thì đây là biểu hiện của
hành vi gian lận;
- Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp
vụ mới phát sinh. Thông thường, vào cuối kỳ quyết toán, để kết quả hoạt động
kinh doanh được như kế hoạch đã định hoặc để điều chỉnh một số chênh lệch
thừa, thiếu, kế toán thường đưa thêm một số bút tốn hạch tốn. Do đó các
nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ thường trọng yếu. Đối với các nghiệp vụ mới
phát sinh thì kiểm tốn viên cần tự đặt ra câu hỏi tại sao những nghiệp vụ đó
từ trước tới giờ mới phát sinh, liệu kế tốn đã xử lý chưa và từ đó tìm bằng
chứng để chứng minh;
-
Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa vì có thể thơng tin tài chính
đã bị làm cho sai lệch dẫn đến ảnh hưởng tới Báo cáo tài chính;
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung: có
ảnh hưởng đến sự trung thực và độ tin cậy của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp
và các cá nhân có liên quan.
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót (khơng cố ý) hệ trọng:
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
- Các nghiệp vụ này thường do trình độ, năng lực yếu kém và tính
thiếu cẩn trọng của kế tốn viên;
- Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mơ lớn hoặc có chênh
lệch lớn với các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thơng tin có liên quan;
- Các nghiệp vụ vi phạm ngun tắc kế tốn và pháp lý nói chung có
thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thơng tin vì
nó khiến ta nghĩ đến tính trung thực và độ tin cậy của Ban quản trị hoặc của
những cá nhân có liên quan khác;
-
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót lặp lại nhiều lần: việc các sai
sót lặp lại nhiều lần cho dù quy mơ của sai sót là khơng lớn thì vẫn gây một
sự nghi ngờ về năng lực của kế toán viên và vấn đề xem xét quản lý sổ sách
không được chặt chẽ. Hơn nữa, tổng hộ các sai sót nhỏ có thể là một sai sót
lớn ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính;
- Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau;
- Các sai sót có ảnh hưởng tới lợi nhuận;
- Các khoản mục, nghiệp vụ là đầu mối hoặc gây hậu quả liên quan
đến nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác.
Việc nhận định và đưa ra ý kiến kiểm toán phụ thuộc rất nhiều vào các
khoản mục, nghiệp vụ liên quan đến bản chất đối tượng kiểm tốn. Vì vậy,
khái niệm trọng yếu đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán với
nguyên tắc khơng bỏ qua các khoản mục, nghiệp vụ có quy mơ lớn và có tính
hệ trọng, phản ánh bản chất đối tượng. Vi phạm nguyên tắc này có nghĩa là
khơng nắm vững nội dung của trọng yếu thì kiểm toán viên đã tạo ra rủi ro
cho cuộc kiểm toán. Do đó, khi đánh giá tính trọng yếu của một nội dung hay
một phát hiện kiểm toán cụ thể, kiểm toán viên phải xem xét trên cả hai mặt
là quy mơ và bản chất của vấn đề, từ đó mới đưa ra quyết định hợp lý về tính
trọng yếu, đảm bảo mục tiêu và chất lượng cuộc kiểm toán.
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
1.1.2. Rủi ro kiểm toán
1.1.2.1. Khái niệm
Cùng với việc đánh giá trọng yếu thì đánh giá rủi ro cũng là một trong
những bước quan trọng nhất trong kiểm tốn Báo cáo tài chính. Do những
ngun nhân như trong q trình kiểm tốn, kiểm tốn viên thường chỉ lấy
mẫu kiểm tốn chứ khơng kiểm tra toàn bộ, hay việc thu thập các bằng chứng
kiểm tốn thường mang tính thuyết phục hơn là chứng minh sự chính xác
tuyệt đối của các số liệu trên Báo cáo tài chính, hay là cịn tùy thuộc nhiều
vào óc xét đoán nghề nghiệp của từng kiểm toán viên… nên trong bất kỳ cuộc
kiểm toán nào cũng tồn tại những hạn chế tiềm tàng. Chính vì vậy khả năng
kiểm tốn viên đưa ra nhận xét khơng chính xác về Báo cáo tài chính là điều
ln có thể xảy ra. Vấn đề là làm thế nào để có thể giảm rủi ro này xuống ở
mức chấp nhận được. Muốn như vậy, ngay từ giai đoạn chuẩn bị kiểm toán,
kiểm toán viên phải đánh giá rủi ro để điều chỉnh các thủ tục kiểm tốn một
cách thích hợp nhằm có được một mức rủi ro có thể chấp nhận được.
Vậy rủi ro kiểm tốn là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt: “rủi ro là tính từ
dùng để chỉ việc khơng may xảy ra” hoặc “rủi ro là điều không lành, không
tốt bất ngờ xảy đến”. Nói chung rủi ro là những điều không mong muốn tuy
nhiên trong các lĩnh vực khác nhau thì đặc trưng của rủi ro lại khác nhau. Sau
đây là những khái niệm khác nhau về rủi ro trong kiểm toán mà đã được đề
cập ở rất nhiều tài liệu.
Rủi ro kiểm toán: “là khả năng mà kiểm toán viên và cơng ty kiểm tốn
đưa ra ý kiến nhận xét khơng thích hợp khi Báo cáo tài chính đã được kiểm
tốn vẫn cịn có những sai sót trọng yếu”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Do đối tượng kiểm toán là những
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
thơng tin được kiểm toán qua nhiều giai đoạn bằng những bộ máy quản lý và
các phương thức, thủ tục kiểm soát khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng được
xác định tương ứng đối với từng loại đối tượng kiểm toán. Rủi ro bao gồm ba
bộ phận: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm toán
viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét khơng xác đáng về các thơng
tin tài chính và đó là các sai sót nghiêm trọng. Ví dụ, kiểm tốn viên có thể
đưa ra ý kiến chấp nhận tồn bộ về một Báo cáo tài chính mà khơng biết rằng
báo cáo này có những sai sót nghiêm trọng”.
1.1.2.2. Các loại rủi ro kiểm toán
Rủi ro tiềm tàng: “là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp
vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi
tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay khơng hệ thống kiểm sốt nội bộ”.
(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ).
Chẳng hạn như doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có sự thay đổi nhanh
về kỹ thuật rất có thể dẫn đến khả năng có sai sót cao ở khoản mục hàng tồn
kho trên Báo cáo tài chính do khơng lập dự phịng giảm giá đầy đủ đối với
những hàng hóa bị lỗi thời; hay khoản mục tiền trên Báo cáo tài chính thường
có khả năng sai sót cao do tiền là loại tài sản nhạy cảm với gian lận.
Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh
của khách thể kiểm tốn, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của
khách thể kiểm toán. Kiểm toán viên khơng tạo ra và cũng khơng kiểm sốt
rủi ro tiềm tàng mà họ chỉ đánh giá chúng. Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng có
thể được thực hiện từ nhiều nguồn khác nhau như từ cuộc kiểm toán năm
trước hay từ những tìm hiểu về ngành nghề kinh doanh, chính sách kế tốn,
tài chính của khách thể kiểm tốn.
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
Đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng vì trên cơ sở
đó kiểm tốn viên dự kiến những cơng việc, thủ tục kiểm tốn sẽ được thực
hiện đối với các khoản mục, nghiệp vụ trọng yếu trên Báo cáo tài chính.
Rủi ro kiểm sốt: “là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng khoản
mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ
thống kế tốn và hệ thống kiểm sốt nội bộ khơng ngăn ngừa hết hoặc khơng
phát hiện và sửa chữa kịp thời”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400:
Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Ví dụ như: một hệ thống kiểm sốt nội
bộ tốt vẫn có thể gặp sai sót khi hệ thống xây dựng quá phức tạp, luân chuyển
nhân sự nhiều hoặc thiếu đào tạo nhân viên… Mơi trường kiểm sốt thường
thể hiện ý chí, quan điểm, nhận thức, hành động của nhà quản lý đơn vị vì vậy
cần được xem xét kỹ lưỡng. Đối với các doanh nghiệp xử lý số liệu bằng
phương pháp điện tử, rủi ro kiểm toán là cao nếu doanh nghiệp khơng kiểm
soat tốt được quy trình xử lý số liệu từ khâu nhập số liệu, thiết kế chương
trình phần mềm, bảo mật thơng tin…
Như vậy, cũng như rủi ro tiềm tàng, đối với rủi ro kiểm sốt, kiểm tốn
viên cũng khơng tạo ra và kiểm sốt chúng mà chỉ đánh giá chúng để đưa ra
mức rủi ro kiểm soát dự kiến.
Rủi ro phát hiện: “là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng khoản
mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
trong q trình kiểm tốn, kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn khơng phát
hiện ra được”.(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ). Rủi ro phát hiện có nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ nội
dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản do kiểm tốn viên thực
hiện. Ví dụ như: rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu kiểm toán viên mở rộng
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
phạm vi kiểm tra, tăng cường kích cỡ của các thử nghiệm hay tăng các thủ tục
kiểm tra chi tiết với các số dư hoặc nghiệp vụ.
Khác với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt, kiểm tốn viên phải có
trách nhiệm phát hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm
quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện.
1.1.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Đó
là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm tốn càng
thấp và ngược lại nếu mức trọng yếu có thể chấp nhận được giảm xuống thì
rủi ro kiểm tốn sẽ tăng lên vì khi đó giá trị sai sót có thể bỏ qua giảm xuống.
Mối quan hệ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nội dung, lịch
trình và phạm vi của các thủ tục kiểm tốn sẽ áp dụng.
Khơng những thế cả trọng yếu và rủi ro kiểm toán đều ảnh hưởng đến
tính đầy đủ của bằng chứng kiểm tốn cần thu thập. Đó là mối quan hệ tỷ lệ
thuận: nếu mức độ trọng yếu và mức độ rủi ro kiểm tốn càng cao thì số
lượng bằng chứng kiểm tốn cần thu thập càng nhiều.
Số lượng bằng chứng kiểm toán sẽ phải nhiều lên khi kiểm tốn các
khoản mục có tính trọng yếu cao. Chẳng hạn, khi kiểm tốn một đơn vị sản
xuất thì số lượng bằng chứng kiểm tốn cần thu thập để đạt được mục tiêu
kiểm toán đối với hàng tồn kho bao giờ cũng phải lớn hơn so với số lượng
bằng chứng cần thu thập cho khoản trả trước. Và cũng tương tự như với tính
trọng yếu, thơng thường số lượng bằng chứng kiểm tốn cần thu thập sẽ tăng
lên trong những trường hợp có nhiều khả năng sai phạm.
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
ĐH Kinh tế quốc dân
Khóa luận tốt nghiệp
Bảng 1.1: Các mối quan hệ giữa của rủi ro kiểm toán với bằng chứng
phải thu thập
Trường
Rủi ro
Rủi ro
Rủi ro
Rủi ro phát
Số lượng bằng
hợp
1
2
3
4
5
kiểm tốn
Cao
Thấp
Thấp
Trung bình
Cao
tiềm tàng
Thấp
Thấp
Cao
Trung bình
Thấp
kiểm sốt
Thấp
Thấp
Cao
Trung bình
Trung bình
hiện
Cao
Trung bình
Thấp
Trung bình
Trung bình
chứng cần thu thập
Thấp
Trung bình
Cao
Trung bình
Trung bình
Nguồn: “Kiểm tốn” - Alvin Arren, sách dịch, tr194.
1.2. ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TỐN
TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.2.1. Cơ sở đánh giá
1.2.1.1. Đối với tính trọng yếu
Như ta đã biết việc đánh giá tính trọng yếu có ý nghĩa như thế nào đối
với một cuộc kiểm toán. Muốn đánh giá được tính trọng yếu ta thường phải
dựa vào trước hết chính là nội dung hàm chứa bên trong khái niệm trọng yếu,
đó là quy mơ và bản chất của đối tượng. Đây cũng là hai cơ sở quan trọng
nhất khi đánh giá trọng yếu.
Khi đánh giá tính trọng yếu ngồi việc phải xem xét quy mơ tuyệt đối
của sai phạm mà cịn phải chú ý đến quy mơ tương đối của nó, tức là mối
quan hệ của nó với các đối tượng khác. Trong toàn bộ đối tượng kiểm tốn
bao giờ cũng có những nội dung, nghiệp vụ, khoản mục quan trọng hơn, đòi
hỏi tập trung nhiều hơn. Đây chính là mặt bản chất của vấn đề cần xem xét.
Ngồi ra, khi đánh giá tính trọng yếu ta cũng cần chú ý đến những tiêu
chí khác nữa như mục tiêu kiểm tốn cụ thể, tính khơng chắc chắn của vấn đề
xem xét, tính chất thường xun hay khơng thường xuyên của nghiệp vụ,…
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
1.2.1.2. Đối với rủi ro kiểm toán
Đối với rủi ro kiểm toán: cơ sở để đánh giá rủi ro chính là các yếu tố
bao hàm trong mỗi loại rủi ro.
Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tồn tại sai sót trọng yếu khơng kể đến hoạt
động kiểm soát nội bộ và kiểm toán, vì vậy, cơ sở đánh giá là những tồn tại
tiềm tàng thuộc về bản chất của đối tượng như: đặc điểm kinh doanh của
khách hàng, công việc ngành nghề kinh doanh, bản chất hệ thống kế toán…
Rủi ro kiểm soát là khả năng tồn tại sai sót trọng yếu khi đã kể đến hiệu
lực của hệ thống kiểm soát nội bộ, vì vậy, cơ sở để tiến hành đánh giá chính là
bộ máy kế tốn, hệ thống Kiểm sốt nội bộ. Đánh giá rủi ro kiểm sốt chính là
q trình đánh giá cách thiết kế, tính liên tục và hiệu quả hoạt động của hệ
thống Kiểm soát nội bộ trong việc ngăn ngừa và phát hiện các sai sót nghiêm
trọng.
Rủi ro phát hiện là rủi ro mà các kiểm toán viên khơng phát hiện ra các
sai sót nghiêm trọng trong q trình kiểm tốn, vì vậy, cơ sở đánh giá nó
chính là việc thực hiện các bước kiểm tốn, phạm vi tiến hành kiểm toán và
sự tuân thủ các Chuẩn mực kiểm toán của kiểm toán viên.
Đối với rủi ro tài khoản: để lựa chọn cơ sở cho việc đánh giá rủi ro tài
khoản, cần quan tâm đến mối quan hệ chặt chẽ giữa trọng yếu và rủi ro. Mối
quan hệ đó thể hiện ngay trong khái niệm rủi ro kiểm toán: “rủi ro kiểm toán
là rủi ro mà kiểm toán viên mắc phải khi đưa ra ý kiến chấp nhận khơng thích
hợp về Báo cáo tài chính khi vẫn tồn tại những sai sót trọng yếu”. Trong mọi
cuộc kiểm tốn thì trọng yếu và rủi ro có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Khi
kiểm toán viên đánh giá là có nhiều khoản mục trọng yếu trên Báo cáo tài
chính và cần tiến hành kiểm tra, xem xét nhiều khoản mục, nghiệp vụ để rủi
ro kiểm toán thấp, nghĩa là khả năng cịn tồn tại những sai sót trọng yếu là
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
thấp. Ngược lại, khi kiểm tốn viên đánh giá là có ít hơn các khoản mục trọng
yếu thì sẽ có ít hơn các khoản mục, nghiệp vụ phải kiểm tra, xem xét thì rủi ro
cịn tồn tại những sai sót trọng yếu là lớn hơn.
Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải xem những nhân tố có
thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong Báo cáo tài chính. Đánh giá
của kiểm toán viên về mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản cụ thể
và các loại nghiệp vụ, giúp họ xác định được các khoản mục nào cần kiểm tra
và nên áp dụng phương pháp chọn mẫu hay áp dụng các thủ tục phân tích.
Điều này giúp kiểm toán viên lựa chọn được những thủ tục kiểm tốn, kết hợp
các thủ tục kiểm tốn đó với nhau có thể sẽ giảm được rủi ro kiểm tốn đến
một mức có thể chấp nhận được.
1.2.2. Đánh giá trọng yếu trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Việc đánh giá thế nào là trọng yếu là một công việc mang tính xét đốn
nghề nghiệp của kiểm tốn viên, được tiến hành trong suốt cuộc kiểm toán, từ
khâu lập kế hoạch cho đến khâu kết thúc. Nói chung, quy mơ sai sót là một
nhân tố quan trọng để kiểm tốn viên xem xét các sai sót có trọng yếu hay
khơng. Tuy nhiên, khái niệm trọng yếu bao gồm hai yếu tố của sai phạm về
quy mô và bản chất nên mặc dù thơng thường, kiểm tốn viên lập kế hoạch
kiểm tốn để tìm ra các sai sót nghiêm trọng về mặt định lượng, nhưng trên
thực tế, kiểm toán viên phải đánh giá, xét đoán cả về định lượng và định tính
của bất cứ sai phạm nào phát hiện ra. Trong khi đề cập đến những sai sót có
thể có, kiểm toán viên cần xét vấn đề trọng yếu ở mức độ tổng thể cũng như
trong mối quan hệ với các số dư tài khoản cá biệt khác và sự thể hiện trên Báo
cáo tài chính. Tính trọng yếu cần phải được đặc biệt xem xét ở hai giai đoạn
trong cuộc kiểm toán: lập kế hoạch kiểm toán khi kiểm toán viên quyết định
cần tiến hành những thủ tục kiểm toán nào, xác định thời gian và phạm vi của
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
thủ tục kiểm tốn đó, sau đó là khâu rà sốt lại, khi kiểm toán viên đánh giá
ảnh hưởng của tất cả các sai sót.
Lập kế hoạch kiểm tốn bao gồm việc xác định mục tiêu, phạm vi, thời
hạn và tính chất của các thủ tục kiểm tốn,…, trong đó có việc thiết lập một
mức trọng yếu có thể chấp nhận được, cho phép kiểm tốn viên phát hiện ra
các sai sót trọng yếu. ở giai đoạn thực hiện kiểm toán, việc đánh giá trọng yếu
có thể khác so với giai đoạn chuẩn bị, có thể do sự thay đổi hồn cảnh và
cũng có thể do kiểm tốn viên thu thập thêm những hiểu biết về khách hàng
của mình. Cụ thể, sau khi thiết lập được mức trọng yếu có thể chấp nhận
được, kiểm toán viên tiến hành các thủ tục kiểm toán theo kế hoạch để phát
hiện các sai phạm, sau đó áp dụng mức trọng yếu đã xây dựng để đánh giá
ảnh hưởng của các sai phạm đó, từ đó đề xuất các biện pháp xử lý. Để đánh
giá mức độ trọng yếu, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về
con số tuyệt đối mà phải xét trong tương quan với tồn bộ đối tượng kiểm
tốn. Về định lượng, đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghiệp vụ so với
một cơ sở để tính tốn như: tổng tài sản, lợi nhuận trước thuế,…Tuỳ quan hệ
cụ thể với đối tượng cụ thể của kiểm tốn, có thể tính riêng biệt hay cộng dồn
các khoản mục, nghiệp vụ cụ thể hay các sai sót có liên quan. Tính trọng yếu,
nếu đánh giá về quy mơ tương đối, có ba mức độ khác nhau để so sánh:
Quy mô nhỏ: không trọng yếu
Thông thường, một khoản mục, một loại nghiệp vụ ln có quy mơ nhỏ
trên Bảng Cân đối kế toán hay Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh thì việc
phản ánh đúng hay sai nghiệp vụ này không ảnh hưởng đến quy mô chung
trên đối tượng kiểm tốn và từ đó khơng ảnh hưởng đến nhận thức về đối
tượng này cùng những quyết định đưa ra trên cơ sở đã được kiểm toán. Các
khoản mục, nghiệp vụ này cũng không thể hiểu một cách bất biến, chẳng hạn,
một khoản mục vật liệu phụ có thể khơng trọng yếu trong sản xuất mặt hàng
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
này nhưng lại trọng yếu trong việc sản xuất mặt hàng khác, có thể trọng yếu
trong thời kỳ này nhưng không trọng yếu trong thời kỳ trước,…
Quy mô lớn nhưng chưa đủ mức quyết định nhận thức về đối
tượng: có thể khơng trọng yếu
Thơng thường, một khoản mục có quy mơ lớn sẽ ảnh hưởng đến nhận
thức về tình hình tài chính của đơn vị, và từ đó ảnh hưởng đến các quyết định
được đưa ra. Tuy nhiên, không phải lúc nào hậu quả này cũng như nhau.
Chẳng hạn, khoản mục hàng hố thường có quy mơ khá lớn nhưng sai lệch
của nó (nếu có) là nhỏ khơng ảnh hưởng đến số tổng cộng của Bảng Cân đối
kế toán. Bởi vậy nếu đối tượng trực tiếp của cuộc kiểm toán là bảng này hay
tồn bộ hệ thống bảng tổng hợp tài chính thì kiểm tốn viên vẫn có thể thực
hiện chức năng xác minh của mình. Một ví dụ khác, người sử dụng có thể
quyết định sai về cung ứng hay vay tiền, thế chấp,…, nhưng việc đó lại khơng
đặt ra trong mục tiêu kiểm tốn Báo cáo tài chính nhưng nghiệp vụ loại này sẽ
là trọng yếu trong kiểm toán nghiệp vụ vật tư hay mua hàng,… Vì vậy, trong
tổ chức kiểm toán phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan và mối quan hệ với
những người quan tâm.
Quy mô lớn, đủ quyết định bản chất đối tượng kiểm toán: trọng
yếu
Các khoản mục, nghiệp vụ có quy mơ lớn được xác định trong tương
quan với đối tượng kiểm toán, song trong thực tế cũng có thể làm rõ hơn
trong tương quan với các khoản mục, nghiệp vụ quy mô nhỏ và cả với việc
thực hiện nguyên tắc trọng yếu trong kế tốn.
Nếu đánh giá trọng yếu trên phương diện tính hệ trọng của các nghiệp
vụ hay khoản mục thì các khoản mục được coi là trọng yếu thường bao gồm:
• Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng
gian lận như: các nghiệp vụ đấu thầu và giao thầu, nghiệp vụ thanh lý tài sản,
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách, nghiệp vụ sửa chữa sổ sách, nghiệp vụ xảy
ra vào ngày cuối kỳ kế tốn,…
• Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng: các khoản mục,
nghiệp vụ có quy mơ sai sót lớn hoặc có chênh lệch nhiều với các kỳ trước,
các sai sót lặp đi lặp lại nhiều lần, các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng
nghiêm trọng đến kỳ sau,…
Theo phương pháp vận dụng đánh giá trọng yếu được đề cập trong
“Auditing” của tác giả W.Morley Lemon, Alvin A.Arens, Jame K.Loebbecke
một phương pháp được cơng nhận phổ biến thì vận dụng đánh giá trọng yếu
trong một cuộc kiểm toán bao gồm 5 bước cơ bản: (1) Ước lượng sơ bộ ban
đầu, (2) Phân bổ ước lượng ban đầu cho các bộ phận, (3) Ước tính tổng số sai
sót trong từng bộ phận, (4) Ước tính sai sót kết hợp, (5) So sánh sai số kết hợp
với ước lượng ban đầu. Trong đó, hai bước đầu tiên được thực hiện trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán, ba bước sau được thực hiện trong giai đoạn thực
hiện kiểm toán.
Các bước trong quá trình vận dụng tính trọng yếu được thể hiện ở sơ đồ
sau:
Bước 1
Ước lượng sơ bộ về tính trọng yếu
Bước 2
Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng
yếu cho các bộ phận
Bước 3
Ước tính tổng số sai trong bộ phận
Bước 4
Ước tính sai số kết hợp
Lập kế hoạch
phạm vi của các
khảo sát
Nguồn: “Kiểm toán” - Alvin Arren, sách dịch, tr176.
Bước 5
So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước
lượng ba đầu hoặc xem xét lại ước lượng
ban đầu về tính trọng yếu
Tống Thị Huyền Trang
Đánh giá các
kết quả
Kiểm toán 45A
ĐH Kinh tế quốc dân
Khóa luận tốt nghiệp
Bước 1: Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Nguồn: “Kiểm tốn”, Alvin Arren, sách dịch
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán
viên tin rằng ở mức đó các Báo cáo tài chính có thể bị sai lệch nhưng vẫn
chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng thơng tin tài chính.
Nói cách khác đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với tồn
bộ Báo cáo tài chính.
Ở mức độ tổng thể của Báo cáo tài chính, kiểm tốn viên phải ước tính
tồn bộ sai sót có thể chấp nhận được để đảm bảo rằng Báo cáo tài chính
khơng có các sai lệch trọng yếu. Mức trọng yếu tổng thể này thường được
tính bằng một tỷ lệ phần trăm trên tài sản, doanh thu hoặc lợi nhuận. Thông
thường các cuộc kiểm toán diễn ra trước ngày kết thúc niên độ kế toán nên
các chỉ tiêu chủ yếu trên Báo cáo tài chính như doanh thu, lợi nhuận… chưa
xác định được. Vì thế các kiểm tốn viên thường phải ước lượng các chỉ tiêu
này một cách hợp lý để làm cơ sở xác lập mức trọng yếu. Người ta thường sử
dụng bảng tính sau để tính ước lượng trọng yếu ban đầu:
Bảng 1.2: Bảng tính mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Cơ sở tính
Thu nhập từ hoạt động trước thuế
Tài sản lưu động
Tổng cộng tài sản
Nợ ngắn hạn
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Tối thiểu
Tối đa
Tỷ lệ %
Số tiền
Tỷ lệ %
Số tiền
5
10
5
10
3
6
5
10
Nguồn: “Kiểm toán” - Alvin Arren, sách dịch, tr179.
Đối với từng khoản mục, mức trọng yếu chính là sai lệch tối đa được
phép của khoản mục. Số tiền này được tính dựa trên mức trọng yếu tổng thể
của Báo cáo tài chính. Việc phân bổ cụ thể cho từng khoản mục cịn tùy thuộc
vào chính sách của từng công ty. Tuy nhiên dù áp dụng phương pháp nào thì
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm tốn 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
kiểm tốn viên vẫn thường dựa trên kinh nghiệm của mình về đơn vị cũng
như đánh giá khả năng sai sót và chi phí thực hiện kiểm tra đối với khoản mục
để xác lập mức trọng yếu cho khoản mục đó.
Nhìn chung, dù ở mức độ nào thì việc xác lập mức trọng yếu cũng là
một cơng việc mang tính xét đốn nghề nghiệp của kiểm tốn viên và mức
ước lượng này có thể thay đổi bất cứ lúc nào trong suốt cuộc kiểm toán nếu
kiểm toán viên nhận thấy sự thay đổi ở một trong các yếu tố được dùng để
xác định mức ước lượng ban đầu hoặc đơn thuần chỉ do một quyết định của
kiểm toán viên cho rằng mức ước lượng ban đầu là quá lớn hoặc quá nhỏ.
Kiểm toán viên cần chú ý những yếu tố ảnh hưởng sau khi xây dựng
mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu vì nó có thể có tác động lớn đến sự
phán xét của kiểm tốn viên:
- Vì tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là tuyệt đối và gắn
liền với quy mô của khách hàng nên việc xác nhận một mức ước lượng ban
đầu về tính trọng yếu cho tất cả các khách hàng là điều không thể thực hiện
được. Với cùng một mức quy mô, ở cơng ty này có thể là trọng yếu nhưng ở
cơng ty khác lại chỉ là một con số nhỏ.
- Yếu tố định lượng của tính trọng yếu: Quy mơ sai phạm thường
được xem là một yếu tố quan trọng để xác định sai phạm đó có trọng yếu hay
khơng. Chính ví vậy, việc có được một cơ sở để đánh giá một sai phạm có
trọng yếu hay khơng là một điều hết sức cần thiết. Trên thực tế người ta
thường dùng các chỉ tiêu như: thu nhập trước thuế, tài sản lưu động, tổng vốn
dài hạn, nợ ngắn hạn… để làm cơ sở đánh giá tính trọng yếu trong đó thu
nhập trước thuế là chỉ tiêu quan trọng nhất do đây được xem là khoản mục
mang tính thơng tin then chốt đối với người sử dụng.
- Yếu tố định tính của tính trọng yếu: Bên cạnh việc xem xét yếu tố
định lượng của tính trọng yếu, kiểm tốn viên nên xem xét cả yếu tố định
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
tính. Vì có một số loại sai phạm đối với người sử dụng này lại quan trọng hơn
so với những người sử dụng khác mặc dù có cùng quy mơ sai phạm.
Những yếu tố liên quan đến bản chất của sai phạm cần phải được xem
xét khi tiến hành ước lượng ban đầu về tính trọng yếu:
-
Các gian lận thường được xem là nghiêm trọng hơn các sai sót khi
có cùng quy mơ tiền tệ vì nó thường làm ta nghĩ đến tính trung thực và độ tin
cậy của Ban giám đốc hay những người có liên quan.
-
Các sai phạm có quy mơ nhỏ nhưng lặp đi lặp lại hoặc gây ra tác
động dây chuyền ảnh hưởng nghiêm trọng đến thông tin trên Báo cáo tài
chính thì ln được xem là sai phạm trọng yếu vì đây là sai phạm mang tính
hệ thống.
- Các sai phạm làm ảnh hưởng đến thu nhập luôn là sai phạm trọng
yếu bất kể quy mô của sai phạm này.
Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các
bộ phận.
Sau khi kiểm tốn viên đã có được mức ước lượng ban đầu về tính
trọng yếu cho tồn bộ Báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phân bổ mức ước
lượng này cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính. Đó cũng chính là sai số
có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục. Việc phân bổ này là hoàn
toàn cần thiết do bằng chứng thường được thu thập theo các bộ phận hơn là
theo tồn bộ các Báo cáo tài chính nói chung. Nó sẽ cho ta những bằng chứng
thích hợp ở mức chi phí thấp nhất mà vẫn có thể đảm bảo tổng hợp sai sót
trên Báo cáo tài chính không vượt quá mức ước lượng ban đầu về trọng yếu.
Thơng thường kiểm tốn viên tiến hành phân bổ mức ước lượng cho các tài
khoản trên Bảng cân đối kế tốn thay vì cho các khoản mục trên Báo cáo Kết
quả kinh doanh. Nguyên nhân là do nguyên tắc ghi sổ kép khiến những sai sót
trên Báo cáo Kết quả kinh doanh đều ảnh hưởng tương tự như trên Bảng cân
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
ĐH Kinh tế quốc dân
Khóa luận tốt nghiệp
đối kế tốn và do hầu hết các thủ tục kiểm toán tập trung vào các tài khoản
trên Bảng cân đối kế toán.
Việc phân bổ ước lượng này được tiến hành cho cả hai hướng sai sót:
sai sót thừa (số tiền trên báo cáo vượt quá số tiền thực tế) và sai sót thiếu (số
tiền trên báo cáo nhỏ hơn số tiền thực tế). Trên thực tế việc dự đoán những
khoản mục nào có chứa sai sót là điều rất khó nên nó thường do những kiểm
tốn viên có nhiều kinh nghiệm thực hiện. Qua kinh nghiệm chun mơn của
mình, kiểm tốn viên có thể phát hiện khả năng sai sót của một khoản mục
không vượt quá một số tiền cụ thể nào đó, đó chính là mức ước lượng ban đầu
được phân bổ cho khoản mục đó. Tương tự, kiểm tốn viên xem xét khả năng
và chi phí thu thập bằng chứng kiểm toán đối với mỗi khoản mục. Các khoản
mục mà việc thu thập bằng chứng địi hỏi chi phí lớn về mặt thời gian và tiền
bạc, đặc biệt là các khoản mục khơng có cơ sở để dự đốn và khó có khả năng
thu thập đầy đủ bằng chứng, thì mức phân bổ là cao hơn so với các khoản
mục khác. Có thể minh hoạ cách trình bày bước phân bổ này như sau (cho các
tài khoản trong mục tài sản lưu động).
Bảng 1.3: Bảng phân bổ mức trọng yếu ban đầu cho các khoản mục
Tài khoản
Sai số có thể chấp nhận
Sai số thừa
Sai số thiếu
Tiền
Các khoản phải thu
Hàng tồn kho
Chi phí trả trước
Tài sản cố định
….
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Nguồn: “Kiểm tốn” - Alvin Arren, sách dịch, tr180.
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A
ĐH Kinh tế quốc dân
Khóa luận tốt nghiệp
1.2.3. Đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán
Cũng như đánh giá trọng yếu, đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế
hoạch là một bước công việc hết sức quan trọng. Một trong những cách
thường được sử dụng để đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch là dùng
mơ hình rủi ro kiểm tốn.
Như đã trình bày ở phần trên, rủi ro kiểm tốn là rủi ro mà kiểm toán
viên kết luận Báo cáo tài chính được trình bày trung thực và hợp lý và do đó
cơng bố một ý kiến chấp nhận tồn phần, trong khi, thực tế thì chúng vẫn cịn
chứa sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba loại rủi ro: rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Mối quan hệ giữa ba loại rủi ro trên
được thể hiện qua mơ hình rủi ro kiểm toán sau:
AR = IR x CR x DR
Hoặc:
(1)
AR
DR =
(2)
IR x CR
Trong đó: AR (Audit Risk):
Rủi ro kiểm tốn
IR (Inherent Risk): Rủi ro tiềm tàng
CR (Control Risk): Rủi ro kiểm soát
DR (Detected Risk): Rủi ro phát hiện
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA 400): mối quan hệ
giữa các loại rủi ro được khái qt theo mơ hình ma trận sau:
Tống Thị Huyền Trang
Kiểm toán 45A