Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Ôn thi đại học môn văn – Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 15 trang )

Ơn thi đại học mơn văn –phần 89

Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng
trong bài thơ Tây Tiến

I . ĐẶT VẤN ĐỀ .

Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu của hồn thơ Quang Dũng . Ra đời
trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gian
khổ, Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống
động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến . Cho nên khác
với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ
đẹp hài hòa, hào hoa, bi tráng .

II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .


Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng bao trùm
lên cả không gian và thời gian :

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, khơng kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt
lên thành tiếng gọi . Hai chữ chơi vơi như vẽ ra trạng thái cụ thể
của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi
cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày… liên tiếp xuất hiện ở những
câu thơ sau :


Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống


Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Khổ thơ là một bằng chứng “thi trung hữu họa” . Chỉ bằng bốn
câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả
rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng
Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến . Những từ
ngữ giàu giá trị tạo hình : Khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng
ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao
ngút ngàn của núi đèo Tây Bắc . Hai chữ ngửi trời được dùng rất
hồn nhiên và cũng rất táo bạo, có phần ngộ nghĩnh, tinh nghịch
của người lính . Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành
cồn heo hút . Người lính bước đi trên đỉnh núi như đang đi trên
mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời . Câu thơ thứ ba như bẻ đôi,
diễn tả đốc núi vút lên , đổ xuống gần như thẳng đứng .Cái nhìn
của Quang Dũng đang hướng lên, nhìn xuống theo chiều cao và
sâu của dốc đèo , bất ngờ được phóng ngang xa qua một không
gian mịt mùng sương núi mưa rừng, thấy thấp thống những ngơi
nhà như đang bồng bềnh trơi giữa biển khơi .


Cái vẻ hoang dại, dữ dội ẩn chứa nhiều bí ẩn ghê gớm của núi
rừng tiếp tục được nhà thơ khai thác . Nó khơng chỉ được mở ra
theo chiều khơng gian mà cịn được khám phá ở cái chiều thời
gian , luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người :


Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Vậy là cảnh núi rừng hiểm trở qua ngòi bút của Quang Dũng hiện
lên có đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi,
thác gầm, cọp dữ …. Những địa danh xa lạ : Mường Lát, Sài
Khao, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giầu giá trị tạo
hình được hiện lên qua những câu thơ vần trắc gợi sự vất vả
nhọc nhằn, được xoa dịu bằng những câu thơ vần bằng ở cuối
khổ thơ , làm hiện lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc
đáo của núi rừng Tây Bắc .


Và đoạn đầu kết thúc bằng một hình ảnh đột ngột :

Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Cảnh tượng thật đầm ấm . Sau bao chặng đường hành quân gian
khổ, những người lính được nghỉ ngơi, được quây quần bên
những nồi cơm đang bốc khói. Nó xua tan đi những mệt mỏi trên
gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn . Hai câu thơ
tạo cảm giác êm dịu, ấm áp , chuẩn bị tâm thế cho người đọc
bước sang đoạn thơ thứ hai .

Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của Tây Bắc . Cảnh núi
rừng hoang vu hiểm trở dần xa khuất nhường chỗ cho vẻ mĩ lệ,
thơ mộng duyên dáng . Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở
đoạn đầu được thay thế bằng những đường nớt mềm mại, uyển
chuyển, tinh tế .



Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước vẻ đẹp
mang vẻ bí ẩn của con người và cảng vật nơi xứ lạ . Cảnh ấy,
người ấy hiện lên trong một thời gian làm nổi lên rõ nhất sự lung
linh, huyền ảo của nó : cảnh một đêm liên hoan văn nghệ giữa
lửa đuốc bập bùng và cảnh một cuộc vượt thác .

Cảnh đêm liên hoan văn nghệ có sự góp mặt của những người
dân địa phương được miêu tả bằng những chi tiết vừa thực mà
cũng rất ảo :

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Cả danh trại bừng sáng, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đem văn
nghệ bắt đầu . Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm
thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng sáo, tất cả như ngả nghiêng,


bốc men say, ngất ngây rạo rực . Nhân vật trung tâm của đêm hội
là những cô gái địa phương vừa tình tứ, vừa e thẹn trong những
bộ áo xiêm lộng lẫy đã hút cả hồn vía các chàng trai Tây Tiến .

Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cảm giác tươi vui thì cảnh vượt
sơng lại gợi lên cảm giác mênh mông , mờ ảo :

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa

Khơng gian dịng sơng trong một buổi chiều bao phủ một màn
sương huyền thoại . Trên dịng sơng ấy nổi bật lên dáng hình
mềm mại, uyển chuyển của người con gái Thái trên chiếc thuyền
độc mộc . Và như hòa hợp với con người , những bông hoa rừng
cũng cố làm duyên trên dòng nước lũ .


Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên
dáng, mĩ lệ, thơ mộng đó của Tây Bắc, hình tượng người lính
xuất hiện với một vẻ đẹp đầy chất bi tráng :

Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Quang Dũng đã chắt lọc những nét tiêu biểu nhất của những
người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể . Cái bi và
cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa
quyện vào nhau, thâm nhập vào nhau, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ
đẹp bi tráng .

Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với dáng vẻ xanh xao bề
ngồi, với đầu khơng mọc tóc . Đây khơng phải là cách gây ấn
tượng bằng hình ảnh cho người đọc mà phản ánh một thực tế khi



người lính đối diện với căn bệnh sốt rét hiểm nghèo Ta bắt gặp
trong thơ kháng chiến những hình ảnh quen thuộc đó : “Sốt run
người vầng trán ướt mồ hơi” trong Đồng chí của Chính Hữu hay
cái mầu da vàng nghệ trong Cá nước của Tố Hữu : “Giọt giọt mồ
hôi rơi, Trên trán anh vàng nghệ” . Quang Dũng cũng từ sự thật
đấy nhưng nhà thơ đã nhìn bằng cảm hứng lãng mạn . Hay nói
cách khác nhà thơ đã lãng mạn hố hiện thực. “Tây Tiến đồn
binh khơng mọc tóc”, câu thơ khơng gợi cảm giác bi luỵ mà hiện
lên sau đó là vẻ đẹp dữ dội, lẫm liệt khác thường . Âm hưởng câu
thơ gợi lên hoành tráng từ những từ ngữ mang thanh trắc: Tây
Tiến, khơng mọc tóc làm câu thơ như vút lên . Hai chữ “đoàn
binh”, một từ Hán Việt rất trang trọng đã góp phần tơ đậm cái
hùng dũng của binh đồn Tây Tiến đang tiến về phía trước . Sự
thật thiếu ăn và bệnh sốt rét làm người lính xanh xao, nhưng với
cái nhìn lãng mạn, màu xanh ấy lại được liên tưởng tới màu xanh
của lá rừng đại ngàn . Qn xanh vì đói khát, sốt rét nhưng vẫn
tốt lên cái oai phong dữ đằn của những con hổ nơi rừng thiêng .
Ba chữ “dữ oai hùm” không chỉ đơn thuần là một phép so sánh


mà còn thể hiện sự tiếp thu truyền thống thẩm mĩ phương Đông
của tác giả . Một quan niệm về vẻ đẹp người anh hùng trên nền
của sức mạnh thiên nhiên, của hổ báo : “Râu hùm, hàm én, mày
ngài” (Từ Hải – Truyện Kiều) hay “Sĩ tốt kén tay tì hổ, Bề tơi chọn
kẻ vuốt nanh” để nói đến sức mạnh của nghĩa qn Lam Sơn
trong Cáo bình Ngơ của Nguyễn Trãi, hay trong Thuật hoài của
Phạm Ngũ Lão : “Tam qn tì hổ khí thơn ngưu” . Cho nên ba
chữ “dữ oai hùm” có sự chất chứa hội tụ , kết tinh hào khí của
người lính Tây Tiến . Cái vẻ oai phong đó cịn được thể hiện qua

ánh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” . Mắt trừng gợi khát vọng
chiến đấu đến lạnh lùng, người lính Tây Tiến mộng chiến đấu,
mộng lập cơng, mộng truy kích giặc qua biên giới Việt Lào . Đó
cũng là cái mộng chung của người lính một thời thanh gươm
lưng ngựa .

Đọc những hình ảnh “khơng mọc tóc”, “qn xanh màu lá”, “dữ
oai hùm” ta cứ ngỡ những ý chí căm hờn và khát vọng chiến đấu
đã tôi luyện trái tim thành sắt đá . Vậy mà đọt ngột hiện ra câu


thơ : “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” . Câu thơ miêu tả rất
đúng, rất chân thực đời sống của người lính Tây Tiến, vốn xuất
thân từ học sinh, sinh viên trí thức . Họ ra đi từ trường xưa phố
cũ, nhiều người xuất thân từ thủ đô Hà Nội , cho nên giữa cuộc
sống kham khổ thiếu thốn, thậm chí đối diện với cái chết họ vẫn
giữ được vẻ hào hoa lãng mạn . Họ mơ về Hà Nội của một thời
cắp sách tới trường , mơ về một dáng yêu kiều thướt tha tà áo
dài, đôi mắt biếc ... Nếu như chàng trai cày đi vào cuộc chiến đấu
nhớ về làng quê yêu dấu, nhớ giếng nước, gốc đa, nhớ gian nhà
khơng mặc kệ gió lung lay, hoặc nhớ về :

“Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
(Nhớ – Hồng Ngun)

thì những người lính Tây Tiến lại thắp sáng tâm hồn mình bằng



những giấc mơ, những giấc mơ như những hành trang không thể
nào thiếu được trong trái tim của họ, để họ có thể vượt qua mọi
thử thách . Ở đây tình u lứa đơi đã hồ quện cùng tình u quê
hương đất nước .

Như vậy người lính trong cảm nhận của Quang Dũng khơng chỉ
có những đường nét khắc họa bên ngồi mà cịn có cả thế giới
tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ .

Nếu như đôi cánh của lí tưởng được Quang Dũng sử dụng như
những gam mầu cơ bản để dựng lên bức chân dung người lính
Tây Tiến bi hùng, thì cũng chính cái nhìn lí tưởng đó kết hợp
cùng đơi mắt lãng mạn, tác giả khơng hề nhấn chìm người đọc
vào cái bi thương bi lụy của những mất mát hi sinh . Chính cảm
hứng lãng mạn đã nâng cánh cho cho những sáng tạo khi ơng
nhìn nhận cái bi thương . Cùng với nghệ thuật nói giảm (Áo bào
thay chiếu anh về đất), cách dùng từ Hán Việt cổ kính, trang trọng
: biên cương, mồ viễn xứ đã biến những nấm mồ của người lính


nơi rừng hoang biên giới trở thành hồn nhiên vĩnh hằng , sống
mãi cùng thời gian . Đặc biệt cái bi thương vơi hẳn đi ở tư thế ra
đi vì vì lí tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” . Hai chữ
chẳng tiếc đặt ở giữa dịng thơ nói lên sự tự nguyện, thanh thản
của những người cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh . Hai chữ đời
xanh gợi tuổi trẻ với bao ước mơ hi vọng . Đẹp là thế, đáng yêu
là thế nhưng họ vẫn tự nguyện hiến dâng cho dáng hình xứ sở
bởi có sự hi sinh nào lớn lao và đẹp hơn . Quang Dũng đã lãng
mạn hóa sự hi sinh, những người lính mang dáng vẻ những tráng

sĩ thuở xưa coi cái chết nhẹ như lơng hồng, sống chiến đấu vì lí
tưởng . Trước cái chết của người lính Tây Tiến, khơng một tiếng
khóc, khơng một vịng hoa, dịng “Sơng Mã gầm lên khúc độc
hành” như khúc nhạc bi tráng tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ
cuối cùng , và như thể ru giấc nhủ ngàn thu của họ .

Cái âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy , cái
chết , sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thẫm
đẫm tinh thần bi tráng .


Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ , như nói lên bức chân dung
tinh thần của người lính Tây Tiến, đó là vẻ đẹp ra đi tìm lí tưởng
khơng hẹn ngày gặp lại (Tây Tiến người đi không hẹn ước) . Đó
cũng là dáng dấp của người li khách trong “Tống biệt hành” của
Thâm Tâm :

Chí nhớn chưa về bàn tay khơng
Thì khơng bao giờ nói trở lại .

Đó cũng chính là hình ảnh người ra đi trong Đất nước của
Nguyễn Đình Thi :

Người ra di đầu khơng ngoảnh lại .

tất cả như một lần nữa tô đậm không khí thời Tây Tiến, khẳng
định lí tưởng chiến đấu vì độc lập Tổ quốc ln bừng cháy trong
tim người lính .



III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .

Tây Tiến là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ Quang
Dũng, nó khơng chỉ thâu tóm được khơng khí náo nức ra trận của
một thời oanh liệt mà còn thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của
những người con ưu tú sẵn sàng xả thân vì lí tưởng . Đó là bức
tranh hoành tráng khắc hoạ cái dữ dội , hào hùng nhưng sâu
lắng, tang thương mà không hề bi luỵ . Một thành công của văn
chương chống Pháp khi xây dựng hình tượng người lính .



×