Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Ôn thi đại học môn văn – Văn xuôi kháng chiến chống Pháp pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.56 KB, 15 trang )

Ôn thi đại học môn văn –phần 91
Văn xuôi kháng chiến chống Pháp
VĂN XUÔI KHÁNG PHÁP

Vấn đề 1: ĐÔI MẮT (Nam Cao)

* Vầng trán em vương trời quê hương
Mắt em vời vợi buồn Tây Phương …”
(Quang Dũng)

A. CÂU HỎI:

Câu 1: Lúc đầu, Nam Cao đặt tên cho thiên truyện ngắn của
mình là “Tiên sư thằng Tào Tháo”, sau đổi là Đơi mắt. Căn cứ
vào tác phẩm. Hãy giải thích tại sao Nam Cao lại đổi tên tác
phẩm như vậy? Ý nghĩa của tên truyện Đôi mắt ?


* Gợi ý trả lời

Lúc đầu, Nam Cao đặt tên cho thiên truyện ngắn của mình là Tiên
sư thằng Tào Tháo, sau lại đổi thành Đôi mắt. Tác phẩm được
kết thúc bằng tiếng chửi yêu, đầy thán phục của nhân vật Hoàng
khi nghe vợ đọc Tam Quốc ở cái đoạn Tào Tháo đánh Quan
Công: “Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư thằng Tào
Tháo!”. Lúc đầu có lẽ tác giả đặt tên truyện là Tiên sư thằng Tào
Tháo là do ông nhận ra được cái độc đáo của câu kết xuất thần
này. Nhưng sau đó, khi đã ngẫm nghĩ lại, như chính Nam Cao
viết trong nhật kí, ông “đặt cho nó một cái tên giản dị và đứng đắn
hơn, Đôi mắt”. Như vậy cái tên Đôi mắt ra đời sau sự nghiền
ngẫm của nhà văn, vừa giản dị vừa sâu sắc, thể hiện được chủ


đề của tác phẩm. Đơi mắt là vấn đề cách nhìn, vấn đề quan điểm.
Nam Cao gọi đó là cách “nhìn đời và nhìn người”. Cách nhìn ấy
được thể hiện một cách cụ thể và sinh động, đầy ám ảnh nghệ
thuật trong tác phẩm. Đó là cách nhìn nhân dân lao động, chủ
yếu là người nông dân trong những năm đầu của cuộc kháng


chiến chống thực dân Pháp của một lớp trí thức văn nghệ sĩ.

Câu 2: Những tác phẩm của Nam Cao thường được xem như là
tuyên ngôn nghệ thuật của tác giả? Chú thích thời kỳ sáng tác.
(HS tự soạn).
B. LÀM VĂN

Đề 1: “… Đôi mắt của Nam Cao được coi như là bản Tuyên
ngôn Nghệ Thuật của thế hệ chúng tơi, hồi ấy…” (Tơ Hồi).
Phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhận định trên.

* Gợi ý

1/ Đôi mắt thuộc số những tác phẩm mở đầu xuất sắc của nền
văn xuôi Việt Nam sau cách mạng tháng tám 1945.

Đọc Đôi mắt, đầu tiên ta nhận ra một mảng hiện thực thời kì đầu


của cuộc kháng chiến gian khổ. Vẫn chưa thấy Nam Cao, đột phá
qua lớp vỏ hiện thực, ta nhận ra tầng ngầm tâm trạng của một thế
hệ trí thức văn nghệ sĩ hồi ấy. Vẫn chưa thực sự thấy Nam Cao.
Phải đào đến lớp thứ ba, ta mới bắt gặp tầng tư tưởng, tức là

tầng ý nghĩa nhân sinh mà nhà văn muốn gửi gắm trong tác
phẩm. Ấy là vấn đề “đôi mắt”, vấn đề nhận đường, vấn đề xác
định cái nhìn đúng đối với nhân dân và kháng chiến. Nhà văn Tơ
Hồi nhận xét rất đúng rằng: “Đơi mắt là tuyên ngôn nghệ thuật
chung của lớp văn nghệ sĩ lúc bấy giờ”.

2/ Như vậy, Đôi mắt cơ bản là một tác phẩm luận đề, nó muốn đề
xuất, tranh luận một vấn đề thuộc về cách nhìn, về lập trường
quan điểm, về nhân sinh quan và thế giới quan. Tính hấp dẫn của
vấn đề mà Đôi mắt đặt ra đã hút nhiều cây bút phân tích tác
phẩm này lao vào cuộc luận chiến tư tưởng, say mê khai thác cái
nhìn đúng của Độ, cái nhìn sai của Hồng, biết bài bình luận văn
chương thành bài kiểm điểm tư cách cơng dân. Đúng là có một
nhà tư tưởng Nam Cao trong Đôi mắt – một nhà tư tưởng sâu


sắc, không ồn ào mà thâm trầm ý nhị. Nhưng nhà tư tưởng Nam
Cao đã giao hòa tuyệt diệu với nhà nghệ sĩ Nam Cao, tạo ra một
nụ cười ẩn hiện khắp tác phẩm, một nụ cười trí tuệ thâm thuý, có
sức hấp dẫn lớn đối với người đọc. Phải chăng đọc Đôi mắt là
đọc được nụ cười rất Nam Cao ấy, đọc ra nhà tư tưởng trong
nhà nghệ sĩ chứ không phải nhà nghệ sĩ trong nhà tư tưởng.

Đầu tiên, hãy khảo sát nhân vật thành công nhất của Đơi mắt là
văn sĩ Hồng. Đọc luận đề Đơi mắt nên đọc từ hình tượng, qua
hình tượng ấy, đồng thời nên thấy nụ cười Nam Cao ẩn hiện
trong đó, người đọc sẽ thấy bao nhiêu là thú vị. Chẳng tình cờ
chút nào khi Nam Cao chọn điểm xuất phát cho câu chuyện về
Hồng lại bằng hình ảnh con chó Tây hung hăng mở đầu tác
phẩm. Một con chó cao lớn như con bê, rất hung tợn, đến mức

mỗi lần Độ đến chơi, mặc dù đã được anh Hoàng ra đứng tấn
yểm trợ, Độ cũng chỉ đủ can đảm bước vội qua đằng sau cái đi
nó để vào phịng khách. Độ phải thú thực: “Tơi rất sợ con chó
giống Đức hung hăng ấy. Sợ đến nỗi một lần đến chơi, không


thấy anh Hồng ra đứng tấn để giữ nó mà lại buồn rầu báo cho
tơi biết nó chết rồi, thì mặc dầu có làm ra mặt tiếc với anh, thật
tình tôi thấy nhẹ cả người”. Tại sao câu chuyện về Hồng lại bắt
đầu từ con chó? Phải chăng, trước hết, đó là chi tiết có khả năng
đập mạnh vào ấn tượng của người đọc, tạo sức cuốn hút ngay từ
đầu. Song quan trọng hơn, Nam Cao muốn gián tiếp gợi ấn
tượng hài hước và bao trùm về Hồng (ơng chủ con chó): phú
quý – thời dân chết đói đầy đường mà Hồng vẫn kiếm đủ mỗi
ngày vài lạng thịt bị ni chó thì đâu phải loại người thường – và
dữ dằn nữa. Liền sau hình ảnh chó dữ (đã chết) là chân dung
biếm họa của Hoàng. Đây là loại chân dung dị dạng khôi hài rất
sở trường của Nam Cao, khiến ơng dựng Hồng nổi hình nổi khối
lên, cựa quậy rất kì thú: “Anh Hồng đi ra. Anh vẫn bước khệnh
khạng, thong thả bởi vì người to béo quá, vừa bước vừa bơi hai
cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách
kềnh ra và trông tun ngủn như ngắn quá. Đúng là một chân dung
khiến người đọc phải nhờn ngấy lên. Nam Cao còn bổ sung vào
đấy “một cái vành móng ngựa ria” đặc thị dân. Chỉ mới xuất hiện,


Hoàng đã hiện lên rất sống: đầy ứ sự no nê múp míp, sự nhàn hạ
phong lưu, khiến anh ta trở nên rất chướng trong hoàn cảnh cả
một dân tộc đang gian lao kháng chiến.


Qua hồi tưởng của Độ, Nam Cao dùng phép đồng hiện làm hiện
ra một Hoàng của q khứ, tạo thêm bề dày cho hình tượng.
Hồng vốn là kẻ đố kị, cơ hội, lật lọng, giả dối… Đặc biệt Hồng
có cái tật “đá bạn” một cách đột ngột, có lúc đã ra báo chửi bạn
bè.

Nam Cao khơng đao to búa lớn với Hoàng, như Hoàng đã từng
đao to búa lớn báng bổ nơng dân. Nhiều chỗ, ngịi bút của nhà
văn rất kín, thống đọc chẳng thấy gì, nhưng càng ngẫm càng
thấy đầy thâm ý. Ví như đoạn tả Hồng đón Độ. Thoạt nhìn thì có
vẻ thân tình, nhìn kĩ thì hố ra đóng kịch. Hồng cầu kì, phức tạp,
tạo dáng trong một hệ thống động tác, trau chuốt đến cả những
cái chìa tay, hé miệng, rồi lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổ
họng… Nam Cao đã “kịch hóa” hành động của nhân vật, bắt anh


ta phải bộc lộ tân cùng sự giả dối trong bản chất.

Mà nào đã hết. Cái nghề của Hoàng cũng có một điều gì thật bất
ổn: Hồng là nhà văn kiêm tay buôn chợ đen. Quả là một kết hợp
cọc cạch, lạc điệu. Nhà văn hướng thiện, tay buôn hướng lợi. Ở
Hồng, nhà văn khơng lấn át được con bn, mà ngược lại “con
bn hóa”, nên Hồng ln so bì tính tốn, sợ thiệt.

Nhiều người đã cho rằng bản thân cách sống thanh lịch của
Hồng khơng có gì đáng phê phán cả. Hồng cũng khơng phải là
phản động, là kẻ thù của kháng chiến. Vậy đánh giá cách sống
của Hoàng như thế nào? Phải đặt Hoàng vào hoàn cảnh cả dân
tộc kháng chiến.


Trong lúc mọi người quên cá nhân mình để sống và chiến đấu
cho độc lập, tự do của tổ quốc thì Hồng lại chăm sóc cá nhân
q kĩ lưỡng: đi tản cư vẫn dùng thuốc lá thơm, và cịn đủ thời
gian tỉa tót vành ria mép… Đấy là lối sống kiểu cách, xa lạ, vô


trách nhiệm, bộc lộ bản chất ích kỉ của Hồng.
Cách sống ấy có ngun nhân từ cách nhìn, nhìn lệch thì sống
lệch. Cái nhìn của hồng cũng khơng phải sai cả, nhưng cơ bản,
Hồng nhìn rất méo mó về nhân dân (đặc biệt là nông dân), về
kháng chiến. Người xưa nói: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách”. Nhưng Hồng lại sống rất vơ trách nhiệm, ngơi nhà ln
đóng kín cổng của anh như một biểu tượng cho thái độ đứng
ngoài cuộc, cho cái lạnh lẽo dửng dưng của kẻ đã khước từ
kháng chiến. Ấy thế mà Hồng lại thích đứng ngoài để chửi đổng
– chửi đổng nhân dân, chửi đổng kháng chiến. Hồng sắc sảo
đến hiếm có khi giễu cợt nhân dân: nào là chị dâu bị em đuổi ra
vườn mà đẻ; nào là người nhà quê hay nhòm ngó, khách lạ vào
làng thì đếm được từng nốt ruồi trên mặt, từng lỗ rách ở ống
quần bên trái; nào là người nhà q thích xét giấy, thích nói
chuyện chính trị…, tóm lại là tồn những người “vừa ngố vừa
nhặng xị”. Hồng cịn có tài bình luận bộc lộ thái độ đánh giá theo
kiểu chê bai một cách nồng nhiệt đến trắng trợn. “Nỗi khinh bỉ của
anh phì cả ra ngồi theo cái bĩu mơi dài thườn thượt. Mũi anh


nhăn lai như ngửi thấy mùi xác thối”. Đồng minh với thái độ độc
ác này là vợ Hồng. Cơ ta nghe chồng kể, khoái trá tới mức cười
rú lên, cười đến phát ho, đến chảy cả nước mắt… Hoàng càng tỏ
ra sắc sảo càng trở nên phiến diện. Độ nhận xét rất chính xác:

cách nhìn đời, nhìn người của Hồng là cách nhìn “một phía”,(mà
lại là phía hiện tượng, phía bên ngoài), hoàn toàn mù mờ về bản
chất tốt đẹp bên trong của những người nông dân kháng chiến,
nên anh ta đã khinh bỉ họ đến tàn nhẫn, dẫn đến thái độ bi quan
trước tiền đồ của cuộc kháng chiến là một tất yếu. Chính Hồng
tự nhận: “Tơi bi lắm”. Bi vì khơng cơng nhận vai trị lịch sử của
nhân dân, Hoàng chỉ biết sùng bái cá nhân lãnh tụ. Mà Hồng
sùng bái Cụ Hồ một cách ngơ nghê, nực cười, nhất là khi Hồng
tỏ ý thương cho Ơng cụ: “Phải cứu một nước như nước mình kể
cũng khổ cho Ơng cụ lắm (…) dù dân mình có tồi đi nữa, Ông cụ
xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường”. Đây là cái nhìn của
một con người bị cầm tù trong chủ nghĩa cá nhân, làm hỏng tư
cách công dân lẫn tư cách nhà văn ở Hoàng. Nam Cao để Hoàng
thả sức “chửi đổng” đối với cuộc kháng chiến, rồi bất ngờ lại để


Hồng sa vào cái bàn tổ tơm với bọn trí thức cặn bã ở Hà Nội thải
về. Nam Cao còn để Hồng than phiền rằng khơng có một cái
bàn cho ra hồn để viết văn, và y ao ước sẽ viết về cái thời này
như Vũ Trọng Phụng từng viết Số đỏ . Lại một cơ hội để Nam
Cao phơi bày khơng thương tiếc cái nhìn hời hợt mà tàn nhẫn
của Hồng. Chao ơi! Chỉ có loại người như Hồng mới dám táo
tợn đánh đồng cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc với cái ơ hợp,
phi lí thời Vũ Trọng Phụng, đặt cuộc kháng chiến trong một cái
nhìn giễu cợt. Đến đây thì tồn bộ bản chất của Hồng đã bị lột
trần trước tiếng cười biếm hoạ sắc sảo, thâm th của Nam Cao.

3/ Hồng tràn ngập trong Đơi mắt, nhưng nói thế giới của Đơi mắt
là thế giới của Hồng thì lại khơng ổn. Vì cạnh Hồng là Độ. Cuộc
gặp gỡ giữa Hoàng và Độ là cuộc gặp gỡ của hai cái nhìn, hai

cách sống trái ngược. Độ là một nhà văn cũ nhưng có cái nhìn
mới, sống gắn bó với kháng chiến. Nếu Hồng đầy ắp ngơn ngữ
đến mức ngoa ngoắt thì Độ lại đầy ắp suy tư. Hai nhân vật tương
phản nhau gay gắt ở cả tính cách, cái nhìn lẫn bút pháp miêu tả


của Nam Cao.

Truyện cịn có một chi tiết rất dí dỏm: Do Độ từng ngủ chung với
công nhân xưởng in, nên khi nằm chung với Hoàng, Độ lo ngay
ngáy mấy con rận trong bộ quần áo tây của mình “du lịch” sang
cái chăn bông thoang thoảng mùi nước hoa của Hoàng. Một chi
tiết nhỏ mà đủ dựng lên thế đối lập hài hước giữa hai cách sống:
Chiếc chăn bông thơm nức sự sang trọng là chân dung của một
lối sống xa hoa lạc lõng, cịn bộ quần áo tây có “cái giống kí sinh
trùng hay phản chủ ấy” lại tiêu biểu cho lối sống gắn bó với nhân
dân kháng chiến đang lam lũ trong cuộc đấu tranh sinh tử.

Nhưng phép tương phản của Nam Cao chỉ tỏ ra sâu sắc nhất là
lúc nhà văn đặt Độ và Hoàng cùng đứng trước một tình thế: anh
nơng dân đọc thuộc lịng bài “ba giai đoạn”. Đây là phép thử quan
trọng nhằm phân biệt triệt để hai con người rất khác nhau này.
Điều gì đã xảy ra? Hồng nồng nhiệt phì ra bao nhiêu khinh bỉ
cùng những triết lí tăm tối, trong lúc Độ chỉ lặng lẽ hạ một nhận


xét ngắn: “Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lịng bài “ba
giai đoạn” nhưng anh khơng trơng thấy bó tre anh thanh niên vui
vẻ vác đi để ngăn quân thù”. Nhận xét này vạch rõ sự khác biệt
giữa hai kiểu tư duy: Hồng thiên về cái nhìn bề ngồi nên hời

hợt, bi quan, tàn nhẫn; Độ hướng cái nhìn vào bản chất, mục
đích nên thơng cảm, tin u nhân dân. Cái nhìn của Độ thể hiện
một quá trình phát triển, từ phiến diện đến toàn diện. Độ bộc lộ
chân thành: trước cũng nghi ngờ sức mạnh của quần chúng, nay
đã thấy những anh “răng đen mắt toét”, “gọi lựu đạn là nựu đạn”
mà “lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm”. Miêu tả q trình
chuyển hố của Độ, ngòi bút Nam Cao tăng thêm sức mạnh chân
thực, giàu thuyết phục. Độ cũng thuộc lớp nhà văn cũ đi theo
kháng chiến, kịp rũ bỏ tư tưởng lạc hậu để có đơi mắt mới, tình
cảm mới. Nhìn đời, nhìn người đúng. Độ đã biết hòa nhập với
kháng chiến, với nhân dân. Sự đối lập giữa Độ và Hoàng là sự
đối lập giữa cái mới và cái cũ. Miêu tả sự đối lập đó, tác giả Nam
Cao nhằm tăng sức phê phán cái cũ, khẳng định cái mới.
4/ Đúng như Tô Hồi đánh giá, Đơi mắt là một bản tun ngơn


nghệ thuật. Đại hội văn hóa tồn quốc năm 1948 kêu gọi trí thức
và văn nghệ sĩ “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng
chiến”. Nhạy cảm với phương hướng đó, Đơi mắt trở thành tun
ngơn về cái nhìn tin yêu đối với nhân dân và thời đại, tuyên ngôn
về chỗ đứng của nhà văn trong kháng chiến: Hãy biết tin vào sức
mạnh nhân dân, hãy biết đứng vào hàng ngũ của họ, đem tài
năng dâng hiến cho sự nghiệp cách mạng. Đi mắt cịn là tun
ngơn về một quan điểm mĩ học mới: cái đẹp thuộc về nhân dân,
nhân dân là nhân vật trung tâm, là nguồn cảm hứng lớn của nền
văn nghệ mới. Đây là vấn đề sinh tử, là chân lí mn đời của
nghệ thuật. Một nền nghệ thuật đánh mất nhân dân là một nền
nghệ thuật tự diệt.

Đặt trong thế giới nhân vật trí thức khá đông đúc của Nam Cao

(như Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, Điền trong truyện ngắn
Trăng sáng, Hài trong truyện ngắn Mua nhà, Thứ, Đích, San …
trong tiểu thuyết Sống mịn…), nhân vật Độ và Hồng thể hiện tài
nghệ xuất sắc của Nam Cao trong việc miêu tả nhân vật. Nhân


vật của ông sâu sắc về tư tưởng mà không khơ khan trong khái
niệm, vừa giàu cá tính mà vẫn rất khái quát, có thể từ trang sách
bước ra cuộc đời. Ở hình tượng nhân vật Hồng, ơng đã phối
hợp miêu tả được cả chân dung, hành vi với ngôn ngữ, giọng
điệu rất nhuần nhuyễn khiến Hoàng như con người có thật, rất
thật, đang hung hăng cười nói, tức giận, sùi cả bọt mép trước
mắt ta. Ví như cách Nam Cao kết thúc thiên truyện bằng cái vỗ
đùi đắc ý và lời khen Tào Tháo của Hoàng – một chi tiết thật tài
năng, lột tả cảm xúc hết mình của Hoàng với một thế giới xưa cũ
trong sách, trong khi rất thờ ơ với cuộc đời kề cận. Đó là một
niềm vui lạc lõng như thứ quả trái mùa của đơi mắt nhìn đời, nhìn
người lệch về một phía. Tài năng của Nam Cao chính là ở sự kết
hợp sâu sắc giữa tính tư tưởng đầy sức khái quát với tính hình
tượng cực kì sinh động này.



×