Ôn thi đại học môn văn –phần 93
Nêu tóm tắt quan điểm sáng tác nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
Chứng minh sự thể hiện quan điểm ấy trong sáng tác văn
học của Người.
BÀI LÀM
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ nhận mình là một
nhà văn, nhà thơ. Người càng không bao giờ có ý định để lại cho
đời một sự nghiệp văn thơ. Nhưng trong quá trình hoạt động
cách mạng, Người lại thấy rõ văn học có thể thành một phương
tiện lợi hại phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng cho mục
đích chính trị của mình. Và vì vậy khi có điều kiện, Người đã sáng
tác văn chương. Người viết văn làm thơ là để làm cách mạng.
Cách mạng là cái gốc của văn thờ Người. Ý lớn, điều hay, vẻ đẹp
của văn thơ Người đều sinh sôi nảy nở từ cái gốc cách mạng
này. Thép từ đấy mà tình cũng từ đấy. Nghệ thuật cũng từ đấy
mà ra. Xác định được điều này chúng ta có cơ sở để hiểu quan
điểm sáng tác nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
Kể từ khi “Đi tìm hình của nước” cho đến khi từ biệt chúng ta “để
gặp cụ Các Mác, cụ Lê – Nin”, Người đã sử dụng ngòi bút của
mình như một vũ khí chiến đấu. Để cho sáng tác của mình có tác
dụng thiết thực và đạt hiểu quả cao, Người cũng đã tự đặt cho
mình những nguyên tắc khi cầm bút. Trước hết là mục đích viết
để làm gì? Tiếp đó là viết cho ai? Từ đó viết để làm gì, và viết cho
ai mà quy định nội dung, quy định cách viết: viết cái gì và viết như
thế nào? Những nguyên tắc sáng tác nay như một sợi chỉ đỏ
xuyên suốt tác phẩm của Người, dù là ở nước ngoài hay ở trong
nước, dù là viết bằng tiếng Việt Nam, hay tiếng Pháp, tiếng Trung
Quốc, dù là viết khi người còn trẻ hay đã về già, sáng tác của
Người nhất quán trong phong cách, đa dạng về thể loại, lúc thì
như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, điêu luyện và rất Pháp,
lúc thì “giá đặt bên cạnh Đường thi và Tống thi cũng khó mà phân
biệt được”. Lại cũng có những tác phẩm mà các bậc đại khoa,
các bậc túc nho – uyên thâm chữ nghĩa – cảm thấy rất thích hợp
với mình. Trong khi một số tác phẩm khác thì những người công
nhân, những người nông dân kém văn hóa, đọc không những dễ
hiểu mà còn rất thích.
Về văn xuôi, từ Vi hành đến Tuyên ngôn Độc lập, từ Con đường
dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin đến Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, Người đều viết theo yêu cầu của cách mạng, trong một
hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhằm một mục đích cụ thể để kịp
thời phục vụ cách mạng.
Để làm sáng tỏ vấn đề hơn, ta có thể lấy việc sáng tác Con
đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin làm thí dụ. Nhiều người đã
mất thời giờ tranh luận xem sáng tác này là nghị luận chính trị
hay hồi ký cũng là do không nắm được quan điểm sáng tác của
Hồ Chí Minh.
Mục đích sáng tác của bài văn này đã vượt khỏi phạm vi dân tộc
mà mang một ý nghĩa quốc tế vô sản rất trọng đại. Bấy giờ, vào
những năm cuối của thập kỷ năm mươi, vào lúc cần khẳng định
sự đúng đắn tuyệt đối của chủ nghĩa Lênin đối với cao trào cách
mạng giải phóng dân tộc trước sự tấn công của chủ nghĩa xét lại,
vấn đề là nói như thế nào đây để mọi người, mọi dân tộc dễ dàng
hiểu được rằng: chỉ có chủ nghĩa Lênin mới thực sự giải phóng
được cho các dân tộc bị áp bức? Và Người đã chọn giọng kể
thành thực, cảm động, đôi khi pha chút tự hào dí dỏm bằng
những chi tiết chân thực chọn lọc. Chính nhờ đó mà những kỷ
niệm tưởng như riêng tư lại mang được ý nghĩa xã hội rộng lớn
hơn là những lý luận dài dòng. Đây là cái thần của văn chương
Hồ Chí Minh. Lý luận dù viết những vấn đề phức tạp, cao siêu, lời
lẽ của Người vẫn giản dị, dễ cảm dễ nhớ, vui tươi.
Khi cần, Người không tự bó mình trong một thể loại nhất định nào
cả. Thể loại, ngữ nghĩa, câu cú đối với Người chỉ là phương tiện.
Đã như vậy phương tiện nào tốt nhất thì dùng, không câu nệ.
Không nhất thiết chỉ là ký hay chỉ là chính luận mà có thể pha cả
hai. Mà pha cả hai thì đã sao một khi cả hai chuyên chở tốt nội
dung đến người đọc.
Hồ Chủ tịch có vốn văn hóa rất rộng, Người có thể sử dụng nhiều
loại ngữ, cho nên tùy theo mục đích chính trị cụ thể, tùy theo đối
tượng tuyên truyền mà Người sử dụng khi là tiếng Việt, khi là
tiếng nước ngoài. Chẳng hạn khi ở Pháp, các truyện ký và các
bài văn chính luận Người viết bằng tiếng Pháp để tố cáo thực dân
Pháp, để phơi bày bộ mặt của các xứ thuộc địa cho nhân dân
Pháp thấy rõ âm mưu và tội ác của chủ nghĩa thực dân. Sự vận
dụng các phương tiện nghệ thuật ngôn từ của Người bao giờ
cũng linh hoạt.
Trong thơ cũng vậy, rất nhiều khi Người phá thể lục bát thì:
Còn non còn nước, còn người
Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay.
(Di chúc)
Tứ tuyệt thì:
Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là.
(Pác Pó hùng vĩ)
Có biết bao nhiêu câu, chữ có sẵn của Truyện Kiều, của Chinh
phụ ngâm trong thơ tiếng Việt của Người. Ngay cả trong thơ chữ
Hán Đường luật, Người cũng không ngại xen vào bạch thoại,
tiếng lóng, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng địa phương, tiếng trẻ em
khóc. Nhiều khi Người đã mượn thi đề, thi tứ, thi liệu, những câu,
những chữ có sẵn từ xưa. Miễn sao đạt được ý Người muốn diễn
tả, Người có định làm nghệ thuật đâu!
Về thơ của Người có thể chia làm hai mảng: Thơ tuyên truyền cổ
động và thơ cảm hứng trữ tình.
Những bài thơ tuyên truyền cổ động viết trước và sau Cách mạng
Người viết cho quảng đại nhân dân ddeer tuyên truyền các chủ
trương đường lối cách mạng. Trước cách mạng hơn 85% dân ta
mù chữ. Sau Cách mạng, trong kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ chưa phải tất cả mọi người đã biết đọc biết viết. Vậy thì viết
sao cho “dân hiểu, dân nhớ, dân làm”. Thành thơ thì tốt, không
thành thơ thì cũng chẳng sao. Nhưng không ít bài đã trở thành
thơ bởi đó cũng là một phần máu thịt của Người. Xuân Diệu đã
khẳng định: “Trong khi viết về những bài ca cổ động tuyên truyền,
rất nhiều khi Bác đã đạt tới chất thơ”. Bàn về những bài thơ chúc
tết, Hoài Thanh cũng viết: “ Mục đích của Bác là năm mới kêu gọi
nhiệm vụ mới. Bác hoàn toàn không có ý định làm thơ. Mặc dù
vậy không ít bài chan chứa chất thơ.”
Thơ cảm hứng trữ tình của Người, một số rất ít viết bằng tiếng
Việt, còn phần lớn viết bằng chữ Hán trong đó có tập thơ nổi
tiếng Nhật ký trong tù. Thơ viết bằng chữ Hán thì rõ ràng không
phải viết cho quảng đại quần chúng. Trừ vài ba bài Người viết để
thù tạc với các cụ túc nho, còn nữa Người viết cho…chính
Người. Đây là những bài thơ Người không định làm mà có.
Trước môtj cảnh đẹp, trước một tình cảm lớn, Người cầm lòng
không đặng nên đã có thơ. Sau một cuộc họp đêm khuya, thuyền
về trên sông Đáy, trước cảnh vật tràn ngập ánh trăng và sông
nước, Người ứng khẩu đọc lên bốn câu tứ tuyệt. Ấy là bài
Nguyên tiêu chúng ta có hiện nay, một bài thơ đầy phong vị
Đường thi của một hồn thơ cộng sản. Xuất xứ cảu bài Báo tiệp
cũng là lúc Người bận rộn việc quân. Nhưng kìa ánh trăng, ánh
trăng như nhắn nhủ vẫy gọi. Tâm hồn Người vốn thiết tha với cái
đẹp, với ánh trăng hờ hững sao được. Thôi thì một chút có trăng.
Riêng tập thơ Nhật ký trong tù, Người viết cho Người để mong
khuây được nỗi vất vả về thể xác và nỗi buồn nhớ Tổ quốc khôn
nguôi. Tâm hồn ấy, con người ấy ưa thích tứ tuyệt Đương thi là
đúng. Đó là lối thơ ít lời mà nhiều ý. Đó là những vần thơ chờ đợi
tự do (vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do) và khi đã được tự do
rồi thì Người chấm hết cho tập thơ (Nhi kim hữu thị tự do nhân –
Ngục trung nhật ký tòng kim chủ) – Nói như Đặng Thái Mai: “Đây
là những vần thơ Người lỡ tay đánh rơi vào kho tàng văn học,
như một cử chỉ đùa, như một hành động ngẫu nhiên vô tình”.
Nhưng thơ cũng là người. Người làm sao thì thơ làm vậy. Xuyên
suốt tập Nhật ký trong tù là một tâm hồn đại trí, đại nhân, đại
dũng đang tỏa sáng giữa đêm đen của nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Mỗi lúc bàn về văn thơ Hồ Chí Minh, bất cứ ở phương tiện nào,
ta cũng như được gặp Bác. Và:
Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta.
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút.
(Tố Hữu)