TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH”
TRONG THƠ CA NGUYỄN DU-phần2
Tú Bà thật là bàn tay sắt đè nặng trên cuộc đời giai nhân. Thúy
Kiều vừa giáp mặt lần đầu tiên, tác giả đã cho nàng thấy một thái
độ vô nhân của mụ :
"Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên".
(ĐTTT câu 961-962)
Lời lẽ của mụ càng như những mũi tên độc áp đảo giai nhân :
"Con kia đã bán cho ta,
Nhập gia phải cứ phép nhà ta đây.
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao.
Phải làm cho biết phép tao,
Chặp bì tiên rắp sấn vào ra tay".
(ĐTTT câu 971-978)
Và cứ thế đôi bàn tay oan khốc của mụ cứ tăng thêm đau khổ
cho kẻ nữ nhi đọa đầy. Nàng vừa tủi nhục vì bị Sở Khanh lừa dối,
lại vừa rước lấy tai họa vào thân. Tú Bà lúc này hiện lên như một
ác thần trước mắt giai nhân :
"Tú Bà tốc thẳm đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau.
Hết lời thú phục khẩn cầu,
Uấn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa".
(ĐTTT câu 1133-40)
Nhưng có lẽ oan khốc nhất là lửa hờn ghen của Hoạn Thư. Thúy
Kiều đã hiểu cảnh chồng chung vợ chạ, mà phải chăng vì có số
đoạn trường, nàng vẫn "tìm những chốn đoạn trường mà đi".
Trong cuộc ân ái với Thúc Sinh, nàng đã ý thức về số phận và
hoàn cảnh của mình.
Nàng đã thổ lộ tâm can với Thúc Sinh :
"Vả trong thềm quế cung trăng,
Chủ trương đã có chị Hằng ở trong.
Bấy lâu khăng khít giải đồng,
Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây.
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho.
Như chàng có vững tay co,
Mười phân cũng đắp điếm cho một vài.
Thế trong dù lớn hơn ngoài,
Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng".
(ĐTTT câu 1339-52)
Có lẽ không còn cách nào khác, để mong thoát ly cảnh lầu xanh
bỉ ổi, nàng đành chấp nhận mùi giấm chua vậy. Vả nữa nàng
cũng có đủ khôn ngoan để đề phòng cơn sóng gió, nhưng vì
Thúc Sinh quá yếu lòng, nên đã gây thêm tan nát cho nàng. Vì sự
giấu quanh của chàng, Hoạn Thư càng tăng lửa giận :
"Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên".
(ĐTTT câu 1537-40)
Hoạn Thư quyết tỏ hết cái "nữ nhi thường tình" cho hai kẻ lén lút
biết bàn tay gang thép của nàng :
"Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đoạ cất đầu chẳng lên.
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay".
(ĐTTT câu 1549-52)
"Làm cho, cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi.
Trước cho bõ ghét những người,
Sau cho để một trò cười về sau”.
(ĐTTT câu 1617-20)
Thế là cung đàn bạc mệnh lại vang lên ai oán. Hoạn Thư ép buộc
Thúy Kiều hầu rượu và gảy đàn trước mặt Thúc Sinh, như một
nữ tì, cho bõ lòng hờn ghen. Tiếng đàn lúc này là những mũi giùi
đâm sâu trong gan ruột, cho đúng ý nghĩa đoạn trường :
”Nàng đà tán hoán tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng".
(ĐTTT câu 1851-54)
Sự giận hờn của con người quả thật là một nguyên nhân gây đau
khổ tan nát cho con người không kém gì lòng đam mê tham vọng.
- Si dục - Đó là thứ tình yêu thuần trữ, nó tràn lan thúc bách bên
trong, để phát ra những cử chỉ khác thường, mà văn chương
thường gọi là trữ tình, yêu đến độ si mê, mà không nói nên lời.
Dục vọng làm ê chề thể xác, còn trữ tình thường hay dày vò tâm
tư. Dục vọng là những nhịp sóng huyết nhục bồng bột, dễ vỡ bờ
và mau qua, còn trữ tình hay si tình là những dằn vặt của một mối
tình thâm; nó tàng ẩn thúc bách tận tâm can, như một con sâu
rúc rỉa trường miên.
Theo quan niệm Nho gia, thì trữ tình si tình là trường hợp của
những bậc tài tử giai nhân, mà thâm tình đôn tình là của bậc
quân tử. Còn dục tình là của phàm phu tục tử hay tiểu nhân.
Kinh Lễ viết :
"Người quân tử phản lại thường tình, để điều hoà chí lực cho
nên tình bên trong mà thâm hậu, thì phát lộ ra bên ngoài bằng
những vẻ đẹp trong sáng" (Quân tử phản tình dĩ hoà kỳ chí Thị
cố tình thâm nhi văn minh)[30].
Theo phái Huyền Học đời Tấn, thì yếu tố tình cảm là căn bản nếp
sống của người phong lưu tài tử.
Vương Nhung (234-305) thường nói với các bạn văn nhân :
"Thánh nhân thì quên tình, thứ dân thì chưa biết tới tình, còn như
bọn ta mới có tình vàng đá" (Thánh nhân vong tình, tối hạ bất cập
tình, tình chi sở chung chính tại ngã bối)[31].
Đạm Tiên, Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hãi đều là
những khách phong lưu trữ tình: Tình cảm của tài tử giai nhân
gây cho họ nhiều xúc cảm mãnh liệt, mà thường nhân không có.
Sách Thế thuyết tân ngữ kể rằng :
"Vương Khâm khóc cảnh phong lưu của mình, mà than rằng :
Vương Bá Dư (tức chính mình) ở đất Lang Da, rồi ắt phải chết vì
tình" (Lang Da Vương Bá Dư chung đương vi tình tử)[32].
Những tài tử giai nhân của Nguyễn Du cũng như chính Nguyễn
Du đều thuộc loại trữ tình và si tình như vậy. Thúy Kiều khóc vì
quá xung động tình cảm, trước nấm mồ vô chủ, trong khi Thúy
Vân, người bất cập tình, thì trách chị "khéo dư nước mắt khóc
người đời xưa". Tới khi nàng gặp Kim Trọng và đôi bên cảm
nhau, thì ôi thôi ! Tình cảm tràn đầy lênh láng, nào là "chập chờn
cơn tỉnh cơn mê" hay "rộn đường gần với nỗi xa bời bời", nào là
'”ngổn ngang trăm mối bên lòng" hay "nỗi lòng canh cánh bên
lòng biếng khuây", rồi hơn nữa "sầu đong càng lắc càng đầy" hay
"mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng"
Cho tới lúc hai người tái ngộ, đi sâu vào tâm tình nhau, thì khúc
tình ca càng chơi vơi tràn bờ :
”Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ.
Sông Tương một giải nông sờ,
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia”.
(ĐTTT câu 363-66)
Mối tình tràn đầy tính cách âm dương này khiến nhân tính hầu
như không thể cưỡng lại được nữa; cả hai đã mở đầu bài ca
chung tình bằng những cung đàn bạc mệnh đầu tiên :
"Khi tựa gối, khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.
Rằng : hay thì thực là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào".
(ĐTTT câu 487-90)
Từ đó bài ca chung tình lỡ dở, để cho mối tình tài tử giai nhân
càng đi sâu vào bi thiết rối loạn. Tới khi Thuý Kiều gặp Thúc sinh
và cùng chàng tiếp nối bài ca dang dở, thì tình sâu thẳm vẫn giữ
nguyên màu thẳm sâu :
"Một nhà xúm họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông".
(ĐTTT câu 1381-82)
Đường đời lại đưa nàng đến cuộc dang dở thứ hai:
"Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san".
(ĐTTT câu 1519-20)
Thế rồi cuộc tình dang dở sê còn dang dở mãi :
"Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại cách mười quan san".
(ĐTTT câu 1937-38)
Cho đến khi Thúc Sinh nói lên một câu dứt tình, thì thật là hết :
”Liệu mà cao chạy xa bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi".
(ĐTTT câu 1971-72)
Thế là hết những gặp gỡ trao tình. Nhưng tình càng đi sâu vào
tâm tư, để chờ bộc phát trong những kỳ ngộ mai sau. Phải kể
cuộc kỳ ngộ với người hùng Việt Đông : Từ Hải. Người ta trách
Thúy Kiều là kẻ ngoại tình, không phải một lần, mà là hết kẻ nọ
đến người kia. Nhưng Nguyễn Du đã trả Thuý Kiều về với nguyên
lý âm dương thuần túy và nguyên lý "tương ứng tương cầu”, khi
gặp Từ Hải :
"Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cỡi rồng".
(ĐTTT câu 2211-12)
Đây hẳn là cực đỉnh của danh vọng và cũng là cực đỉnh của mối
tình vớt vát trong đời nàng. Nhưng chính ở điểm cực đỉnh ấy,
nàng đã gảy khúc đàn bạc mệnh đến âm điệu chót :
"Thân sao thân đến thế này,
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi.
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương.
Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc, tan vàng thì thôi".
(ĐTTT câu 2611-16)
Kim Trọng cũng thế. Tình yêu là hơi thở là nhịp sống trọn đời của
chàng, chứ không phải chỉ là những rung động, những nồng bốc
trong giây lát. Đúng theo nghĩa âm dương vàng đá, thanh khí của
chàng một khi đã tương ứng tương cầu với Thúy Kiều, thì đôi bên
thanh khí như đã giao hoà cấu kết, không ly tán được. Thể xác
họ xa nhau, nhưng đôi tâm hồn mãi mãi như ràng buộc lấy nhau.
Vì thế sau những ngày phân kỳ, chàng trở về quyết tìm cho được
hình ảnh bản ngã thứ hai (le double moi) của mình qua Thúy
Kiều. Tìm đến nhà họ Vương, biết Thúy Kiều đã lưu lạc vô tăm
tích, tình cảm chan chứa dồn ép từ bao năm, bỗng giàn giụa trên
đôi mắt đôi môi chàng :
"Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai.
Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi,
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê".
(ĐTTT câu 2795-98)
Cho đến khi, vì thể hiện ý của Thúy Kiều mà kết hợp với Thúy
Vân, mối tình tinh túy âm dương nguyên thủy vẫn không nguôi
được :
”Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng".
(ĐTTT câu 2847-48)
Có thể người ta nghĩ rằng : Kim Trọng là mẫu người lãng mạn
ướt át. Nhưng đó là kiểu nói thông thường của văn chương bình
dân, nó không hợp với tâm hổn nhân bản của chàng, và không
đúng với lẽ tương ứng tương cầu. Tình lãng mạn ướt át là một
thứ tình trôi nổi, không mục đích, chỉ lắt lay theo đà lòng bột khởi
trong lúc nào đó, và thường thường thiếu thực tế. Ở đây tình của
Kim Trọng là tình cốt tủy vàng đá, do bản tính tạo thành; nó mãnh
liệt, mà trung kiên bền vững; tuy nhiên nó không mấy khi thoát nổi
đoạn trường. Nó không thể lãng mạn lắt lay được, mà chính cuộc
đoạn trường da diết lâu dài mới là men nồng cho tình yêu thêm
cường độ.
Chung quy, ta chỉ muốn nhấn mạnh rằng : những đau khổ hay
những nổi đoạn trường chỉ là những hiện tượng tự nhiên của kiếp
sống chung đụng. Nói theo nhân bản thuyết, đó không phải là một
điều ác, mà chỉ là một khía cạnh của đời sống xã hội loài người,
một xã hội hiện sinh. Trong đó con người với con người, con
người với mọi công việc, con người với muôn nghìn hoàn cảnh
diễn biến, đã làm thành cái ta gọi là nhân sinh, nhằm phát triển
toàn diện con người vật thể, tức là con người hình nhi hạ.