Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tiểu luận: Công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn_ Con đường nâng cao thu nhập cho nông dân potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.74 KB, 53 trang )


Tiểu luận
Công nghiệp hóa nông
nghiệp nông thôn_ Con
đường nâng cao thu nhập
cho nông dân


MỤC LỤC
Công nghiệp hóa nông nghiệp – nông thôn con đường nâng cao thu nhập cho nông dân
(12/07/2006-04:56:00 PM)
In bản tin, bài viết này
Thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn là xu thế tất yếu của con đường phát
triển nông nghiệp ở nước ta; là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường và là nhu
cầu thích ứng với hiện đại hóa nông nghiệp. Đây chính là con đường hữu hiệu để tăng thu
nhập cho người nông dân.
Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến nông nghiệp - nông thôn đã
có nhiều chủ trương, chính sách về nông nghiệp - nông thôn, tăng cường đầu tư… nên
nông nghiệp - nông thôn Việt Nam đã có những bước tiến triển vượt bậc, đời sống nông
dân được cải thiện nhiều, bộ mặt nông thôn đang có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, sản xuất
nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay gặp phải hàng lọat những vấn đề nan giải, bất
cập. Đó là, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, chia cắt, nhất là nông thôn các tỉnh miền Bắc,
khu vực miền Trung và Tây Nguyên; năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém;
lao động nông thôn dư thừa, thời gian lao động ít; sản phẩm nông nghiệp quá rẻ, không
tiêu thụ được; nông dân sản xuất nuôi, trồng tự phát chạy theo giá cả của thị trường…
Chính vì thế, thu nhập của nông dân còn bấp bênh và rất thấp, họ là những người có mức
thu nhập thấp nhất trong các ngành nghề của người lao động ở nước ta. Chỉ có tiến hành
công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn mới giải quyết được những nan giải trên của
nông nghiệp - nông thôn nước ta, mới tạo được điều cho nông dân có thu nhập cao hơn.
Chúng ta hãy xem xét từng khâu cụ thể:
Về sản xuất: có thể nhìn thấy rất rõ, hiện nay đồng ruộng bị phân chia nhỏ lẻ, phân tán,


manh mún như ô thuốc bắc. Gần vào đó là sự sản xuất, nuôi trồng cây con cũng rất bé
nhỏ của các hộ nông dân. Vì mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất, họ tự chịu trách nhiệm
về sản xuất – kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của mình. Phần lớn nông dân sản xuất nông
nghiệp theo lối truyền thống nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém. Một số hộ
nông dân tuy có mở rộng quy mô sản xuất nhưng lại ít dựa vào phương pháp canh tác
khoa học, lại thiếu thông tin về thị trường, chỉ trông chờ vào sự may rủi của quy luật cung
cầu nên sự thất bát là điều khó tránh khỏi. Khi nền kinh tế nông nghiệp đã phát triển đến
mức độ nhất định, việc chỉ dựa vào sức của người nông dân, giao khoán sản phẩm đến
từng hộ sẽ rất hạn chế trong việc phát triển, vì quy mô sản xuất nhỏ, kinh doanh phân tán,
thực lực kinh tế rất yếu, khó ngăn cản được những rủi ro.
Thông qua công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn có thể thành lập các doanh nghiệp
nông nghiệp, nông trường; ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát huy
tối đa ưu thế về tài nguyên, lao động và giống cây trồng; tập hợp các hộ nông dân thành
một tập đoàn, quy tụ họ vào hệ thống sản xuất nông nghiệp theo dây chuyền công nghiệp
từ sản xuất, cung ứng - chế biến đến tiêu thụ sản phẩm.
Về lưu thông: Hiện nay, mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất đã cắt đứt mối liên hệ bên
trong giữa sản xuất và thị trường. Bản thân chế độ bao khóan đã tạo ra sự mâu thuẫn giữa
thị trường lớn và sản xuất nhỏ. Khi mối quan hệ cung - cầu chuyển từ cung sang vượt quá
cầu, do thông tin và sự dự đoán của đại bộ phận nông dân có hạn, thị trường lại ngưng trệ
điều tiết, sản xuất lại tự phát, việc tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp trở ngại hoặc bán không đúng
với giá dự kiến hoặc thừa ế sẽ xuất hiện tình trạng năng suất cao, được mùa mà thu nhập
không tăng thậm chí còn giảm, nông dân hoang mang thiếu phấn khởi trong sản xuất.
Thông qua công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn, tạo được cầu nối giữa các hộ nông
dân với thị trường, đưa sản xuất nhỏ, phân tán của các hộ hòa nhập vào thị trường lớn;
hướng dẫn nông dân tổ chức sản xuất hàng hóa, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất và
nhu cầu của thị trường liên kết chặt chẽ với nhau. Bên cạnh đó, thông qua mạng lưới
cung tiêu không những sản xuất được thuận lợi mà sản phẩm còn được bán với giá cao và
tiêu thụ hết. Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, nông dân biết được sự cạnh tranh trên thị
trường mà không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm tạo
được thương hiệu của mình.

Nếu quy trình sản xuất khép kín theo hộ nông dân, họ khó có thể ngăn cản được những
rủi ro đến bất ngờ, nhất là những rủi ro thiên tai và do sự điều tiết của thị trường … sẽ có
những hộ nông dân không duy trì được sản xuất.
Thông qua công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn có thể tăng cường được khả năng
ngăn chặn rủi ro cho nông dân. Mặt khác, từ các hd sản xuất – kinh doanh sẽ hình thành
một khối gắn bó hữu cơ giữa nông nghiệp - công nghiệp – thương mại, giữa sản xuất -
chế biến – tiêu thụ với thị trường.
Tiến hành công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn là phương pháp hữu hiệu để củng cố
và hoàn thiện cơ chế bao khóan sản phẩm, bảo đảm tính tự chủ trong sản xuất của nông
dân.
Hiện nay, so với các ngành khác lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp rất thấp dẫn đến
mất đi một lượng lớn tài nguyên nông nghiệp hiện có. Điều đó không chỉ làm yếu đi vị trí
của ngành nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển kinh tế nông thôn.
Thông qua công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn có thể nâng cao trình độ kỹ thuật và
trình độ chuyên môn hóa trong nông nghiệp đưa công nghiệp nông thôn phát triển nhanh,
gắn thị trường nông thôn với thành phố, thị trường trong nước với quốc tế, tăng lợi nhuận
trong sản xuất nông nghiệp. Người nông dân không chỉ thu được lợi nhuận trong sản xuất
trực tiếp mà còn có thể thu được lợi nhuận gián tiếp từ khâu lưu thông và một phần lợi từ
các ngành dịch vụ, cung ứng và chế biến nông sản. Đồng thời tạo cho nông dân có việc
làm trong những nông nhàn và giải quyết được nạn dư thừa lao động ở nông thôn hiện
nay. Như vậy việc thu nhập của nông dân không ngừng được nâng cao, tạo không khí
phấn khởi, yên tâm ở quê hương sản xuất trong thanh niên nông thôn.
Nước ta là nước nông nghiệp, cơ sở nền tảng của nông nghiệp còn yếu, công cuộc công
nghiệp hóa còn ở giai đọan đầu. Vì vậy, việc thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp -
nông thôn cần phải căn cứ vào tình hình thực tế của từng vùng, từng địa phương khác
nhau để triển khai và có kế hoạch thống nhất trong cả nước. Mục tiêu chính là thúc đẩy
được sản xuất nông nghiệp phát triển, gắn với kinh tế thị trường hòa nhập vào quốc tế,
điều hòa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, tăng nhanh quá trình
hiện đại hóa nông nghiệp, tạo cho nông dân có thu nhập cao hơn và cuộc sống khá giả
hơn.

Nguồn: Tạp chí Báo chí &Tuyên truyền, Số 5/2006
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Những thành tựu đã đạt được
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy
mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường và có giá trị kinh tế cao. Tiếp
tục bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc gia, tuy diện tích trồng lúa giảm (khoảng hơn 300 nghìn
ha), để chuyển sang nuôi trồng thủy sản và các cây trồng khác có giá trị cao hơn, nhưng sản
lượng lương thực vẫn tăng từ 34,5 triệu tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm 2004), trong đó,
sản lượng lúa tăng từ 32,5 lên 35,8 triệu tấn, bình quân mỗi năm lương thực tăng hơn một triệu
tấn. Hàng năm vẫn xuất khẩu khoảng 3,5-4 triệu tấn gạo.
Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh theo nhu cầu thị trường để xuất
khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với
công nghiệp bảo quản, chế biến. Diện tích, sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm
2000, cao-su diện tích tăng 9,5%, sản lượng tăng 37,6%; hồ tiêu diện tích tăng 83,2%, sản lượng
tăng 87,8%; hạt điều diện tích tăng 44,3%, sản lượng tăng 205,3%; chè diện tích tăng 35,3%,
sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng 1,4 lần; bông vải diện tích tăng 42,5%, sản
lượng tăng 57,4%; đậu tương diện tích tăng 47,1%, sản lượng tăng 62,2%. Các loại cây công
nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu hết đều tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Chăn nuôi tăng bình quân 10%/năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong nông nghiệp tăng từ 19,3%
lên 21,6%. Ðàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh, đạt 95 nghìn con, sản lượng sữa tươi tăng gấp 3
lần. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 2,0 lần, sản lượng khai thác tăng 1,2 lần.
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và ngành nghề nông thôn: Giá trị sản xuất công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản tăng trưởng bình quân 12-14%/năm. Sản xuất tiểu, thủ công
nghiệp và ngành nghề nông thôn tăng bình quân 15%/năm. Hiện cả nước có 2.971 làng nghề,
khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu lao
động (trong đó có khoảng 1,5 triệu người làm hàng mỹ nghệ).
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng trưởng liên tục và đạt mức cao (5,4%/năm, chỉ
tiêu Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là 4,8%/năm). Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm,
thủy sản năm 2004 đạt gần 7 tỷ USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000, trong đó nông, lâm sản tăng
gần 1,5 lần, thủy sản tăng 1,6 lần. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đạt sản lượng và giá trị

lớn như: gạo, cà-phê, cao-su, hạt điều. Ðặc biệt, xuất khẩu đồ gỗ gia dụng và lâm sản tăng
mạnh, đạt hơn 1,2 tỷ USD, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2000.
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ,
giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2004 trong tổng GDP của cả nước, tỷ trọng nông, lâm nghiệp,
thủy sản đã giảm từ 24,53% xuống 21,76%; lao động nông nghiệp giảm từ 59,04% xuống 57,9%,
lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 17%, dịch vụ chiếm 25,1%. Năm 2003,
hộ thuần nông đã giảm còn 68,8%, hộ kiêm nghề tăng lên, chiếm 12,7% và phi nông nghiệp
18,4%. Nguồn thu của hộ nông dân từ nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ nông thôn đã dần tăng lên, chiếm 22,5% tổng thu.
Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước được nâng cao
theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao
năng suất chất lượng nông sản, thủy sản. Ðến nay, có hơn 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô,
60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới được sử dụng giống mới. Công nghệ sử
dụng mô hom được đưa nhanh vào sản xuất giống cây rừng, nên năng suất chất lượng rừng
được cải thiện. Ngành thủy sản đã sản xuất và đưa vào sản xuất một số loài thủy sản có giá trị
kinh tế cao. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa như: tưới nước, tuốt lúa,
xay xát đạt hơn 80%, vận chuyển làm đất đạt hơn 60%. Trong ngành thủy sản, tổng công suất
tàu thuyền đánh bắt đạt hơn 4 triệu sức ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thủy sản được trang bị
các máy móc, thiết bị bảo đảm cho công nghệ nuôi trồng tiên tiến.
Quan hệ sản xuất được xây dựng ngày càng phù hợp. Cả nước hiện có 72 nghìn trang trại, tăng
bình quân 10%/năm, kinh tế trang trại đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn. Thành lập mới được 524 hợp tác xã nông nghiệp, chủ yếu hoạt động theo hướng dịch vụ,
tiêu thụ sản phẩm, hiện có hơn 10 nghìn hợp tác xã ở nông thôn (9.255 HTX nông nghiệp, hơn
500 HTX thủy sản, 800 quỹ tín dụng nhân dân ) và hàng trăm nghìn tổ kinh tế hợp tác, so với
năm 2000, số hợp tác xã hoạt động có lãi tăng từ 32% lên 35%, số HTX yếu kém giảm từ 22%
xuống còn khoảng 10%.
Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm 2004 có 15.600 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động
trên địa bàn nông thôn, bình quân một doanh nghiệp thu hút khoảng 20 lao động, đang là nhân tố
quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn.
Nông thôn có bước phát triển khá nhanh. Nhiều công trình thủy lợi đã hoàn thành và đưa vào sử

dụng, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thâm canh, tăng năng suất cây trồng đã bảo đảm
tưới cho 90% diện tích lúa, hàng vạn ha hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn quả; hệ thống đê
điều được củng cố. Ðến nay đã có 98% số xã có đường ô-tô tới khu trung tâm, hơn 90% số xã
có điện, gần 88% số hộ dân nông thôn được sử dụng điện. Số thuê bao điện thoại ở khu vực
nông thôn tăng nhanh, đạt 4 máy/100 người dân (cả nước là 12,56 máy/100 người dân); 58% số
dân nông thôn được sử dụng nước sạch; xây mới 501 chợ, góp phần giảm bớt khó khăn về tiêu
thụ nông sản cho nông dân.
Công tác xóa đói, giảm nghèo: Bình quân mỗi năm giảm 3% tỷ lệ hộ đói nghèo. Tỷ lệ hộ đói
nghèo ở nông thôn giảm từ 19% năm 2000 xuống còn 11% năm 2004. Ðiều kiện về nhà ở, đi lại,
học tập, chữa bệnh được cải thiện tốt hơn. Nhiều làng xã đã trở thành làng văn hóa, có kinh tế
phát triển, bảo đảm môi trường sinh thái, văn hóa truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc
được phục hồi và phát triển, trình độ dân trí được nâng lên.
Những vấn đề tồn tại, cần tập trung sức giải quyết
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nhiều nơi chuyển dịch chậm, chăn nuôi,
công nghiệp, ngành nghề dịch vụ nông thôn phát triển còn chậm và chưa tương xứng với tiềm
năng… Cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch chậm, cơ bản vẫn là thuần nông (năm 2004 lao
động nông nghiệp: 58,7%, năm 2001 là: 63,5%).
- Năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số nông sản phẩm còn thấp. Việc
nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm…
- Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế còn chậm. Hiệu quả
hoạt động doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng trong
phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn, nhưng quy mô nhỏ bé,
chủ yếu là dịch vụ (chỉ có 5% liên quan đến sản xuất) và chỉ phát triển mạnh ở ven đô thị, hoặc
nơi có kết cấu hạ tầng tương đối phát triển.
- Chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng. Nếu áp dụng chuẩn
nghèo mới dự kiến tỷ lệ nghèo cả nước là 26-27%, riêng ở nông thôn lên 31%, miền núi lên hơn
50%, có nơi lên hơn 60% (vùng Tây Bắc)…

Ðẩy mạnh CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn
Một số nội dung chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả là:

- Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh
sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; phát triển mạnh chăn
nuôi với tốc độ và chất lượng cao hơn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với
việc chuyển giao công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến; khắc phục tình trạng sản xuất manh
mún, tự phát. Tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp theo
hướng: phát huy lợi thế tự nhiên của từng vùng, lợi thế kinh tế của từng loại cây trồng, con gia
súc, tăng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ; hình thành vùng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường và
công nghiệp chế biến, bảo đảm hiệu quả bền vững và an ninh lương thực quốc gia…
- Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường, coi trọng và phát triển thị trường trong nước, tổ chức
tốt việc tiêu thụ nông, lâm sản, thủy sản cho nông dân.
- Ðưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học
công nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, kỹ thuật canh tác và môi
trường, công nghệ sau thu hoạch; ứng dụng mạnh công nghệ sinh học và xây dựng các khu
nông nghiệp công nghệ cao; nâng cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây
trồng, vật nuôi…Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu
tư phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông, lâm thủy sản…
- Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, và đa dạng hóa các nguồn vốn để tiếp tục đầu tư phát
triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các
hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để bảo đảm an toàn
về nước. Củng cố hệ thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ
động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Tiếp tục đầu tư phát
triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô-tô tới khu trung tâm, từng bước phát
triển đường ô-tô tới thôn bản; bảo đảm hơn 90% số dân cư nông thôn có điện sinh hoạt; hơn
75% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
- Rà soát bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư nhằm hỗ trợ và tạo
điều kiện việc hình thành các khu và cụm công nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút
các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên
liệu từ nông, lâm thủy sản…
- Tập trung giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho nông dân và cho lao động nông thôn, đặc biệt
quan tâm giải quyết việc làm và thu nhập cho nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục

đích phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho lao
động nông thôn có việc làm tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn. Có chính sách trợ giúp thiết thực
để đẩy mạnh đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn, đáp ứng cho yêu cầu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tìm việc làm ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao
động ở nước ngoài.
- Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ giúp thiết thực cho các
vùng và cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát
triển hệ thống khuyến nông, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng
bước vượt qua khó khăn, thoát nghèo và nâng cao mức sống một cách bền vững…
- Tập trung đầu tư để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố hóa trường học, thực hiện tốt hơn
chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng; thực hiện ngày càng có nền nếp và chất lượng về
quy chế dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong trào xây dựng làng xã văn hóa, nâng cao chất
lượng hoạt động các thiết chế văn hóa ở cơ sở giữ gìn và phát triển truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc ta…
(Tin từ Báo ND 28/7,www.nhandan.org.vn)
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong tình hình mới
Hồ Văn Vĩnh
GS, TS, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
(Cập nhật: 9/4/2008)
Qua các kỳ Đại hội Đảng, nhận thức của chúng ta ngày càng rõ hơn về vai trò của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Nhờ đó, hơn 20 năm đổi
mới đã qua, nông nghiệp nước ta tiến bộ vượt bậc, có nhiều mặt hàng nông sản xuất
khẩu, từ chỗ bị thiếu lương thực triền miên đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2
thế giới. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, mục tiêu giữ vững an
ninh lương thực quốc gia đang đặt ra những vấn đề mới.
Ngay từ Đại hội III của Đảng (năm 1960), nhiệm vụ cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa, gắn
với hợp tác hóa nông nghiệp, thực chất là CNH, HĐH nông nghiệp, đã được đặt ra và từng bước
thực hiện. Đó là các biện pháp thâm canh gồm: nước-phân-cần-giống và đẩy mạnh cải tiến công
cụ, thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp. Trong gần 5 thập kỷ, qua mỗi giai đoạn lịch sử, nội dung
và mục tiêu của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn lại được điều chỉnh, bổ sung và phát triển.

Ngày nay, nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng đang được đặt trong tình thế mới,
đó là:
Thứ nhất: Sự cách biệt quá lớn của CNH, HĐH các ngành công nghiệp và dịch vụ so với
ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trong công nghiệp và dịch vụ, những năm qua tốc
độ CNH, HĐH đạt khá cao, có nhiều lĩnh vực đạt trình độ khu vực và thế giới như đóng tàu, viễn
thông Nhờ đó tốc độ tăng trưởng của hai khu vực kinh tế này cũng mạnh hơn. Nhưng tốc độ
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn còn rất chậm. Nền nông nghiệp nước ta vẫn còn phân tán,
manh mún, năng suất lao động thấp, ngay cả những loại nông sản xuất khẩu chủ lực như gạo,
cà phê, cao su, chè, thủy sản chủ yếu vẫn là sản phẩm từ lao động thủ công. Bởi vậy, khó có
thể hoàn thành công cuộc CNH, HĐH đất nước nếu nông nghiệp và kinh tế nông thôn không
thoát được tình trạng lạc hậu, kém phát triển.
Thứ hai: Nhu cầu lương thực của thế giới đang đứng trước một bước ngoặt lịch sử,
chuyển từ dư thừa và giá thấp trong thời gian mười năm về trước sang thời kỳ khan hiếm
và giá cao trong những năm tới đây và trong tương lai. Các chuyên gia thuộc Viện nghiên
cứu Chính sách lương thực quốc tế ước tính, đến năm 2020 sản lượng lương thực của thế giới
sẽ giảm từ 16% - 20% do hiện tượng trái đất ấm lên và diện tích đất canh tác hiện nay đang bị
thu hẹp với tốc độ nhanh chóng. Kéo theo đó giá nông sản sẽ tăng cao. Chẳng hạn, vào cuối
thập niên tới, giá ngô có thể tăng 72% và giá các loại hạt có dầu tăng 44%
(1)
.
Theo Vinanet của Bộ Công - Thương, do "cầu" vượt "cung" nên giá lúa mì đã tăng gấp 3 lần kể
từ năm 2000 tới nay, trong khi giá gạo tăng gần gấp đôi. Dự báo giá ngô sẽ tăng khoảng 72%
vào năm 2020; giá hạt có dầu sẽ tăng khoảng 44%, do nhu cầu sử dụng những sản phẩm này
làm nhiên liệu sinh học ngày càng tăng. Từ nay đến năm 2010, giá ngô sẽ tăng thêm khoảng
25%
(2)
.
Theo Tổ chức Lương Nông của Liên hợp quốc (FAO), năm 2006 giá lương thực đã có mức tăng
kỷ lục tới 40%, một phần do hạn hán và lũ lụt liên quan đến biến đổi khí hậu, một phần khác do
giá dầu tăng làm tăng nhu cầu về nhiên liệu sinh học (được chế biến từ sản phẩm nông nghiệ

(3)
.
Hơn nữa, nhu cầu về lương thực, thực phẩm chất lượng cao và an toàn cũng ngày một tăng cao.
Tình hình trên vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với nền nông nghiệp nước ta và tác động rất
mạnh tới sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn cả trước mắt cũng như lâu dài.
Thứ ba: Bảo vệ môi trường sinh thái đang trở thành tâm điểm của toàn thế giới. Hiện nay,
hậu quả của tình trạng khí hậu nóng dần lên của trái đất, sự hủy hoại tầng ô-zôn đang đặt nhân
loại trước những thảm họa ngày càng lớn và chưa thể lường hết được. Riêng về Việt Nam, theo
các chuyên gia sẽ không loại trừ khả năng là từ đây đến năm 2100, mực nước biển sẽ dâng cao
thêm 1 mét, khiến nhiều vùng ven biển, nhất là khu vực đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập
chìm trong nước biển. Theo bản báo cáo về phát triển con người 2007/2008 của UNDP, nếu
nhiệt độ trên trái đất tăng thêm 2 độ, thì có nguy cơ khoảng 22 triệu người ở Việt Nam sẽ mất
nhà ở và mất 45% diện tích đất nông nghiệp
(4)
.
Bảo vệ môi trường sinh thái là nhiệm vụ chiến lược toàn cầu, đòi hỏi mọi người phải cùng chung
sức góp phần khắc phục thảm họa môi trường. Ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn của
nước ta không thể không tính đến vấn đề về môi trường trong quá trình CNH, HĐH. Mọi giải
pháp, biện pháp phát triển đều vừa phải tính đến những hậu họa của sự tàn phá môi trường, vừa
phải tiến hành sản xuất và sinh hoạt thân thiện với môi trường.
Thứ tư: Nước ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Nông nghiệp là lĩnh vực chịu
nhiều tác động nhất trong quá trình gia nhập WTO. Về thuận lợi, các mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực được tiếp tục gia tăng về quy mô, kim ngạch và bạn hàng, thuế suất nhập khẩu
giảm mạnh, có lợi cho nhà xuất khẩu. Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, năm 2007 nước ta tiếp tục thành công trong xuất khẩu nông sản, kim ngạch xuất khẩu
nông, lâm, thủy sản của cả nước đạt 10,5 tỉ USD, tăng 20% so với năm 2006. Hiện đã có tới 5
mặt hàng là thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ, cà phê, gạo và cao su đạt giá trị xuất khẩu từ 1 - 3 tỉ
USD.
Bên cạnh thuận lợi thì những khó khăn, thách thức cũng tăng lên. Đặc biệt là sức cạnh tranh của
nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới xuất phát từ những hạn chế trong năng lực sản xuất,

chế biến, tạo dựng thương hiệu và uy tín của từng mặt hàng nông sản. Thực tế hiện nay, trình độ
sản xuất của nông dân còn ở mức độ thấp, thể hiện:
- Giống cây trồng, vật nuôi vẫn chưa kiểm dịch đầy đủ và kiểm soát nguồn gốc;
- Chưa kiểm soát tốt phân hóa học, phân bón, thuốc trừ sâu và các loại hóa chất kích thích sinh
trưởng khác nhau;
- Công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hóa, thương hiệu vẫn chưa đáp ứng
theo chuẩn mực yêu cầu của quốc tế trong quá trình hội nhập;
- Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, bình quân diện tích đất còn rất thấp, khoảng 0,7-1 ha/hộ, vì vậy muốn
sản xuất với quy mô lớn, chất lượng đồng đều là rất khó;
- Giá thành sản xuất vẫn còn cao, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được quan tâm
đầy đủ khi đưa sản phẩm ra thị trường
(5)
.
Cần khẳng định rằng, trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, nông
nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn luôn giữ vai trò quan trọng. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng GDP và lao động của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng GDP
và lao động trong nông nghiệp, nhưng tăng về chất lượng và giá trị tuyệt đối, có đủ hàng hóa
không chỉ bảo đảm nhu cầu ngày càng cao trên thị trường trong nước, mà còn cho xuất khẩu,
bảo đảm mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội đối với lao động và dân cư nông thôn, góp phần
bảo vệ môi trường sinh thái
Kinh nghiệm nhiều nước công nghiệp phát triển cho thấy, mặc dầu tỷ trọng dân cư nông thôn, lao
động nông nghiệp và GDP của ngành nông nghiệp giảm đáng kể, thường là dưới 10% so với
toàn nền kinh tế, nhưng đó là một nền nông nghiệp hiện đại, không chỉ đáp ứng nhu cầu cao
trong nước mà còn dư thừa để xuất khẩu, thu nhập của lao động nông nghiệp và dân cư nông
thôn không quá chênh lệch so với ngành công nghiệp, dịch vụ và dân cư thành thị. Theo báo cáo
của Ngân hàng Thế giới, giá trị gia tăng tính trên một lao động nông nghiệp ở một số nước công
nghiệp phát triển, thời kỳ 1995 - 1997, tính ra USD, như sau: Ô-xtrây-li-a là 29.044, Đan Mạch:
46.621, Pháp: 34.760, Phần Lan: 28.296, Nhật Bản: 28.665, Hà Lan: 43.836, Na-uy: 31.577, Xin-
ga-po: 39.851, Mỹ là 34.727. Trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp vào GDP thường rất thấp:
chỉ từ dưới 1% (Xin-ga-po), 2% (Mỹ, Pháp) và cao nhất là 5% (Đan Mạch), còn Việt Nam chỉ số

tương ứng là 226 USD và 26%
(6)
. Trong quá trình phát triển đất nước, CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn là một nội dung cơ bản hàng đầu, không chỉ bảo đảm cho thành công trọn vẹn của
CNH, HĐH đất nước, mà còn quan trọng hơn là nâng cao đời sống của khoảng 2/3 dân số cả
nước là nông dân khấm khá và văn minh hơn. Từ đó tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong cơ
cấu lao động, dịch chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đó cũng chính là mục
tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng ta. Văn kiện Đại hội X cũng chỉ
rõ: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các
vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế
nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật
và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù
hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương"
(7)
.
Để đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong tình hình mới, theo chúng tôi cần có một
số giải pháp sau:
Một là, cần chuyển đổi mạnh chính sách đầu tư theo hướng tập trung ưu đãi hơn nữa cho nông
nghiệp. Đầu tư cho nông nghiệp bao gồm: đầu tư của Nhà nước, đầu tư của hộ nông dân, của
doanh nghiệp trong nước và vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài. Đặc thù của kinh
doanh nông nghiệp là gặp nhiều rủi ro, phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên và thời tiết, địa bàn
rộng và xa, cơ sở hạ tầng yếu kém, đi lại khó khăn, thu hồi vốn chậm, lợi nhuận thấp, nên các
nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài không mặn mà, thiết tha đầu tư vào nông nghiệp.
Năm 2007, tỷ trọng FDI cho ngành nông nghiệp vẫn còn rất thấp (chỉ chiếm 10,6% số dự án và
6,5% số vốn đầu tư đăng ký), chưa thu hút các nhà đầu tư của một số nước có tiềm năng, thế
mạnh lớn về nông nghiệp như Mỹ, Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a Đầu tư của Nhà nước cho nông
nghiệp và nông thôn còn hạn chế, theo Bộ Tài chính, 5 năm qua, tổng vốn đầu tư phát triển nông
nghiệp, nông thôn đạt khoảng 113.116 tỉ đồng, mới chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu, chiếm 8,7%
tổng vốn đầu tư cả nước. Việc sử dụng vốn tại nhiều địa phương lại kém hiệu quả

(8)
. Đa phần
kinh tế hộ nông dân còn ở quy mô ruộng đất nhỏ lẻ, thu nhập thấp, không có vốn tích lũy để đầu
tư, nếu có không phải hộ nào cũng biết đầu tư thế nào cho có hiệu quả do thiếu kiến thức, thiếu
thông tin. Do đó, trong khi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tập trung đầu tư vào các
ngành công nghiệp và dịch vụ thì Nhà nước, một mặt có chính sách ưu đãi hơn đối với đầu tư
cho nông nghiệp để bảo đảm các nhà đầu tư thu lợi nhiều hơn; mặt khác Nhà nước phải ưu tiên
đầu tư cho nông nghiệp, chí ít cũng phải bằng tỷ lệ giá trị của riêng ngành nông nghiệp đóng góp
vào GDP của nền kinh tế, hiện nay là trên 20%
(9)
. Đối với các dự án đầu tư công nghiệp và dịch
vụ, Nhà nước giảm bớt đầu tư từ ngân sách nhà nước bằng cách mở rộng phương thức đầu tư
BO hoặc BOT, tăng phần ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và khu vực nông thôn.
Cần có quan niệm đúng rằng, tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp và
kinh tế nông thôn không có nghĩa là quay trở lại cơ chế bao cấp, càng không phải là một sự "ban
ơn", mà là thực hiện chức năng điều tiết của Nhà nước để bảo đảm mục tiêu ổn định chính trị -
xã hội, công bằng và hiệu quả của nền kinh tế. Cùng với việc tăng đầu tư cho nông nghiệp, nông
thôn cũng cần kiên quyết giảm mức đóng góp của nông dân và dân cư nông thôn. Vừa qua,
Chính phủ đã quyết định miễn thủy lợi phí cho nông dân, đó là một điều hợp lòng dân, nhưng
còn nhiều khoản đóng khác, kể cả thuế sử dụng ruộng đất và các loại phí và lệ phí khác, lượng
thu không được bao nhiêu nhưng tốn công sức để quản lý thu, hơn nữa còn gây bất bình và bức
xúc cho dân, nuôi dưỡng tệ nhũng nhiễu đang trở nên phổ biến ở nông thôn hiện nay. ở đây,
nhiều khi cái mất còn lớn hơn cái được, cả về vật chất và tinh thần.
Hai là, điều chỉnh cơ cấu đầu tư phù hợp với yêu cầu của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Từ trước đến nay, đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn khá toàn diện, nhưng còn dàn trải, hiệu
quả chưa cao, thất thoát nhiều. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách nhà nước và tiêu dùng xã hội
còn nghiêm trọng
(10)
. Do đó, trong tình thế mới hiện nay, đầu tư cho nông nghiệp cần tập trung
cho mục tiêu "năm hóa": thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, sinh học hóa nhằm

đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trong nông nghiệp, thủy lợi luôn là biện pháp
hàng đầu nhất là thời gian qua tình hình thời tiết diễn biến phức tạp mà hệ thống thủy lợi, đê điều
lại bị xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng không chỉ đến sản xuất nông nghiệp mà cả dân sinh
nên đầu tư cho thủy lợi là giải pháp cấp bách. Thời gian qua, ngân sách nhà nước đã ưu tiên đầu
tư cho thủy lợi, trong đó nhiều công trình thủy lợi lớn không chỉ phục vụ nông nghiệp, nông thôn,
mà còn cho công nghiệp, dịch vụ và đời sống dân cư thành thị, do đó tăng vốn đầu tư cho thủy
lợi là một yêu cầu cần thiết và hợp lý. Nhà nước đã có chủ trương miễn thủy lợi phí cho nông
dân, nhưng không vì thế mà coi nhẹ viêc phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp, trái lại phải tiếp tục
đầu tư và nâng cấp hệ thống thủy nông lên trình độ cao hơn và để quản lý tốt hơn.
Ngoài thủy lợi, điện khí hóa đã có những bước tiến quan trọng, trừ vùng sâu, vùng xa còn gặp
khó khăn, nói chung hệ thống điện quốc gia đã bao phủ hầu hết các vùng nông thôn cả nước,
trong khi đó cơ giới hóa nông nghiệp vẫn còn là bài toán khó. Không thể chấp nhận một nền
nông nghiệp được CNH, HĐH mà lao động chủ yếu bằng thủ công, "con trâu đi trước, cái cày
theo sau" như cách đây hàng thế kỷ, do đó cần có giải pháp đồng bộ và hợp lý để đầu tư phát
triển cơ giới hóa nông nghiệp. Để nâng cao trình độ hóa học hóa, sinh học hóa thì ngoài đầu tư
phát triển công nghiệp hóa chất phục vụ nông nghiệp và công nghệ sinh học thì cần đầu tư cho
nghiên cứu khoa học, công nghệ trong ngành nông nghiệp
(11)
và có cơ chế quản lý thích hợp để
khuyến khích các nhà khoa học phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, không để
nông dân phải tự "bươn chải", phó mặc cho cơ chế thị trường.
Ba là, coi trọng nâng cao trình độ dân trí nói chung và trình độ kỹ thuật, công nghệ cho người lao
động nông nghiệp. Sự nghiệp CNH, HĐH có sự đóng góp của nhiều người ở nhiều cấp, nhiều
ngành nhưng người trực tiếp thực hiện và quyết định thành công chính là nông dân. Họ là người
tiếp thu tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, cơ chế, chính sách, tiếp cận thị trường và biến tiềm năng
thành hiện thực. Thực tế nông thôn nước ta hiện nay cho thấy, phần lớn con em nông dân gặp
rất nhiều khó khăn, nhiều bậc cha mẹ không trong việc lo đủ chi phí cho con em học tập và tìm
việc làm. Tình trạng bỏ học dở chừng có xu hướng gia tăng. Phần lớn thanh niên có trình độ sau
khi tốt nghiệp ra trường lại không muốn trở về làm nông nghiệp và phục vụ nông thôn. Thực
trạng đó dẫn tới lực lượng lao động nông nghiệp vừa yếu về trình độ và kỹ năng, vừa yếu cả về

thể lực, vì đa phần còn lại là người lớn tuổi và phụ nữ, những người không thể "ly hương" được
mới buộc phải ở lại nông thôn. Nếu vậy, khó có một nền nông nghiệp phát triển theo hướng hiện
đại, chuyên nghiệp; khoảng cách thành thị - nông thôn khó rút ngắn.
Thêm vào đó, các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc và các tiêu cực xã hội khác càng xói mòn tư
tưởng và đạo đức của một bộ phận thanh niên nông thôn. Tình trạng đó ở các vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc còn trầm trọng hơn. Tất cả những tình hình đó sẽ ảnh hưởng không
tốt tới quá trình CNH, HĐH.
Để nâng cao trình độ dân trí cho dân cư nông thôn và trình độ kỹ thuật, tay nghề cho lực lượng
lao động nông nghiệp trong tiến trình CNH, HĐH, theo chúng tôi cần tập trung vào mấy điểm sau
đây:
- Đổi mới hệ giáo dục phổ thông ở vùng nông thôn, vừa nâng cao chất lượng giáo dục, vừa phân
luồng sớm sau cấp trung học cơ sở, chỉ để một tỷ lệ vừa phải học sinh có trình độ tiếp tục học
lên. Đối với học sinh đã qua trung học cơ sở không tiếp tục học lên thì được hướng nghiệp đào
tạo nghề, nhất là nghề nông.
- Phát triển hơn nữa các khóa học dạy nghề và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đồng thời bố
trí, quy hoạch hợp lý các trường cao đẳng và đại học ở các địa phương để tránh tình trạng quá
tập trung làm tăng chi phí học hành, nhất là sinh hoạt đắt đỏ nơi đô thị đối với học sinh có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn, coi trọng các ngành nông, lâm, thủy sản và các ngành có liên quan đến
nông nghiệp, nông thôn.
- Mở rộng màng lưới khuyến nông, các trung tâm học tập cộng đồng ở ngay các thôn, xã để phổ
biến đường lối, chính sách, các kiến thức khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ cho
người lao động ở nông thôn bằng nhiều hình thức thích hợp, như: làm mẫu, tập huấn tại ruộng,
hội thảo tại bờ
- Cần có chính sách và biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân
dân nông thôn, xây dựng các phong trào văn nghệ, thể dục - thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ, đọc
sách - báo, truy cập thông tin trên mạng nhằm nâng cao thể lực và trí lực của lực lượng trẻ nói
riêng và dân cư nông thôn nói chung, có tác dụng hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực xã hội
đang có nguy cơ phát triển ở nông thôn hiện nay.
Bốn là, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, chủ yếu bằng con đường hợp
tác hóa. Hiện nay, hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, tuy đã có được động lực cho kinh tế hộ

phát triển hơn 10 năm nay, nhưng đến nay hầu như đã tới trần. Nếu không tiếp tục thúc đẩy kinh
tế hộ nông nghiệp, nông thôn sớm thoát khỏi tình trạng sản xuất manh mún, thủ công, phân tán
thì khó có điều kiện để đưa tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh cơ giới hóa, điện khí hóa sản xuất nông
nghiệp. Vì thế năng suất lao động và năng suất cây trồng, vật nuôi vẫn còn thấp, chất lượng
nông sản kém, giá thành cao, khó cạnh tranh với nông sản các nước trên thị trường thế giới và
ngay cả thị trường nội địa, và như thế sẽ rất mâu thuẫn với yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn.
Do đó, trước mắt cũng như lâu dài, muốn có một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn để hội
nhập với nền kinh tế thế giới thì không thể không tổ chức lại nền nông nghiệp với nhiều hình thức
tổ chức khác nhau, có thể là trang trại, công ty cổ phần, doanh nghiệp nông nghiệp, nhưng hình
thức tổ chức hợp tác xã vẫn là thích hợp và dễ tiếp thu nhất đối với hàng triệu hộ sản xuất nông
nghiệp, bao gồm hợp tác xã dịch vụ và hợp tác xã kinh doanh tổng hợp.
Tuy nhiên, hiện nay trong nông thôn nước ta phổ biến là hợp tác xã dịch vụ, có vai trò phục vụ hộ
nông dân một hoặc một số khâu, còn bản thân hộ nông dân vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ, nhiều hộ
gia đình vẫn đang đứng ngoài hợp tác xã. Nguyên nhân yếu kém của hợp tác xã nông nghiệp
như nhận định của Nghị quyết 13-NQ/TW, đó là trình độ lực lượng sản xuất yếu kém, thiếu sót về
nhận thức mô hình hợp tác xã kiểu mới, bất cập trong lãnh đạo và quản lý hợp tác xã, tâm lý hoài
nghi, mặc cảm với mô hình hợp tác xã kiểu cũ
(12)
. Để khắc phục những yếu kém, hạn chế của
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp hiện nay cần nắm vững những quan điểm, chủ trương và giải
pháp trong Nghị quyết 13-NQ/TW ngày18-2-2002.
Theo chúng tôi, trước hết cần giải quyết về mặt nhận thức, tư tưởng đối với kinh tế hợp tác, khắc
phục tâm lý hoài nghi, mặc cảm đối với mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ bằng cách giới
thiệu và nhân rộng mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới có hiệu quả, triệt để tôn trọng các
nguyên tắc tổ chức và quản lý hợp tác xã nông nghiệp, nhất là nguyên tắc tự nguyện, cùng có
lợi, quản lý dân chủ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ở các cấp, các
ngành, các địa phương đối với hợp tác xã nông nghiệp.
Năm là, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp nhằm phát triển công nghiệp và
dịch vụ ở nông thôn. Trong những năm qua, nhờ thực hiện nhiều biện pháp tích cực để chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, thời gian qua cơ cấu dân cư nông thôn và lao động nông nghiệp đã có
những chuyển biến tích cực. Dân cư nông thôn đến năm 2005 còn 73% dân số cả nước, còn tỷ
lệ lao động nông nghiệp trong sản xuất thuần nông cũng liên tục giảm, tăng tỷ lệ lao động trong
các ngành công nghiệp và dịch vụ (xem bảng).
Bảng: Cơ cấu lao động xã hội theo ngành kinh tế từ năm 1990 đến năm 2005
Tổng số lao động xã hội 1990 1995 2000 2005
Trong ngành nông, lâm và ngư nghiệp73,00%71,10%68,20%56,80%
Trong ngành công nghiệp 11,24% 11,40% 12,10%17,90%
Trong các ngành dịch vụ 15,56%17,50%19,70%25,30%
Tuy nhiên, nếu xét về con số tuyệt đối, lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, trong khi
diện tích đất dùng cho nông nghiệp không ngừng giảm do quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa,
dẫn tới bình quân ruộng đất cho lao động nông nghiệp giảm nhanh. Do đó, việc giảm số lao động
thuần nông trở thành nhiệm vụ cấp thiết, vừa là tiền đề, vừa là mục tiêu của CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
Thực tế hiện nay, lao động từ khu vực nông nghiệp, nông thôn vào làm việc trong các khu công
nghiệp lớn và các hoạt động dịch vụ cao không phải là dễ; đi xuất khẩu lao động cũng rất hạn
chế do người dân thiếu vốn ban đầu, thiếu trình độ đào tạo, không đáp ứng được yêu cầu của
đối tác. Trong khi đó một số biện pháp thiết thực trong nước lại đang bị xem nhẹ, như việc
khuyến khích mạnh mẽ việc thành lập các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa ở nông thôn, nhất
là trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại, tiểu thủ công nghiệp , vừa tạo công ăn việc làm cho thanh
niên nông thôn không có điều kiện thoát ly khỏi quê nhà, vừa khai thác tiềm năng về đất đai, vốn,
tay nghề, nguyên liệu, phục hồi các thương hiệu truyền thống, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa
cho tiêu dùng nội địa và cho xuất khẩu.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Những thành tựu đã đạt được
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng
đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường và có giá trị kinh tế
cao. Tiếp tục bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc gia, tuy diện tích trồng lúa giảm
(khoảng hơn 300 nghìn ha), để chuyển sang nuôi trồng thủy sản và các cây trồng khác có
giá trị cao hơn, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng từ 34,5 triệu tấn (năm 2000) lên

39,12 triệu tấn (năm 2004), trong đó, sản lượng lúa tăng từ 32,5 lên 35,8 triệu tấn, bình
quân mỗi năm lương thực tăng hơn một triệu tấn. Hàng năm vẫn xuất khẩu khoảng 3,5-4
triệu tấn gạo.
Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh theo nhu cầu thị trường để
xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập
trung gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến. Diện tích, sản lượng cây công nghiệp tăng
nhanh so với năm 2000, cao-su diện tích tăng 9,5%, sản lượng tăng 37,6%; hồ tiêu diện
tích tăng 83,2%, sản lượng tăng 87,8%; hạt điều diện tích tăng 44,3%, sản lượng tăng
205,3%; chè diện tích tăng 35,3%, sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng 1,4
lần; bông vải diện tích tăng 42,5%, sản lượng tăng 57,4%; đậu tương diện tích tăng
47,1%, sản lượng tăng 62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu hết đều
tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Chăn nuôi tăng bình quân 10%/năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong nông nghiệp tăng từ
19,3% lên 21,6%. Ðàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh, đạt 95 nghìn con, sản lượng sữa
tươi tăng gấp 3 lần. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 2,0 lần, sản lượng khai thác tăng
1,2 lần.
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và ngành nghề nông thôn: Giá trị sản xuất
công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản tăng trưởng bình quân 12-14%/năm. Sản xuất
tiểu, thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn tăng bình quân 15%/năm. Hiện cả nước
có 2.971 làng nghề, khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu
hộ, thu hút hơn 10 triệu lao động (trong đó có khoảng 1,5 triệu người làm hàng mỹ nghệ).
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng trưởng liên tục và đạt mức cao
(5,4%/năm, chỉ tiêu Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là 4,8%/năm). Tổng kim
ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2004 đạt gần 7 tỷ USD, tăng 1,5 lần so với năm
2000, trong đó nông, lâm sản tăng gần 1,5 lần, thủy sản tăng 1,6 lần. Một số mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu đạt sản lượng và giá trị lớn như: gạo, cà-phê, cao-su, hạt điều. Ðặc
biệt, xuất khẩu đồ gỗ gia dụng và lâm sản tăng mạnh, đạt hơn 1,2 tỷ USD, tăng gấp 3,3
lần so với năm 2000.
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch
vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2004 trong tổng GDP của cả nước, tỷ trọng nông,

lâm nghiệp, thủy sản đã giảm từ 24,53% xuống 21,76%; lao động nông nghiệp giảm từ
59,04% xuống 57,9%, lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 17%,
dịch vụ chiếm 25,1%. Năm 2003, hộ thuần nông đã giảm còn 68,8%, hộ kiêm nghề tăng
lên, chiếm 12,7% và phi nông nghiệp 18,4%. Nguồn thu của hộ nông dân từ nông, lâm,
ngư nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nông thôn đã dần tăng lên,
chiếm 22,5% tổng thu.
Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước được nâng
cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến
để nâng cao năng suất chất lượng nông sản, thủy sản. Ðến nay, có hơn 90% diện tích lúa,
80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới được sử dụng
giống mới. Công nghệ sử dụng mô hom được đưa nhanh vào sản xuất giống cây rừng,
nên năng suất chất lượng rừng được cải thiện. Ngành thủy sản đã sản xuất và đưa vào sản
xuất một số loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp
được cơ giới hóa như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát đạt hơn 80%, vận chuyển làm đất đạt
hơn 60%. Trong ngành thủy sản, tổng công suất tàu thuyền đánh bắt đạt hơn 4 triệu sức
ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thủy sản được trang bị các máy móc, thiết bị bảo đảm cho
công nghệ nuôi trồng tiên tiến.
Quan hệ sản xuất được xây dựng ngày càng phù hợp. Cả nước hiện có 72 nghìn trang trại,
tăng bình quân 10%/năm, kinh tế trang trại đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn. Thành lập mới được 524 hợp tác xã nông nghiệp, chủ yếu hoạt động
theo hướng dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, hiện có hơn 10 nghìn hợp tác xã ở nông thôn
(9.255 HTX nông nghiệp, hơn 500 HTX thủy sản, 800 quỹ tín dụng nhân dân ) và hàng
trăm nghìn tổ kinh tế hợp tác, so với năm 2000, số hợp tác xã hoạt động có lãi tăng từ
32% lên 35%, số HTX yếu kém giảm từ 22% xuống còn khoảng 10%.
Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm 2004 có 15.600 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt
động trên địa bàn nông thôn, bình quân một doanh nghiệp thu hút khoảng 20 lao động,
đang là nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn.
Nông thôn có bước phát triển khá nhanh. Nhiều công trình thủy lợi đã hoàn thành và đưa
vào sử dụng, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thâm canh, tăng năng suất cây trồng
đã bảo đảm tưới cho 90% diện tích lúa, hàng vạn ha hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn

quả; hệ thống đê điều được củng cố. Ðến nay đã có 98% số xã có đường ô-tô tới khu
trung tâm, hơn 90% số xã có điện, gần 88% số hộ dân nông thôn được sử dụng điện. Số
thuê bao điện thoại ở khu vực nông thôn tăng nhanh, đạt 4 máy/100 người dân (cả nước
là 12,56 máy/100 người dân); 58% số dân nông thôn được sử dụng nước sạch; xây mới
501 chợ, góp phần giảm bớt khó khăn về tiêu thụ nông sản cho nông dân.
Công tác xóa đói, giảm nghèo: Bình quân mỗi năm giảm 3% tỷ lệ hộ đói nghèo. Tỷ lệ hộ
đói nghèo ở nông thôn giảm từ 19% năm 2000 xuống còn 11% năm 2004. Ðiều kiện về
nhà ở, đi lại, học tập, chữa bệnh được cải thiện tốt hơn. Nhiều làng xã đã trở thành làng
văn hóa, có kinh tế phát triển, bảo đảm môi trường sinh thái, văn hóa truyền thống mang
đậm đà bản sắc dân tộc được phục hồi và phát triển, trình độ dân trí được nâng lên.
1
VNH3.TB9.218
CÔNG NGHIỆP HÓA NÔNG THÔN THÔNG QUA PHÁT TRIỂN
CÁC CỤM CÔNG NGHIỆP LÀNG NGHỀ:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI CÁC CỤM CÔNG NGHIỆP
LÀNG NGHỀ Ở BẮC NINH VÀ HÀ TÂY


NCS. Nguyễn Xuân Hoản
Trung Tâm Nghiên cứu & Phát triển Hệ thống Nông nghiệp (CASRAD)
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS)


1. Đặt vấn đề
Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của kết cấu ngành công nghiệp, bao gồm các
cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tồn tại ở nông thôn, gắn bó mật thiết với
sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội ở nông thôn. Công nghiệp hóa (CNH) là quá
trình
nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế, đồng thời tăng cường
sử

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và trang thiết bị cơ khí trong các ngành sản xuất và
kinh
doanh. Như vậy, CNH nông thôn là quá trình nâng cao tỷ trọng về giá trị của các ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời nâng cao việc sử dụng thiết bị cơ
giới trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh ở nông thôn.
Gần 4 thập kỷ qua, kể từ 1960 thế giới đã chứng kiến sự trỗi dạy của xu hướng CNH
nông thôn ở các nước châu Á như Đài Loan, Thái Lan, Ấn Độ và gần đây là Trung Quốc.
Sự xuất hiện và phát triển nhanh của xu hướng này trước hết bắt nguồn từ sự thất vọng về
nền đại công nghiệp qui mô lớn hiện đại ở thành phố trong việc tạo việc làm, tăng thu
nhập
và xóa đói giảm nghèo [1]. Kinh nghiệm cho thấy ở một số nước Châu Á việc phát triển
công nghiệp nông thôn đã được tiến hành theo nhiều các khác nhau như ở Đài Loan, Nhà
nước khuyến khích lập các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nhẹ như ngành sợi, dệt, đồ
chơi
trẻ em, chế biến nông sản thực phẩm nằm phân tán ở các huyện lỵ, thị trấn ở các vùng
nông
thôn, gần nơi có nguồn nguyên liệu, Ở Ấn Độ, phát triển các xí nghiệp nhỏ với các
ngành
thủ công nghiệp ở nông thôn, đó là các ngành cần ít vốn nhưng lại có sẵn nguyên liệu, lao
động và không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp. Ở Trung Quốc, sự CNH nông thôn đã phát triển
2
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn do nông dân thực hiện như xí nghiệp Hương Trấn1
từ
những năm 1980 [2]. Ở Thái Lan, CNH nông thôn chỉ phát triển ở những vùng thuận lợi,
ven các đô thị lớn. Ở nông thôn, phần lớn các xí nghiệp công nghiệp làm chế biến nông,
lâm
sản và bán tại chỗ. Trong việc CNH nông thôn của Thái Lan có phong trào với tên gọi
“One
tambon, one product” (mỗi làng, một sản phẩm) được phát động từ năm 1999 sau khi Thủ
tướng Thái Lan đi thăm cửa hàng “one village, one product” tại Nhật Bản [3].

Như vậy, trong quá trình CNH nông thôn, một số nước đã thành công trong việc phát
triển các ngành nghề phi nông nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
Còn ở Việt Nam, chiến lược CNH nông thôn đã được đưa ra từ Nghị quyết Trung ương
V,
khóa VII, ngày 10/06/1993 và đến nay vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh. Câu hỏi đặt ra là
trong
thời gian qua Việt Nam đã tiến hành sự nghiệp CNH nông thôn theo mô hình nào? Có
điều
gì mới trong quá trình CNH trong các làng nghề ở nông thôn? Điều gì rút ra được từ sự
phát
triển của các làng nghề trong quá trình CNH nông thôn ?
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Công nghiệp hóa nông thôn ở Việt Nam
Đến nay, dân số Việt Nam có trên 84 triệu người, trong đó có 75% dân số sông ở
nông thôn. Trong những năm qua, công nghiệp ở thành thị có sự phát triển nhưng không
đủ
sức thu hút hết lao động tăng thêm đến từ nông nghiệp và các vùng nông thôn. Sự dư
thừa
lao động và sự di dân từ các vùng nông thôn về các thành phố kiếm việc làm ngày càng
tăng
nhanh. Hiện nay, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 42,0% trong

cấu kinh tế và tỷ lệ lao động trong công nghiệp chỉ chiếm khoảng 18% trong tổng số lao
động của nền kinh tế.
Vì vậy, mục tiêu của chiến lược CNH nông thôn ở Việt Nam là tăng thu nhập của
nông dân, mở rộng thị trường lao động và CNH, HĐH cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Để đạt
được 3 mục tiêu quan trọng này, chiến lược CNH nông thôn được dựa trên cơ khí hóa sản
xuất nông, công nghiệp và phát triển các ngành nghề chế biến theo hướng xuất khẩu hoặc
thay thế nhập khẩu và các ngành nghề thủ công nghiệp ở nông thôn [4]. Thực tế ở Việt
nam,

trong thời gian qua đã có 2 hình thức CNH nông thôn chủ yếu.
Thứ nhất là loại hình CNH nông thôn dựa vào việc phát triển các khu công nghiệp đa
ngành ở các vùng nông thôn ven đô và dọc các trục đường quốc lộ chính để thu hút các
doanh nghiệp từ thành phố và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát
triển
sản xuất công nghiệp, dịch vụ và giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Loại hình
công nghiệp này bắt đầu phát triển từ đầu những năm 1990, đến nay nó vẫn tiếp tục phát
triển mạnh và đã hình thành hệ thống sản xuất có công nghệ và trang thiết bị hiện đại,
chuyên làm gia công cho các doanh nghiệp của đô thị và nước ngoài.

1
Các doanh nghiệp Hương Trấn (Township an Village Entreprise - TVE) được chia thành
doanh nghiệp tập thể (làng,
xã, thị trấn) và doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp có ít nhất 8 công nhân gọi là doanh
nghiệp tư nhân và dưới 8 công
nhân gọi là doanh nghiệp cá thể). 3
Đối với loại hình CNH nông thôn này, Nhà nước đã ban hành các chính sách rất
thông thoáng và thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư và xây dựng
nhiều
khu công nghiệp ở các vùng ven đô và các vùng nông thôn. Ban đầu, các thành phố lớn
được coi như là một động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH và HĐH của cả nước nên sự ưu
tiên
được giành cho các tam giác tăng trưởng kinh tế như: Tam giác tăng trưởng phía Bắc là

Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, ở miền trung là Huế - Đà nẵng – Quảng Ngãi và miền
nam
là Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Vũng Tàu [5]. Nhưng hiện nay, mọi chính sách

sự ưu đãi đều được thực hiện ở tất cả các tỉnh thành trong toàn quốc. Đặc biệt, Nhà nước
đã

thực hiện việc phân cấp, phân quyền cho các địa phương tổ chức lập dự án, thẩm định dự
án
trình Chính phủ phê duyệt, rồi xây dựng và quản lý các khu công nghiệp tại địa phương.
Đến nay cả nước có trên 150 khu công nghiệp - khu chế xuất với diện tích trên
25000ha, dự kiến đến năm 2015 sẽ thành lập mới thêm 115 khu công nghiệp và mở rộng
27
khu công nghiệp. Tính từ năm 1988 đến năm 2007, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu

nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Riêng khu vực kinh tế có vốn đầu

nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD
trong năm 2007; đồng thời giải quyết việc làm cho hơn 1,2 triệu lao động trực tiếp và
hàng
triệu lao động gián tiếp [6].
Thứ hai là loại hình CNH nông thôn thông qua phát triển các làng nghề
2
ở nông thôn
dựa trên sự năng động của nhân dân và chính quyền địa phương. Các làng nghề thường
sản
xuất hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm nghệ thuật phục vụ cho thị trường
nội
địa và xuất khẩu hoặc là các làng nghề chuyên chế biến lương thực, thực phẩm và nguyên
vật liệu phục vụ cho tiêu dùng và công nghiệp chế biến khác. Trong các làng nghề năng
động cũng đã và đang có nhiều hộ gia đình chuyển thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa để
phát triển sản xuất kinh doanh ở quy mô lớn hơn và tham gia vào thị trường trong nứớc

quốc tế.
Theo thống kê của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA [7], đến năm 2003 toàn
quốc có 2017 làng nghề
3

. Các làng nghề ở Việt Nam đã giải quyết được việc làm cho hơn
1,3 triệu lao động thường xuyên và đang đóng góp tích cực vào việc CNH nông thôn và
xóa
đói giảm nghèo ở nông thôn. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề đã được
tiêu
thụ trên 100 nước trên thế giới, giá trị xuất khẩu các hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt 565
triệu
USD/năm. Trong những năm vừa qua, mặc dù Nhà nước đã có những chủ trương, chính
sách nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhưng gần như các làng nghề còn phát
triển tự phát, chưa có sự hỗ trợ hiệu quả và kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Hiện nay có
nhiều làng nghề không phát triển được và có nguy cơ mất nghề. Nhưng cũng có một số
làng
nghề năng động đã đổi mới, hiện đại hóa sản xuất và đã trở thành các cụm công nghiệp
làng
nghề (CCNLN), đó thường là những khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp, nhiều tiềm
năng

2
Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc
các điểm dân cư tương tự trên
địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc
nhiều loại sản phẩm khác nhau.
3
Tiêu chi để xác định làng nghề là làng có các hoạt động liên quan đến nghề nào đó thu
hút ít nhất 20% tổng số hộ làm
nghề và tạo ra ít nhất 20% tổng giá trị sản xuất tạo ra trên địa bàn của làng đó. 4
sáng tạo, đổi mới và là nơi để nuôi dưỡng và phát triển các doanh nghiệp chính thức
(formel) vì thế các CCNLN này cần phải được quy hoạch và phát triển như một hệ thống
sáng tạo và sự đổi mới ở nông thôn.
2.2. Cụm công nghiệp làng nghề ở vùng Đồng bằng sông Hồng

Khái niệm về cụm công và cụm công nghiệp làng nghề
Khái niệm cụm công nghiệp “district industriel” xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 bởi
Marshall [8] xuất phát từ việc nghiên cứu của ông về sự tập trung sản xuất công nghiệp ở
miền bắc nước Anh. Sau đó, khái niệm này được phát triển theo 2 trường phái tiếp cận
công
nghiệp khác nhau. Các nhà nghiên cứu theo trường phái Pháp như Courlet et Pecqueur
[9],
Colletis [10],… gọi là các hệ thống sản xuất địa phương SPL “Systèmes productifs
localisés”, đó là hệ thống sản xuất đề cập nhiều đến khía cạnh lãnh thổ. Các nhà nghiên
cứu
theo trường phái Anh - Mỹ gọi là cụm công nghiệp “cluster” hay “district industriel” với
các
tiếp cận của G. Becattini [11]; M. Porter [12]; Nadvi et Schmitz [13],… Qua việc nghiên
cứu về chuyển đổi cơ cấu kinh tế và công nghiệp hóa nông thôn ở vùng ĐBSH, chúng tôi
thấy có sự xuất hiện các CCNLN giống như các cụm công nghiệp ở Italia từ những năm
1970 [14]. Vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ vận dụng khái niệm cụm công
nghiệp
(cluster) và phương pháp tiếp cận của G. Becattini; M. Porter; Nadvi et Schmitz và tham
khảo các công trình nghiên cứu của họ đã thực hiện tại Italia, Mỹ và các nước đang phát
triển như Brasil và Inđônêxia. Vậy cụm công nghiệp là gì ?
Cụm công nghiệp theo G. Becattini [11, opcit] là một thực thể xã hội – lãnh thổ đặc
trưng bởi sự có mặt hoạt động của một cộng đồng người và quần thể doanh nghiệp trong
một không gian địa lý và lịch sử nhất định.
Cụm công nghiệp theo M. Porter [12, opcit] là sự tập trung về địa lý của các doanh
nghiệp, của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hóa, của những người được hưởng
dịch vụ, của các ngành công nghiệp và các tổ chức có liên quan.
Thực tế, có nhiều định nghĩa khác nhau về cụm công nghiệp. Nhưng trong các định
nghĩa đều chứa đề cập đến sự tập trung theo địa lý của các doanh nghiệp gắn kết với sự
đổi
mới và có sự phát triển năng động do tính hiệp đồng thừa hưởng từ “Tính hiệu quả tập

thể’’
thông qua các tác động kinh tế từ bên ngoài, từ mạng lưới các nhà cung cấp, mạng lưới
khách hàng và các lợi ích của các hoạt động tập thể [13, opcit]. Trong cụm công nghiệp,
vấn
đề mấu chốt là có sự hiệp đồng, sản xuất với qui mô lớn, có sự tác động qua lại, có sự
tương
trợ, có sự ganh đua và có khả năng phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường để
mang lại hiệu quả trong sản xuất và kinh doanh.
Ở Việt Nam, Cụm công nghiệp làng nghề là một hệ thống sản xuất địa phương, được
đặc trưng bởi sự tập trung theo địa lý các doanh nghiệp4
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ có

4
Doanh nghiệp ở đây hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả hộ gia đình tham gia sản xuất kinh
doanh và các doanh nghiệp
chính thức có đăng ký thành lập theo luật doanh nghiệp của Việt Nam. 5
sự chuyên môn hóa trong cùng một hoạt động hoặc một nhóm các hoạt động bổ trợ cho
nhau. Sự tập trung theo địa lý của các doanh nghiệp đã tạo ra các thể chế thúc đẩy sự hình
thành và phát triển các mối quan hệ, sự hợp tác và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong
cùng lãnh thổ, đồng thời tạo ra mạng lưới các nhà cung cấp, mạng lưới khách hàng và tạo
ra sự đổi mới, các lợi ích chung cho các thành viên trong cùng lãnh thổ.

Các kiểu cụm công nghiệp làng nghề ở vùng ĐBSH
Trên cơ sở số liệu điều tra và thông tin thu thập được trong 90 CCNLN ở Hà Tây và
Bắc Ninh, chúng tôi đã phân loại được 3 loại CCNLN, cụ thể như sau:
A)- Cụm công nghiệp làng nghề đã công nghiệp hóa và chuyên môn hóa cao (chiếm
30% trong tổng số CCNLN được điều tra), đây là CCNLN năng động với các đặc trưng
của
loại cụm này như sau:

- Mật độ dân số cao (2500người/km2
), đất nông nghiệp/người rất ít (260m2
/người).
- Tỷ lệ hộ làm nghề cao (có 53% số hộ ở địa phương làm ngành nghề và số lượng
doanh nghiệp chính thức trong cụm nhiều (30doanh nghiệp/cụm)
- Thu nhập từ ngành nghề cao (bình quân 1 triệu đồng/người/tháng). Tổng thu nhập
từ ngành nghề chiếm 75% tổng thu nhập của cụm.
- Vốn đầu tư cho sản xuất rất cao (trung bình mỗi hộ sản xuất đầu tư trên 100 triệu
đồng, mỗi doanh nghiệp đầu tư vốn trên 1 tỷ đồng).
- Có khả năng HĐH cao, đã đầu tư công nghệ và máy móc hiện đại (nhiều cụm có
dây truyền sản xuất tự động). Có nhiều sự đổi mới về trang thiết bị và cơ khí hóa trong
sản
xuất.
- Qui mô của cụm lớn và sử dụng nhiều lao động (bình quân là 4500lao động/cụm và
đòi hỏi nhiều lao động có chuyên môn, đã được đào tạo nghề (lao động có trình độ chiếm
trên 60%).
- Thiếu lao động và phải thuê nhiều lao động đến từ nơi khác (lao động thuê từ địa
phương khác đến là trên 1000lao động/1cụm, chiếm 24% tổng số lao động trong toàn
cụm).
- Có nhiều mối quan hệ, trao đổi giữa các làng nghề với nhau về lao động, vật tư và
tiêu thụ sản phẩm. Thị trường phát triển mạnh ở cả trong nước và nước ngoài.
- Có sự cạnh tranh cao về mặt bằng sản xuất, lao động và nguyên liệu trong cụm.
- Các CCNLN loại này phần lớn tập trung các ngành hàng đồ gỗ, dệt vải, luyện kim
và chế biến thực phẩm. 6
B)- Cụm công nghiệp làng nghề đang công nghiệp hóa có sự kết hợp làm nông
nghiệp và ngành nghề (chiếm 36% trong tổng số 90 cụm được điều tra), đây là loại cụm
năng động vừa với các đặc trưng của loại là:
- Mật độ dân số tương đối cao (1500người/km2
); Đất nông nghiệp/người thấp (bình
quân là 500m2

/người)
- Tỷ lệ hộ làm nghề cao (chiếm 67% tổng số hộ trong CCNLN) và số doanh nghiệp
chính thức trong cụm ít (bình quân 4 doanh nghiệp/1cụm)
- Thu nhập của người lao động làm ngành nghề không cao (bình quân 550 nghìn
đồng/người/tháng). Tổng thu nhập từ ngành nghề bình quân chỉ chiếm 48% tổng thu
nhập,
tổng thu nhập từ nông nghiệp chiếm 31% tổng thu nhập của cụm.
- Vốn đầu tư cho sản xuất ở mức cao (trung bình mỗi hộ sản xuất đầu tư trên 50 triệu
đồng, mỗi doanh nghiệp đầu tư vốn trên 500 triệu đồng).
- Có khả năng HĐH trang thiết bị sản xuất nhưng vẫn chủ yếu sử dụng công nghệ
truyền thống có cải tiến, ít đầu tư công nghệ và máy móc hiện đại.
- Qui mô cụm trung bình và sử dụng nhiều lao động (lao động làm việc thường xuyên
là 2700lao động/1cụm) và ít đòi hỏi các lao động đã được đào tạo nghề (lao động có trình
độ chiếm dưới 50%).
- Không thiếu lao động làm nghề, ít phải thuê lao động đến từ nơi khác (lao động
thuê từ địa phương khác là 100 lao động/1cụm, chiếm 5% tổng số lao động trong cụm).
- Có nhiều mối quan hệ giữa các làng nghề với nhau và với thị trường các tỉnh thành
trong nước và có 1 số cụm có quan hệ với nước ngoài.
- Ít có sự cạnh tranh về mặt bằng sản xuất, lao động và nguyên liệu trong các
CCNLN này.
- Các CCNLN lọai này phần lớn tập trung các ngành hàng mây tre đan, dệt vải và chế
biến thực phẩm và chủ yếu được phát triển lên từ các làng nghề mới, có khả tìm kiếm
được
thị trường và đa dạng hóa các loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường.
C)- Cụm công nghiệp làng nghề bắt đầu công nghiệp hóa và làm nông nghiệp là chủ
yếu kết hợp với ngành nghề (chiếm 34% tổng số cụm), đây là loại CCNLN có sự năng
động
thấp và có các đặc trưng sau:
- Mật độ dân số cao (bình quân 1400người/km2
); Đất nông nghiệp/người thấp (bình

quân là 520m2
/người) so với diện tích đất nông nghiệp bình quân trong vùng ĐBSH là
700m2
/người.
- Tỷ lệ hộ làm nghề không cao (có 41% số hộ ở địa phương làm ngành nghề) và số
doanh nghiệp chính thức trong cụm rất ít (bình quân 2 doanh nghiệp/1cụm). 7
- Thu nhập của người lao động làm ngành nghề không cao (bình quân 600 nghìn
đồng/người/tháng). Tổng thu nhập từ ngành nghề của cụm chỉ chiếm 31% tổng thu nhập
của
cụm, thấp hơn tổng thu nhập từ nông nghiệp (36%). Việc tái đầu tư cho sản xuất thấp.
- Nhu cầu và thực vốn đầu tư cho ngành nghề thấp (trung bình mỗi hộ sản xuất đầu
tư trên 10 triệu đồng, mỗi doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 300 triệu đồng).
- Khả năng HĐH sản xuất thấp, trong cụm ít đầu tư công nghệ và máy móc hiện đại
trong sản xuất, sử dụng công cụ truyền thống được cải tiến với lao động chân tay là chính
(nhiều cụm có phương tiện sản xuất rất thô sơ như cụm CCNLN thêu zen, mây tre đan).
- Sử dụng nhiều lao động nhưng không đòi hỏi các lao động có chuyên môn cao
(khoảng 1700 lao động/1cụm). Phần lớn các thợ thủ công trong các CCNLN này thường
làm nông nghiệp kết hợp với làm nghề.
- Trong các CCNLN này không thiếu lao động làm nghề và rất ít phải thuê lao động
làm nghề đến từ nơi khác (bình quân lao động làm thuê từ nơi khác đến là 50 lao
động/1cụm).
- Trong cụm thường có ít mối quan hệ giữa các làng nghề với nhau và ít có mạng
lưới buôn bán và giao lưu trực tiếp với bên ngoài. Phần lớn việc mua vật tư và tiêu thụ
trong
các CCNLN này thường qua các tác nhân trung gian.
- Không có sự cạnh tranh về mặt bằng sản xuất, lao động và nguyên liệu trong cụm
này.
- Các CCNLN lọai này phần lớn tập trung các ngành hàng thêu zen, đan cói và nón
lá, mây tre đan và chế biến thực phẩm.
Như vậy, trong vùng ĐBSH đang có nhiều loại CCNLN khác nhau. Nhưng mỗi

CCNLN đã phát triển theo hướng khai thác thế mạnh của mỗi vùng và tuỳ theo các kênh
(niche) hành hóa và dịch vụ mà CCNLN đó có khả năng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của
thị trường. Ở đây chúng tôi xin trình bày một số CCNLN tiêu biểu trong vùng ĐBSH.
Thực trạng một số cụm công nghiệp làng nghề tiêu biểu
A)- Cụm công nghiệp làng nghề giấy ở Phong Khê
CCNLN nghề Phong Khê có 4 làng (Dương ổ, Đào Xá, Ngô Khê, Châm Khê) thuộc
xã Phong Khê, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Mật độ dân số trong cụm này là
1500người/km2
, đất nông nghiệp bình quân 370m2
/người. Nghề làm giấy ở Phong Khê đã
có từ thế kỷ 16. Trải qua một thời gian dài phát triển sản xuất giấy thủ công, sau đó có sự
đổi mới về công nghệ và trang thiết bị sản xuất, đến nay trong cụm CCNLN giấy Phong
Khê đã có khả năng sản xuất được hầu hết các loại giấy cao cấp trên thị trường như giấy
vệ
sinh, giấy khăn ăn, giấy văn phòng, giấy vở học sinh, giấy in lịch, giấy bao gói, giấy kraf,

Hiện nay, nghề làm giấy ở CCNLN Phong Khê đã thu hút sự tham gia của 174 doanh
nghiệp và khoảng 200 hộ trong xã sản xuất giấy thủ công. Hoạt động làm giấy trong cụm
đã 8
tạo việc làm cho 7000 lao động, trong đó có khoảng 3000 lao động ngoài địa phương.
Tổng
doanh thu từ nghề làm giấy trong cụm là 455tỷ đồng/năm (chiếm 91% tổng doanh thu
trong
toàn cụm). Trong CCNLN này đã xây dựng khu tiểu thủ công nghiệp làng nghề trên diện
tích 13ha để giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp trong cụm. Các
doanh nghiệp đã luôn luôn đổi mới công nghệ, thiết bị để tạo ra nhiều loại sản phẩm có
chất
lượng tốt hơn nhằm đáp nhu cầu tiêu dùng trong nước và cạnh tranh với hàng nhập ngoại.
B)- Cụm công nghiệp làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Quang
CCNLN đồ gỗ Đồng Quang gồm 3 làng (Đồng Kỵ, Tráng Liệt và Bính Hạ) thuộc xã

Đồng Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Mật độ dân số trong CCNLN này là
3100người/km2
. Bình quân diện tích đất nông nghiệp là 190m2
/người. Nghề làm đồ gỗ mỹ
nghệ ở Đồng Quang bắt đầu từ những năm 1960 với các sản phẩm chủ yếu là sập gụ, tủ
chè,
gường nằm, bàn ghế kiểu cổ, hoành phi, câu đối, tam sơn, ngũ nhạc, ngai thờ, án thư,
kiệu
rước, tượng thờ, tượng mỹ nghệ,… Trải qua nhiều năm học nghề và phát triển nghề đồ gỗ
mỹ nghệ, đến nay trong CCNLN này đã có 2260 hộ (chiếm 65% tổng số hộ gia đình
trong
cụm) và 226 doanh nghiệp làm nghề đồ gỗ mỹ nghệ (trong đó 76 doanh nghiệp tư nhân,
91
công ty TNHH và 59 HTX). Ngoài ra, trong CCNLN này còn có trên 100 cửa hàng
chuyên
bán gỗ nguyên liệu và 170 hộ làm dịch vụ. Nghề làm đồ gỗ trong CCNLN này đã giải
quyết
việc làm cho hơn 12000 lao động, trong đó có 49% là lao động nữ và có 42% số lao động
từ
các địa phương khác đến. Mức thu nhập bình quân của người lao động là 800nghìn đồng
đến 1,5 triệu đồng/người/tháng. Tổng thu trong CCNLN này khoảng 210 tỷ đồng/năm
(chiếm khoảng 80% tổng thu nhập của cụm). Vốn đầu tư cho sản xuất thường biến động
từ
hàng trăm triệu đồng/1hộ đến vài tỷ đồng/1doanh nghiệp tùy theo quy mô doanh nghiệp

chủng loại sản phẩm. Đến nay, trên địa bàn CCNLN Đồng Quang đã quy hoạch chuyển
đổi
53 ha đất nông nghiệp sang đất công nghiệp để giải quyết nhu cầu về mặt bằng sản xuất

kinh doanh. Từ nhiều năm nay, CCNLN Đồng Quang đã trở thành một thị trường đồ gỗ

lớn
nhất ở Việt Nam và đã tạo ra uy tín, danh tiếng về chất lượng sản phẩm ở trong nước và
quốc tế.
C)- Cụm công nghiệp làng nghề dệt may La Phù
CCNLN La Phù gồm 16 xóm thuộc xã La Phù, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Mật
độ dân số trong cụm khoảng 2600người/km2
. Đất nông nghiệp bình quân là 230m2
/người.
Sản phẩm của CCNLN này chủ yếu là hàng dệt kim như áo len, áo sợi, bít tất, khăn len,
Nghề dệt kim được du nhập và phát triển ở La Phù từ trước năm 1945. Trong thời kỳ
kinh tế
kế hoạch tập trung, nghề dệt bị quản lý bởi HTX thủ công của xã. Sau khi các HTX thủ
công giải thê, nghề dệt may ở La Phù phát triển mạnh trong các hộ gia đình. Đến nay,
nghề
dệt kim trong cụm đã thu hút sự tham gia của 1760 hộ gia đình làm nghề (chiếm 86%
trong
tổng số hộ của cụm), 30 công ty TNHH, 100 doanh nghiệp tư nhân, 20 hộ chuyên kinh
doanh nguyên liệu, 10 hộ chuyên kinh doanh vận tải và có 100 hộ chuyên thu gom hàng
dệt
cho các công ty ở địa phương và các đại lý bán buôn ở các địa phương khác trong cả
nước.
Sản xuất và kim doanh hàng dệt kim tại La Phù đã thu hút khoảng 12.000 lao động, trong
đó
có khoảng 5.000 lao động là người địa phương (chiếm 63% trong tổng số lao động của
xã) 9
và 7.000 lao động đến từ các xã lân cận. Ngoài ra có khoảng 1000 hộ nhận gia công sản
phẩm cho các công ty, các hộ này ở các xã lân cận có bán kính khoảng 20-30km xung
quanh
CCNLN La Phù. Hiện nay, tổng thu nhập từ nghề dệt kim của La Phù khoảng 320 tỷ
đồng/năm (chiếm 78% tổng thu nhập của cụm). Đến nay, trong CCNLN dệt kim La Phù

cũng đã xây dựng 1 khu tiểu thủ công nghiệp làng nghề có diện tích 40 ha để cho 300
doanh
nghiệp thuê đất xây dựng nhà xưởng.
D)- Cụm công nghiệp làng nghề mây tre đan Phú Nghĩa
CCNLN mây tre đan Phú Nghĩa gồm 7 làng nghề thuộc xã Phú Nghĩa, huyện
Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Mật độ dân số trong CCNLN này là 1180người/km2
. Bình quân
diện tích đất nông nghiệp là 470 m2
/người. Nghề mây tre đan ở Phú Nghĩa có từ thế kỷ 17
và là nơi sinh ra nghề mây tre đan ở vùng ĐBSH. Sản phẩm của CCNLN này rất phông
phú,
đa dạng từ các vật dụng phục vụ cho sinh hoạt trong gia đình đến những đồ trang trí nội
thất
như bàn ghế, giường, tủ, salon, bàn trang điểm, túi sách, tranh, lồng đèn,… Đến năm
2007,
trong CCNLN mây tre đan Phú Nghĩa có 1.780 hộ tham gia làm hàng mây tre đan (chiếm
87% tổng số hộ trong cụm) và 27 công ty và doanh nghiệp chuyên kinh doanh hàng thủ
công mây tre đan. Hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng mây tre đan đã giải quyết việc
làm cho 5700 lao động (chiếm 82% tổng số lao động trong toàn xã) với mức thu nhập từ
700 nghìn đến 1 triệu đồng/người/tháng. Tổng thu nhập từ nghề mây tre đan trong
CCNLN
Phú Nghĩa khoảng 38 tỷ đồng/năm (chiếm 53% tổng thu nhập của toàn cụm). Trong
CCNLN Phú Nghĩa cũng đã quy hoạch và xây dựng khu công nghiệp trên diện tích
138ha.
Ngoài ra, ở các địa phương trong vùng ĐBSH đã có rất nhiều làng nghề HĐH sản
xuất và đã hình thành lên các CCNLN. Vậy chúng ta rút ra được điều gì từ sự xuất hiện

sự thành công của các CCNLN này ?
2.3. Các yếu tố chính quyết định sự thành công của các CCNLN
Nghiên cứu và phát triển của thị trường

Ngày nay, thị trường là một yếu tố rất quan trọng nó có ý nghĩa quyết định đến sự
tồn tại và phát triển đối với mỗi làng nghề, đặc biệt là thị trường tiêu thụ các sản phẩm
[15].
Vậy việc nghiên cứu và phát triển thị trường của các CCNLN ở ĐBSH như thế nào ?
A)- Thị trường cung ứng nguyên vật liệu
Đặc điểm của thị trường đầu vào của các CCNLN nói chung là không ổn định, giá
nguyên vật liệu biến động thường xuyên. Trước đây, thị trường nguyên liệu chủ yếu mua
bán tại chỗ, nhất là nguyên liệu cho nghề chế biến lương thực, thực phẩm và sản xuất đồ
tiêu dùng như đan lát, dệt vải, gốm sứ, Sau một thời gian nguồn nguyên liệu này đã cạn
kiệt dần, do đó nó được bổ sung bằng các nguồn từ nơi khác, thậm chí nhập khẩu. Vì vậy,
trong các CCNLN phát triển đã xuất hiện các tổ chức, cá nhân chuyên đi tìm kiếm, khai
thác
và cung cấp nguyên vật liệu cho các hộ và cơ sở làm nghề. Hiện nay, phần lớn các địa
10
phương đã hình thành thị trường mua bán nguyên vật liệu ngay tại các CCNLN với nhiều
cửa hàng buôn bán và bán lẻ nguyên vật liệu.
Trong cụm CCNLN làm giấy Phong Khê thị trường nguyên liệu đã luôn có sự thay
đổi lớn. Lúc đầu người thợ dùng nguyên liêu là vỏ cây dó, sau đó tận dụng một số sách
báo
cũ đem ngâm và vò nát tạo lên một phần nguyên liệu. Tiếp đó người thợ làm giấy đã phát
hiện loại giấy vỏ bao xi măng có thể thay thế nguyên liệu từ cây dó. Sau đó, người thợ
làm
giấy đã biết dùng cây nứa để làm nguyên liệu. Về sau thì nguyên liệu sử dụng chủ yếu là
cây dướng, cây dậy và cây mận thay thế cho việc sử dụng vỏ cây dó ban đầu, rồi dùng
giấy
loại và cây nứa làm nguyên liệu. Lúc đầu, các thị trường cung cấp nguyên liệu cho
CCNLN
làm giấy là Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Thời gian sau này, thị
trường
nguyên liệu phát triển ra các địa phương khác như Hoà Bình, Quảng Ninh, Yên Bái,

Đồng
thời một số doanh nghiệp đã nhập khẩu bột giấy từ Trung Quốc để đáp ứng nhu cầu
nguyên
liệu cho sản xuất các loại sản phẩm giấy cao cấp.
Còn ở CCNLN đồ gỗ Đồng Quang, các doanh nghiệp và hộ sản xuất luôn coi trọng
việc nghiên cứu và phát triển thị trường nguyên liệu gỗ. Trước năm 1980, nguyên liệu gỗ
thường được mua từ Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Trị, Thanh Hoá, Nghệ An, Từ
năm
1980, các doanh nghiệp đã mở rộng thị trường mua nguyên liệu ra các tỉnh phía Nam như
Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Thuận, Ninh Thuận, đồng thời nhập khẩu một số loại gỗ quí
hiếm
(gỗ trắc, gỗ hương, sến, ) từ Cam Pu Chia để phục vụ sản xuất. Đến năm 1996, bắt đầu
nhập gỗ từ Lào và tiếp đó là nhập gỗ từ Indônixia, Malaixia, châu Phi, Đến nay, ở Đồng
Quang có khoảng trên 100 cửa hàng buôn bán gỗ, trong đó có những chủ lớn thường
nhập
gỗ với số lượng lớn giá trị từ 3 đến 5tỷ đồng/1lần tương đương với 200 đến 250m3
. Hiện
nay Đồng Kỵ đã trở thành thị trường gỗ quý hiếm lớn nhất miền Bắc và cả nước.
Trong CCNLN mây tre đan Phú Nghĩa, các thị trường nguyên liệu luôn được khai
thác và phát triển để đáp ứng nhu cầu cho sản xuất. Trước đây nguyên liệu của các làng
nghề mây tre đan ở đây chủ yếu được cung cấp từ các tỉnh miền núi phí Bắc. Hiện nay,

hai nguồn cung cấp chủ yếu: Thứ nhất là nguồn cung cấp song, mây được khai thác từ
các
tỉnh miền Trung của Việt Nam (chiếm 80% lượng nguyên liệu của CCNLN) như Nghệ
An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đắc Lắc và Bình
Thuận.
Hoặc nguyên liệu được nhập khẩu từ Lào và Camphuchia, sau đó sơ chế tại các tỉnh miền
Trung, rồi vận chuyển về các làng nghề có sử dụng mây tre đan ở Hà Tây và Phú Nghĩa.

Thứ hai là nguồn nguyên liệu cung cấp khoảng gần 20% lượng nguyên liệu cung cấp cho
CCNLN này. Vùng cung cấp mây, song chủ yếu từ các tỉnh miền núi phía Bắc như Hà
Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Bắc Cạn, Thái Nguyên, các tỉnh Tây Bắc và các vùng lân
cận Phú Nghĩa như Sơn Tây, Hoà Bình,…
Đối với CCNLN dệt La Phù, trước đây nguồn nguyên liệu mua chủ yếu từ Hà Nội
qua một số công ty hoặc tư thương. Đến nay, nguyên liệu của CCNLN nay đến từ hai
nguồn
chính là nguyên liệu trong nước chiếm 40%, chủ yếu được cung cấp bởi các công ty lớn
như
công ty Dệt 8-3; Công ty sợi Nha Trang, Công ty sợi Biên Hoà, Công ty dệt len mùa
đông,
Công ty len Hà Đông và Công ty len Hải Phòng. Nguyên liệu nhập khẩu chiếm 60%, chủ
11
yếu đến từ Trung Quốc. Việc mở rộng thị trường nguyên liệu được phát triển mạnh mẽ
thông qua chính sách cởi mở của nhà nước và sự năng động của các doanh nghiệp dệt
kim ở
La Phù.
B)- Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp trong các CCNLN năng động đã
thường xuyên nghiên cứu và mở rộng các thị trường tiêu thụ sản phẩm ở cả thị trường
trong
nước và quốc tế.
Cụ thể như sản phẩm giấy của CCNLN Phong Khê truớc đây chủ yếu bán cho làng
nghề làm tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh), làng nghề pháo Bình Đà (Hà Tây) và làng
nghề làm vàng mã ở làng Cót – Từ Liêm - Hà Nội. Sau đó các sản phẩm của làng nghề
Phong Khê đã được đa dạng hóa nên sản phẩm đã mở rộng thị trường tiêu thụ ở các tỉnh
thành phía Bắc với các sản phẩm chính như giấy vệ sinh, giấy làm bao bì, giấy viết,
Hiện
nay, trong CCNLN đã sản xuất được hầu hết các loại giấy cao cấp trên thị trường nên thị

×