Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bệnh cháy bìa lá lúax

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.73 KB, 12 trang )

Bệnh cháy bìa lá lúa
TÌM HIỂU BỆNH CHÁY BÌA LÁ LÚA

Lịch sử phát hiện và phân bố của bệnh
Bệnh cháy bìa lá lúa hay còn gọi là bệnh bạc lá do loài vi khuẩn Xanthomonas oryzae gây
ra. Bệnh được phát hiện đầu tiên ở Nhật Bản vào năm 1884, đến năm 1908 mới xác định tác
nhân là do vi khuẩn. Hiện nay bệnh này phổ biến ở ruộng lúa khắp các Châu lục. Ở Việt Nam
bệnh cháy bìa lá xuất hiện trên phạm vi cả nước. Bệnh này ngày càng phổ biến ở vùng Đồng
Tháp Mười, đặc biệt trong vụ lúa Hè thu.
Đặc điểm tác nhân gây bệnh
Vi khuẩn bệnh cháy bìa lá có hình que ngắn, 2 đầu tròn, có một chiên mao ở một cực. Có
vỏ bao bọc (capsule) và tập hợp thành khối khá bền vững, ngay cả khi ở trong nước. Capsule có
vai trò bảo vệ vi khuẩn chống khô hạn và những yếu tố bất lợi khác.
Nhiệt độ thích nghi của vi khuẩn từ 26-30°C. Ở các nước nhiệt đới bệnh cháy bìa lá phát
triển quanh năm, vi khuẩn lưu tồn từ vụ này qua vụ khác.
Trong nước kinh rạch, nước ruộng, vi khuẩn có thể sống được vài tuần đến hai tháng
.Trong đất vi khuẩn có thể sống từ 1-3 tháng, tùy ẩm độ đất và tính acid của đất.
Vi khuẩn có thể lưu tồn trong hạt sau thu hoạch cho đến 3 tháng sau. Chúng có bên trong
vỏ trấu và có cả trong phôi nhũ. Tuy nhiên, nếu hạt được phơi nắng khô thì vi khuẩn sống không
quá 40 ngày. Gốc rạ và rễ lúa cũng là nguồn lây nhiểm quan trọng, khối vi khuẩn khô trong rơm
rạ có thể sống đến 8 tháng.
Xâm nhiễm và phát triển của vi khuẩn
Vi khuẩn xâm nhiễm vào mô cây lúa qua các cửa ngỏ tự nhiên như khí khổng, thủy khổng
và các vết nứt do rễ mới phát triển ở chân mạ hay các vết thương cơ giới do sâu, rầy gây ra.
Trên lá, vết thương càng mới thì càng dễ bị nhiễm bệnh. Bệnh có phát triển được hay không còn
tùy thuộc vào mật số vi khuẩn, tối thiểu phải 10
3
tế bào/ml.
Sau 1-2 ngày xâm nhiễm, vi khuẩn sẽ phát triển tích cực trên các giống nhiễm và lan vào
các mạch dẫn nhựa, từ đó lan đi trong cây.
Các thủy khổng dọc theo mặt trên ở bìa lá cũng là con đường dể xâm nhiễm. Vi khuẩn


nhân mật số trong mô bì lá và khi đủ mật số chúng lan vào bó mạch và ứa giọt ra ngoài. Số
lượng thủy khổng trên lá non và trên giống nhiểm nhiều hơn nên dể bị bệnh hơn.
Bệnh thường xuất hiện vào giai đoạn làm đòng trở về sau, tuy nhiên vi khuẩn cũng đã
tích lũy từ cuối giai đoạn mạ.
Vi khuẩn lây lan chủ yếu do mưa, bão. Mưa bão còn tạo vết thương trên lá, giúp vi khuẩn
dễ xâm nhiễm. Vi khuẩn cũng lây lan theo nước ruộng vì các giọt vi khuẩn ứa trên lá sẽ rơi vào
nước, rồi tràn lan từ ruộng này sang ruộng khác.
Triệu chứng gây bệnh của vi khuẩn Xanthomonas oryzae
Bệnh có thể bao gồm 3 dạng triệu chứng: cháy bìa lá, héo xanh và vàng lá.
+Cháy bìa lá
Trên phiến lá, vết bệnh thường bắt đầu ở cách chóp lá một khoảng, tạo các sọc dài úng
nước ở một hay hai bên bìa lá, vài ngày sau, vùng bệnh biến sang màu vàng, bìa gợn sóng. Vùng
bệnh phát triển dần ra, vùng mô tiếp giáp giữa mô bệnh và mô khỏe bị úng nước.Vùng mô bệnh
sẽ trở thành màu xám trắng do sự phát triển của nhiều nấm hoại sinh. Vết bệnh có thể là những
sọc ở vị trí bất kỳ trên phiến lá, nơi có vết thương.
Trên các vết bệnh mới, vào sáng sớm có thể thấy các giọt vi khuẩn đục hay vàng, ứa ra
trên mặt lá và bị gió làm rơi vào lá khác và vào nước ruộng. Hạt cũng có thể bị nhiễm bệnh, vỏ
hạt có đốm bị biến màu, viền úng nước nếu hạt còn non; ở hạt già, đốm có màu xám trắng hay
trắng vàng.
+Héo xanh
Bệnh do vi khuẩn nhiễm vào vết cắt ở lá (cắt lá mạ trước khi cấy) hay nhiễm qua vết
thương ở rễ bị đứt khi nhổ mạ.Bệnh thường xuất hiện ở 1-2 tuần sau khi cấy, lá bệnh có màu
xanh xám, cuốn tròn dọc theo gân lá. Ở lúa cấy có cắt lá, bên dưới mặt cắt có đốm úng nước, sau
đó đổi sang màu xanh xám, toàn lá kể cả bẹ sẽ bị cuốn, héo. Vi khuẩn lan theo bó mộc đến những
vùng tăng trưởng làm hư các lá khác, nên toàn cây sẽ bị chết.
+Vàng lá
Bệnh thường thấy trên các cây lúa đã lớn, trong khi các lá già bên dưới có màu xanh bình
thường, các lá non bị vàng nhạt hay có các sọc to màu vàng hay xanh vàng trên phiến lá. Lý do
mật số vi khuẩn tích tụ nhiều trong lóng bên dưới lá. Triệu chứng có thể xuất hiện sau khi vi
khuẩn xâm nhiễm 20-30 ngày.

Thiệt hại
Khi ruộng lúa nhiễm nặng, năng suất có thể thất thu 20-30%, có khi lên đến 50%. Khi
bệnh cháy bìa lá xuất hiện, các bệnh vi khuẩn gây đen lép hạt cũng gia tăng tạo sự cộng hưởng
gây giảm năng suất lúa trầm trọng.
Biện pháp phòng , trị
Bệnh cháy bìa lá nói riêng và bệnh do vi khuẩn hại lúa nói chung rất khó trị.
-Phòng bệnh là biện pháp chủ yếu, trong đó lưu ý chọn giống kháng bệnh cao. Bón phân
cân đối, không bón thừa đạm vào giai đoạn cuối của cây lúa.
-Trong mùa mưa bão nên phun các loại thuốc trừ bệnh có gốc đồng như hổn hợp
Bordeaux, Coper zinc, Kasuran ở nồng độ 0,2-0,3 % để phòng.
-Có thể phun ngừa bằng các loại thuốc có thành phần là chất kích kháng như Axit Oxalic,
axit salicylic hoặc thuốc tạo ra chất kích kháng như Starner, Alliet...
-Khi phát hiện 4-5 % số lá bệnh thì dùng các loại thuốc có chất kháng sinh diệt vi khuẩn
Streptomycine sulfat, Chloramphenicol..như các loại thuốc Bactocide 12WP, Sasa 20WP,
Xanthomix 20WP. Phun vào lúc sáng sớm hay chiều mát.
Lưu ý thuốc kháng sinh như Streptomycine rất dể bị vi khuẩn kháng thuốc nên thay đổi
gốc thuốc khi phun nhiều lần trong 1 vụ lúa.
Kỹ sư Hồ Đình Hải
PHÒNG TRỊ BỆNH DO VI KHUẨN HẠI LÚA
Trong nhiều năm qua bệnh hại lúa do tác nhân vi khuẩn ít được chú ý. Trong
thực tế các bệnh do vi khuẩn ngày càng phổ biến và có xu hướng phát triển ngày
càng mạnh hơn, đặc biệt là bệnh cháy bìa lá (Bacterrial blight) và bệnh thối hạt do vi
khuẩn (Bacterial grain rot).
Các nghiên cứu của ngành BVTV cho biết ở ĐBSCL có hơn 10 loài vi khuẩn hại
lúa thuộc ba nhóm: Xanthomonas, Pseudomonas và Erwinia, trong đó nhóm
Pseudomonas có khả năng gây bệnh trên hạt lúa và sự đóng góp của vi khuẩn gây
bệnh lem lép hạt từ 28-32% trong mùa mưa.
I- Đặc điểm tác nhân và triệu chứng
A- Bệnh vi khuẩn thuộc chi Xanthomonas
Vi khuẩn Xanthomonas có tế bào hình gậy ( 0,4-0,7 X 0,7-1,8 m), nhuộm

Gram (-), ưa khí bắt buộc, không sinh bào tử, di chuyển bằng một tiêm mao phân cực.
Tế bào đơn độc, khuẩn lạc màu vàng, nhẳn hoặc nhầy. Phản ứng oxidase thường âm
hoặc dương tính yếu, phản ứng catalase dương và không hình thành Nitrat. Thường
sản sinh đường cao phân tử ngoại bào. Sự sinh sản bị ức chế bởi triphenil-
tetrazolium chloside (TTC 0,02% dung dịch nước).
Phần lớn các loài Xanthomonas là vi sinh vật gây bệnh cây, nhiệt độ thích hợp
ở 25-30
o
C.Xanthomonas xuất hiện trên toàn thế giới và tấn công trên nhiều loài cây
trồng ở mức độ nhiều hay ít. Các triệu chứng điển hình gồm vết bệnh trên lá, thân và
quả, gây héo rũ tế bào và sủng nước.
A-1-Bệnh cháy bìa lá hay bạc lá lúa ( Bacterial blight)
Do vi khuẩn Xanthomonas campestris pv. oryzae (Ishiyami, Dye) gây ra. Vi
khuẩn này có nhiều chủng khác nhau và khả năng mẩn cảm của nhiều giống cũng
khác nhau.
Vết bệnh phát triển ở hai bìa lá, hướng lan từ chóp lá xuống. Chổ bị bệnh
thường trở nên trắng mờ, trong vết bệnh là dịch vi khuẩn thường nhỏ giọt ra ngoài
vào sáng sớm, chiều tối và ban đêm, sau đó làm cho lá khô, mất khả năng quang hợp.
Rìa vết bệnh thường có đường gợn sóng.
Bệnh có thể phát sinh trên cây lúa ở tuổi mạ, nhưng chủ yếu gây hại cây lúa ở
tuổi thuần thục, hại nặng vào thời kỳ cây lúa đứng cái, làm đòng và trổ bông. Bệnh
xâm nhập vào cây qua khí khổng, qua vết thương trên lá do mưa, bão và qua vết
thương trên bẹ lá và rể lúa do vết chích của rầy nâu hoặc tuyến trùng.
Vi khuẩn có thể xâm nhập qua đường rể làm nghẽn mạch dẩn nhựa, nhưng
thường khu trú tập trung và tấn công trên lá. Khi độ ẩm không khí cao và vào mùa
mưa bão bệnh rất nặng.
Các nghiên cứu nước ngoài cho biết vi khuẩn gây bệnh cháy bìa lá không phát
triển được trong đất do dể bị nhiểm phage, có thể sống trong nước 15-38 ngày
(Shingh-1971) và có thể tồn tại trong hạt giống 7-8 tháng và trong rơm rạ 3-4 tháng
(Reddy-1972). Trong môi trường đất và nước và khi hạt giống đang ngâm ủ vi khuẩn

bị nhiểm bacteriophage và giảm mật số nhanh chóng.
A-2- Bệnh đốm sọc vi khuẩn (Bacteria leaf streak)
Do vi khuẩn Xanthomonas campestris pv. oryzicola Fang, Ren, Chen , (Chu and
Wu) Dey gây ra. Loài vi khuẩn này gần gũi với loài gây bệnh cháy bìa lá và nhiều loài
gây bệnh trên cây trồng khác.
Bệnh chỉ gây hại trên phiến lá, đầu tiên vết bệnh là những vệt nhỏ trong suốt
nằm giữa các gân lá, sau đó vết bệnh lớn dần và chuyển sang màu vàng nâu. Giống
lúa mẩn cảm có thể bị cháy khô hoàn toàn. Bệnh này truyền qua hạt giống.
Bệnh lây lan qua khí khổng hoặc vết thương trên lá hoặc vết thương trên các
bộ phận ngập nước. Vi khuẩn có thể tồn tại khá lâu trong nước nhưng trong đất
chúng dể bị nhiểm phage.
B- Bệnh vi khuẩn hại lúa thuộc chi Pseudomonas
Vi khuẩn Pseudomonas có thể sống hình gậy (0,5-1,0 X 1,5-5,0 m), nhuộm
Gram (-), ưa khí, không hình thành bào tử, di chuyển bằng 1-7 tiêm mao phân cực, tế
bào đơn hoặc hợp thành cặp đôi, hình thái khuẩn lạc biến động.
Nhóm này đa số sống hoại sinh, một số loài gây bệnh trên động vật và thực
vật. Trên cây trồng gây hiện tượng chết hoại, đốm quả, thân, lá. Gây cháy xém, úng
nước, loét và nhiểm mạch dẩn.
Trên cây lúa chi Pseudomonas gây ra các bệnh sau đây:
B-1-Bệnh sọc nâu do vi khuẩn (Bacterial brown stripe)
Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas avenae Manns gây ra. Bệnh tấn công trên lá
gây ra hiện tượng đốm sọc song song gân lá. Ở ĐBSCL bệnh này thuộc dịch hại thứ
yếu.
B-2-Bệnh thối nâu bẹ do vi khuẩn (Sheat brown rot)
Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas fuscovagina Tanii, Miya and Akita gây ra. Bệnh
xảy ra trên bẹ làm cho mép bẹ mộng nước sau đó bị thối nâu.
B-3-Bệnh thối lép hạt do vi khuẩn (Bacterial grain rot) = Bệnh lép vàng.
Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas glumae Kurita and Tabei gây ra.Bệnh tấn công
trên cây lúa trên ruộng thừa đạm và ẩm độ không khí cao, thường phát triển mạnh
trong vụ Hè thu.

-Triệu chứng ban đầu: khi lúa trổ không thấy triệu chứng khi lúa đã trổ đều,
cuối bông thấy xuất hiện một số hạt lép hoặc lững màu vàng, trên bông ban đầu chỉ
có một số hạt lép vàng, sau đó lây lan ra nhiều hạt khác trên cả bông, bệnh thường
phát triển trên diện tích lớn khi gặp trời mưa dầm.
Bệnh tấn công sớm làm cho hoa lúa bị hại hạt không thụ phấn và vỏ trấu trở
nên vàng sậm. Bệnh muộn khi tách vỏ trấu thấy hạt gạo lững có vết nâu nhũn nước.
Khi hạt gạo bị tấn công sớm thì thấy những hạt thối đen xuất hiện cùng với những
hạt lép hoặc lững màu vàng.
Theo các nhà khoa học IRRI thì bệnh này hiện nay trở thành nghiêm trọng, có
thể làm giảm năng suất lúa đến 50 % (Kaku, Zeigler và Alvarez-1988).
B-4-Bệnh thối hạt do vi khuẩn (Seeding blight)
Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas plantarii Azegami gây ra.Bệnh tấn công trên
cây lúa thừa đạm từ giai đoạn còn non và vi khuẩn lưu tồn trong hạt khô và khi
ngâm ủ vi khuẩn phát triển gây thối hạt.
B-5-Bệnh đốm lá do vi khuẩn ( Bacterial halo blight)
Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas syningae pv. oryzae Kuwata gây ra.
Bệnh gây ra những đốm tròn mộng nước trên lá và sau đó khô đi.
B-6-Bệnh thối bẹ do vi khuẩn (Bacterial sheath rot)
Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas syningae pv. Syngae = P. orycola Klemet gây ra.
Bệnh gây mộng nước và thối bẹ lá.
C- Bệnh do vi khuẩn chi Erwinia gây ra
Vi khuẩn Erwinia có thể sống hình gậy (0,5-1,0 X 1,0-3,0 m), nhuộm Gram (-),
hình thành sắc tố, không hình thành bào tử, di động bằng chu mao. Tế bào đơn độc
hoặc tạo thành cặp, khuẩn lạc tròn, lồi, nhầy, có từ màu trắng kem đến vàng. Phản
ứng oxydase âm, phản ứng catalase dương.
Nhóm phân hủy pectate gây thối nhũn và nhóm không phân hủy pectate không
gây thối nhũn. Đa số gây bệnh cây, nhiệt độ thích hợp 27-30
o
C.
C-1- Bệnh thối gốc lúa do vi khuẩn (Bacterial foot rot)

Bệnh do vi khuẩn Erwinia chrysanthemi pv. Zeae (Sabet), Victoria, Arbeleda
and Mu4noz gây ra. Bệnh gây thối nhầy gốc lúa . Vi khuẩn này cũng gây trên nhiều
cây trồng cạn khác.
C-2-Bệnh thối nâu vỏ trấu (Bacterial palea browning)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×