Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Đề tài: Phân tích tình hình tài chính và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.39 KB, 60 trang )

TRƯỜNG CĐ GIAO THÔNG VẬN TẢI
KHOA KINH TẾ VẬN TẢI
Đề tài: Phân tích tình hình tài
chính và biện pháp nâng cao sử
dụng vốn
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Việt Thắng
Sinh viờn thực hiện : Nguyễn Hữu Quyết
Lớp : 57 CĐQT1
MSSV :
HA NOI, May 2009
1
Lời mở đầu
Vốn là một yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Là chìa khoá, là điều kiện tiền đề cho các doanh nghiệp thực
hiện các mục tiêu kinh tế của mình là lợi nhuận, lợi thế và an toàn.
Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung chúng ta chưa đánh giá hết được vai
trò thiết yếu của nó nên dẫn đến hiện tượng sử dụng vốn còn nhiều hạn chế, các
doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động trong cơ chế này được bao tiêu cung ứng,
chính vì thế hiệu quả sử dụng vốn không được chú ý đến, do đó không mang lại
hiệu quả, làm lãng phí nguồn nhân lực .
Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với việc chuyển
dịch cơ chế quản lý kinh doanh đó là việc mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho
các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng theo hướng lời ăn, lỗ thì chịu. Bên cạnh
đó nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp đang đối mặt
với cạnh tranh gay gắt, mọi doanh nghiệp đều thấy rõ điều này, Nhà Nước và
doanh nghiệp cùng bắt tay nhau hội nhập. Điều này đã tạo cơ hội và thách thức
cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những
doanh nghiệp năng động, sớm thích nghi với cơ chế thị trường đã sử dụng vốn
có hiệu quả còn những doanh nghiệp khó khăn trong tình trạng sử dụng vốn có
hiệu quả nguồn vốn. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không còn là
khái niệm mới mẻ, nhưng nó luôn được đặt ra trong suốt quá trình hoạt động của


mình.
2
Công ty TNHH Điện Nissin Việt Nam là một trong những doanh nghiệp
nước ngoài mới được thành lập và đi vào hoạt động trong lĩnh vực sản xuất cơ
khí cũn gặp nhiều khú khăn. Chính vì lẽ đó, trong thời gian thực tập tại công ty
em quyết định chọn đề tài: “ Phân tích tình hình tài chính và biện pháp nâng
cao sử dụng vốn” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mỡnh.
Nội dung chủ yếu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận được chia
làm ba phần :
Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn.
Phần II: Phân tích tình hình thực tế về hiệu quả sử dụng vốn DN
Phần III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
DN
Chuyên đề này được hoàn thành, song đây là một vấn đề khó mà thời gian
nghiên cứu lại có hạn, do vậy không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự
góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Quản trị doanh nghiệp của trường mà đặc
biệt là sự quan tâm, giúp đỡ của Thầy Nguyễn Việt Thắng và Ban lãnh đạo
Công ty TNHH Điện Nissin Việt Nam để em hoàn thành chuyên đề này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2009.
3
4
I. VỐN VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG SXKD
1. Khỏi niệm về vốn:
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp
nào muốn tồn tại và phát triển được đều cần phải có nguồn tài chính đủ mạnh,
đây là một trong ba yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp có thể duy trì hoạt
động của mình, nhiều quan niệm về vốn, như:
Theo nghĩa hẹp thì: vốn là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp, mỗi quốc gia.
Theo nghĩa rộng thì: vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí

để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến
thức kinh tế, kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ
quản lý và tác nghiệp của các cán bộ điều hành, cùng đội ngũ cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp. Quan điểm này có ý nghĩa
quan trọng trong việc khai thác đầy đủ hiệu quả của vốn trong nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, việc xác định vốn theo quan điểm này rất khó khăn phức tạp
nhất là khi nước ta trình độ quản lý kinh tế còn chưa cao và pháp luật chưa hoàn
chỉnh.
Theo quan điểm của Mác thì: vốn (tư bản) không phải là vật, là tư liệu sản
xuất, không phải là phạm trù vĩnh viễn. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng
dư bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản ứng
tiền ra mua tư liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là tạo ra các yếu tố của quá
trình sản xuất. Các yếu tố này có vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá trị thặng
dư. Mác chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tư bản bất biến là
bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nhà
xưởng,…) mà giá trị của nó được chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm. Còn tư bản
khả biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức lao động, trong quá trình sản
xuất thay đổi về lượng, tăng lên do sức lao động của hàng hoá tăng.
5
Theo David Begg, Stenley Ficher, Rudiger Darubused trong cuốn (Kinh tế
học) thì: vốn hiện vật là giá trị của hàng hoá đã sản xuất được sử dụng để tạo ra
hàng hoá và dịch vụ khác. Ngoài ra còn có vốn tài chính. Bản thân vốn là một
hàng hoá nhưng được tiếp tục sử dụng vào sản xuất kinh doanh tiếp theo. Quan
điểm này đã cho thấy nguồn gốc hình thành vốn và trạng thái biểu hiện của vốn,
nhưng hạn chế cơ bản là chưa cho thấy mục đích của việc sử dụng vốn.
Một số nhà kinh tế học khác lại cho rằng: Vốn có nghĩa là phần lượng sản
phẩm tạm thời phải hi sinh cho tiêu dùng hiện tại của nhà đầu tư, để đẩy mạnh
sản xuất tiêu dùng trong tương lai. Quan điểm này chủ yếu phản ánh động cơ
về đầu tư nhiều hơn là nguồn vốn và biểu hiện của nguồn vốn. Do vậy quan
điểm này cũng không đáp ứng được nhu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

cũng như phân tích vốn.
Có thể thấy, các quan điểm khác nhau về vốn ở trên, một mặt thể hiện
được vai trò tác dụng trong điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích
nghiên cứu cụ thể. Mặt khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng trên
phương diện hạch toán và quản lý, các quan điểm đó chưa đáp ứng được đầy đủ
các yêu cầu về quản lý đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên cơ sở phân tích các quan điểm về vốn ở trên, khái niệm cần thể hiện
được các vấn đề sau đây:
- Nguồn gốc sâu xa của vốn kinh doanh là một bộ phận của thu nhập
quốc dân được tái đầu tư, để phân biệt với vốn đất đai, vốn nhân lực.
- Trong trạng thái của vốn kinh doanh tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh là tài sản vật chất (tài sản cố định và tài sản dự trữ) và tài sản tài
chính (tiền mặt gửi ngân hàng, các tín phiếu, các chứng khoán…) là cơ sở để ra
các biện pháp quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp một cách có hiệu quả.
- Phải thể hiện được mục đích sử dụng vốn đó là tìm kiếm các lợi ích kinh
tế, lợi ích xã hội mà vốn đem lại, vấn đề này sẽ định hướng cho quá trình quản
lý kinh tế nói chung, quản lý vốn doanh nghiệp nói riêng.
6
Từ những vấn đề nói trên,có thể nói quan niệm về vốn là: phần thu nhập
quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài chính được cá nhân, các doanh
nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi
ích.
2. Tầm quan trọn của vồn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá,
do vậy bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào dù bất cứ cấp độ nào, gia
đình, doanh nghiệp hay quốc gia luôn cần một lượng vốn nhất định dưới dạng
tiền tệ, tài nguyên đã được khai thác, bản quyền phát minh sỏng chế.
Vốn là điều kiện tiền đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Vốn là cơ sở xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp, vốn đảm bảo cho
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo mục tiêu đã định.

* Về mặt pháp lý:
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp
đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn
pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại doanh nghiệp)
khi đó địa vị pháp lý mới được công nhận. Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp
không thể thực hiện được. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn
của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ
chấm dứt hoạt động như phá sản, sát nhập vào doanh nghiệp khác… Như vậy, vốn
được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách
pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật .
* Về kinh tế:
7
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là mạch máu của doanh nghiệp
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo
khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phục vụ cho quá trình
sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra một cách liên tục,
thường xuyên.
Vốn là yếu tố quyết định đến mở rộng phạm vi hoạt động của doanh
nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh
vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm
bảo cho doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp
tiếp tục đầu tư sản xuất, thâm nhập vào thị trường tiềm năng từ đó mở rộng thị
trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới có
thể sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn.
3. Đặc trưng của vốn
- Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định có nghĩa là vốn được
biểu hiện bằng giá trị tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp.
- Vốn phải vận động sinh lời đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh

nghiệp.
- Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát
huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình thái vật chất theo thời gian và
không gian theo công thức :
T - H - SX - H’ - T’
- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản lý chặt
chẽ.
8
- Vốn phải được quan niệm như một hàng hoá đặc biệt có thể mua bán
hoặc bán bản quyền sử dụng vốn trên thị trường tạo nên sự giao lưu sôi động
trên thị trường vốn, thị trường tài chính. Như vậy vốn bắt đầu là hình thái tiền tệ
chuyển sang hình thái vật tư hàng hoá là tư liệu lao động và đối tượng lao động
trải qua quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm lao vụ hoặc dịch vụ vốn sang hình
thái hoá sản phẩm. Khi tiêu thụ sản phẩm lao vụ dịch vụ xong vốn lại trở về hình
thái tiền tệ. Do sự luân chuyển vốn không ngừng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh nên cùng một lúc vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường tồn
tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông.
4. Phõn loại vốn
* Căn cứ theo nguồn hình thành vốn:
a./ Vốn chủ sở hữu:
Là số tiền vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp, số vốn vay
này không phải là một khoản nợ. Doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán,
không phải trả lãi suất. Vốn chủ sở hữu được xác định là phần còn lại trong tài
sản của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả tuỳ theo loại hình doanh
nghiệp. Vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách khác nhau.
b./Vốn vay :
Là khoản vốn đầu tư ngoài vốn pháp định được hình thành từ nguồn đi
vay, đi chiếm dụng từ các đơn vị cá nhân sau một thời gian nhất định doanh

nghiệp phải hoàn trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi. Vốn vay có thể sử dụng
hai nguồn chính: Vay của các tổ chức tài chính và phát hành trái phiếu doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì mức độ rủi ro càng cao
nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là một nguồn vốn huy động lớn
tuỳ thuộc vào khả năng thế chấp tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
* Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn:
9
a./Nguồn vốn thường xuyên:
Đây là nguồn vốn mang tính ổn định và lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử
dụng để đầu tư vào TSCĐ và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu cần thiết
cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm vốn chủ sở
hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp.
b.Nguồn vốn tạm thời:
Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng
để đáp ứng tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Nguồn vốn này thường gồm các khoản vay ngắn hạn, các
khoản chiếm dụng của bạn hàng. Theo cách phân loại này còn giúp cho doanh
nghiệp lập kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ nguồn vốn
trong tương lai trên cơ sở xác định về quy mô số lượng vốn cần thiết, lựa chọn
nguồn vốn và quy mô thích hợp cho từng nguồn vốn đó, khai thác những nguồn
tài chính tiềm tàng, tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao.
* Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành:
a./ Nguồn vốn bên trong nội bộ doanh nghiệp :
Là nguồn vốn có thể huy động từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp
bao gồm khấu hao tài sản, lợi nhuận để lại, các khoản dự trữ, dự phòng, các
khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định.
b./ Nguồn vốn hình thành từ ngoài doanh nghiệp:
Là nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:

- Nguồn tín dụng từ các khoản vay nợ có kỳ hạn mà các ngân hàng hay tổ
chức tín dụng cho doanh nghiệp vay và có nghĩa vụ hoàn trả các khoản tiền vay
nợ theo đúng kỳ hạn quy định.
- Nguồn vốn từ liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp gồm nguồn vốn
vay có được do doanh nghiệp liên doanh, liên kết từ các doanh nghiệp để phục
vụ cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh.
10
- Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn thông qua việc phát hành trái
phiếu, cổ phiếu. Việc phát hành những chứng khoán có giá trị này cho phép các
doanh nghiệp có thể thu hút số tiền rộng rãi nhàn rỗi trong xã hội phục vụ cho
huy động vốn dài hạn của doanh nghiệp.
* Căn cứ vào công dụng kinh tế của vốn :
a./ Vốn cố định:
Là một bộ phận vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định và tài sản đầu tư
cơ bản mà điểm luân chuyển từng phần trong chu kỳ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, hình thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời hạn sử
dụng.
b./ Vốn lưu động :
Là bộ phận sản xuất kinh doanh ứng ra để mua sắm các tư liệu lao động
nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
5. Cơ cấu vốn :
Là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động và vốn cố định theo
một tỷ lệ nào đó.
11
* Cơ cấu vốn cố định:
Là một bộ phận của sản xuất kinh doanh ứng ra hình thành TSCĐ của
doanh nghiệp. Vốn cố định là một khoản đầu tư ứng ra trước để mua sắm TSCĐ
có hình thái vật chất và TSCĐ không có hình thái vật chất.
* Cơ cấu vốn lưu động:
Là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ứng ra để

mua sắm TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông nhằm phục vụ cho sản xuất.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động có hiệu quả, muốn nâng cao
khả năng sử dụng vốn đều phải xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý.Tuy
nhiên tuỳ từng loại hình doanh nghiệp khác nhau có một cơ cấu vốn khác nhau.
Nếu doanh nghiệp sản xuất thì tỷ lệ cố định sẽ lớn hơn so với vốn lưu động, còn
đối với doanh nghiệp thương mại thì cần số vốn lưu động lớn hơn. Nếu các
doanh nghiệp thương mại này không xác định được cơ cấu vốn hợp lý, họ đầu tư
mua sắm TSCĐ quá nhiều dẫn đến vốn cố định lớn, điều này cho lãng phí đầu tư
không có hiệu quả vì đầu tư cho TSCĐ cần một lượng vốn lớn, thời gian thu hồi
vốn lâu, tuy nhiên, nếu đây là doanh nghiệp sản xuất thì cơ cấu vốn này là được
bởi vì đầu tư trang bị kỹ thuật sản xuất kinh doanh sẽ tạo điều kiện giải phóng
sức lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm do đó tạo điều kiện cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp phát triển và tăng trưởng.
II. CÁC NGUỒN HUY ĐỘNG VỐN
1. Tự cung ứng
Cung ứng vốn nội bộ là phương thức tự cung cấp vốn của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp các phương thức tự cung ứng vốn cụ thể là:
* Khấu hao tài sản cố định:
12
Tài sản cố định là những tư liệu lao động tham gia vào nhiều quá trình sản
xuất. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định bị hao mòn dần và chuyển dần giá
trị vào giá thành sản phẩm. Hao mòn tài sản cố định là một quá trình mang tính
khách quan, phụ thuộc vào nhân tố như chất lượng của bản thân tài sản cố định,
các yếu tố tự nhiên, cường độ sử dụng tài sản cố định, Trong quá trình sử dụng
tài sản cố định doanh nghiệp phải xác định độ hao mòn của chúng để chuyển
dần giá trị hao mòn vào giá trị của sản phẩm được sản sản xuất ra từ tài sản cố
định đó. Việc xác định mức khấu hao tài sản cố định phụ thuộc vào thực tiễn sử
dụng tài sản cố định đó cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với các
doanh nghiệp Nhà Nước trong quá trình khấu hao tài sản cố định phụ thuộc vào
ý đồ của Nhà Nước thông qua quy định, chính sách cụ thể của cơ quan tài chính

trong từng thời kỳ. Các doanh nghiệp khác có thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng
và phương pháp tính khấu hao cụ thể.
* Tích luỹ tái đầu tư:
Tích luỹ tái đầu tư luôn được các doanh nghiệp coi là nguồn tự cung ứng
tài chính quan trọng vì nó có ưu điểm cơ bản sau:
- Doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động.
- Giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng.
- Giúp các doanh nghiệp tăng thêm tiềm lực tài chính làm giảm tỉ lệ
nợ/vốn.
- Càng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện
chưa tạo được uy tín với các nhà cung ứng tài chính.
Quy mô tự cung ứng vốn tích luỹ tái đầu tư tuỳ thuộc vào hai nhân tố chủ
yếu là tổng số lợi nhuận thu được trong từng thời kỳ kinh doanh cụ thể và chính
sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Tổng số lợi nhuận cụ thể
thu được trong từng thời kỳ phụ thuộc vào quy mô kinh doanh, chất lượng hoạt
động kinh doanh của từng doanh nghiệp trong từng thời kỳ đó. Chính sách phân
phối lợi nhuận trước hết tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp.
13
2. Các phương thức cung ứng từ bên ngoài
* Cung ứng vốn từ ngân sách Nhà Nước:
Với hình thức cung ứng từ ngân sách Nhà Nước doanh nghiệp sẽ nhận
được lượng vốn xác định từ ngân sách Nhà Nước cấp. Thông thường hình thức
này không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp được cấp
vốn như các hình thức vốn huy động khác nhau.
Tuy nhiên, càng ngày hình thức cung ứng vốn từ ngân sách Nhà Nước đối
với các doanh nghiệp ngày càng thu hẹp cả về quy mô vốn và phạm vi cung cấp
vốn. Hiện nay, đối với tượng được cung cấp vốn theo hình thức này thường phải
là các doanh nghiệp Nhà Nước xác định duy trì để đóng vai trò điều tiết nền
kinh tế; các dự án đầu tư ở lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng, hoạt động
công ích mà tư nhân không muốn và không có khả năng đầu tư; các dự án lớn có

tầm quan trọng đặc biệt do Nhà Nước đầu tư.
* Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu:
Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu là hình thức doanh nghiệp được cung
ứng trực tiếp từ thị trường chứng khoán. Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình
thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu, bán trên thị trường
chứng khoán. Hình thức cung ứng vốn này có đặc trưng cơ bản là tăng vốn
không làm tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người chủ sở hữu cổ phiếu
thành những cổ đông của doanh nghiệp. Vì lẽ này nhiều nhà quản trị học coi
hình thức gọi hình thức hùn vốn qua phát hành cổ phiếu là nguồn cung ứng vốn
nội bộ.
Hình thức huy động vốn qua phát hành cổ phiếu có ưu điểm rất lớn là tập
hợp được lượng vốn ban đầu và dễ tăng vốn trong quá trình kinh doanh, quyền
sở hữu vốn tách khỏi quản trị một cách một tương đối nên bộ máy quản trị
doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng vốn có hiệu quả nguồn vốn này.
14
Bên cạnh đó, hình thức gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu có hạn chế là
doanh nghiệp phải có nghĩa vụ khai háo thông tin tài chính theo luật doanh
nghiệp; Khi thừa vốn không hoặc chưa sử dụng đến doanh nghiệp không hoàn
trả lại được vì vậy, khi có nhu cầu gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu đòi hỏi
doanh nghiệp phải tính toán, cân nhắc. Mặt khác, hình thức huy động vốn này có
thể làm cổ tức giảm cho nên doanh nghiệp phải có quy mô lớn hứa hẹn lợi
nhuận cao mới dễ bán cổ phiếu trên thị trường.
* Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn :
Hình thức vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn là hình
thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng: doanh nghiệp phát hành lượng vốn
cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công
chúng. Khác với hình thức phát hành cổ phiếu, hình thức phát hành cổ phiếu với
đặc điểm là tăng vốn và tăng nợ của doanh nghiệp.
Vay vốn bằng phát hành trái phiếu có những ưu điểm chủ yếu là: có thể
thu hút một lượng vốn lớn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn so

với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân
hàng và doanh nghiệp có thể lựa chọn trái phiếu thích hợp với yêu cầu của mình.
Tuy nhiên, hình thức huy động từ phát hành trái phiếu cũng có những hạn
chế nhất định. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp nắm chắc kỹ thuật tài chính
để tránh áp lực nợ đến hạn trả và vẫn có lợi nhuận, đặc biệt khi nền kinh tế suy
thoái, lạm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành cổ phiếu khá cao vì doanh
nghiệp cần trợ giúp của một (một số) ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải
tính toán thoả mãn điều kiện: Tài sản cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ
dài hạn của doanh nghiệp. Mặt khác, không phải mọi doanh nghiệp mà chỉ
những doanh nghiệp nào thoả mãn điều kiện theo luật định mới được phép phát
hành trái phiếu.
* Vay vốn từ ngân hàng thương mại:
15
Vay vốn từ ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới
hình thức ngắn hạn, trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng thương mại, đây là mối
quan hệ tín dụng giữa một bên cho vay và một bên đi vay.
Với hình thức vay vốn từ ngân hàng thương mại doanh nghiệp có thể huy
động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các ngân hàng cùng tham
gia thẩm định dự án nếu có cầu vay đầu tư lớn. Bên cạnh đó để có thể vay vốn
từ ngân hàng thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm
phán, chấp nhận các thủ tục ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn, doanh
nghiệp phải tính toán trả nợ ngân hàng theo đúng kế hoạch. Mặt khác, khi doanh
nghiệp vay vốn ở các ngân hàng thương mại có thể bị ngân hàng thương mại đòi
hỏi quyền kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian cho vay,
chẳng hạn;
- Ngân hàng cho vay có thể khống chế giá trị TSCĐ để tránh “ngâm vốn”,
tránh rủi ro;
- Doanh nghiệp sẽ không được vay thêm dài hạn nếu không có sự đồng ý
của ngân hàng cho vay;
- Doanh nghiệp không được đem thế chấp tài sản nếu không có sự đồng ý

của ngân hàng cho vay;
- Ngân hàng cho vay có áp đặt cơ chế kiểm soát chi phối hoạt động đầu tư
để phòng ngừa doanh nghiệp sử dụng vốn bừa bãi;
- Ngân hàng cho vay có thể đòi hỏi can thiệp vào sự thay đổi ban lãnh đạo
của doanh nghiệp;…
* Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp:
16
Trong hoạt động kinh doanh do đặc điểm quá trình cung ứng hàng hoá và
thanh toán không thể khi nào cũng phải diễn ra đồng thời nên tín dụng thương
mại tồn tại là một nhu cầu khách quan. Thực chất, luôn diễn ra đồng thời doanh
nghiệp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu số tiền
doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng lớn hơn số tiền doanh nghiệp bị
chiếm dụng thì số tiền dư ra sẽ mang bản chất tín dụng thương mại. Có các hình
thức tín dụng thương mại chủ yếu sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm.
Sẽ chỉ có hình thức tín dụng này nếu được ghi rõ trong hợp đồng mua bán về giá
cả, số lần trả và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các lần trả tiền. Như thế,
doanh nghiệp có máy móc thiết bị sử dụng ngay nhưng tiền chưa phải trả ngay,
số tiền chưa trả là số tiền mà doanh nghiệp chiếm dụng được của người cung
ứng.
Thứ hai, Vốn khách hàng ứng trước.
Trong quá trình kinh doanh, khi ký hợp đồng đặt hàng khách hàng thường
phải đặt cọc trước một số tiền nhất định, số tiền đặt cọc này doanh nghiệp được
sử dụng mặc dù chưa sản xuất và cung cấp sản phẩm (dịch vụ) cho khách hàng.
Tuỳ theo lượng mua hàng của khách hàng, thông thường doanh nghiệp tín dụng
từ hai nguồn:
- Vốn ứng trước của khách hàng lớn,
- Vốn ứng trước của người tiêu dùng.
* Tín dụng thuê mua (leasing):
Trong cơ chế kinh tế thị trường phương thức tín dụng thuê mua được thực

hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh
nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Sở dĩ hình thức thuê
mua diễn ra khá phổ biến vì nó đáp ứng được yêu cầu cơ bản của bên có cầu
(doanh nghiệp muốn thuê mua thiết bị) và bên đáp ứng cầu (doanh nghiệp thực
hiện chức năng thuê mua).
17
Hình thức tín dụng thuê mua có ưu điểm rất cơ bản là giúp doanh nghiệp
sử dụng vốn đúng mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc
thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua và chỉ ký hợp đồng thuê mua trong
khoảng thời gian thích hợp. Doanh nghiệp không chỉ nhận được máy móc thiết
bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết từ doanh
nghiệp thực hiện chức năng thuê mua. Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị
có thể tránh được những tổn thất do mua máy móc thiết bị không đúng được yêu
cầu hoặc hay do mua nhầm. Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị cần thiết
mà không phải đầu tư một lần với vốn lớn. Mặt khác, doanh nghiệp sử dụng
máy móc thiết bị có thể giảm được tỷ lệ nợ/vốn vì tránh phải vay ngân hàng
thương mại. Trong quá trình sử dụng máy móc, thiết bị doanh nghiệp sử dụng có
thể thoả thuận tái thuê với doanh nghiệp có chức năng thuê mua; tức là doanh
nghiệp sử dụng bán một phần tài sản thiết bị cho doanh nghiệp thuê mua rồi lại
thuê lại để tiếp tục sử dụng tài sản thiết bị đó. Với phương thức thuê mua doanh
nghiệp sử dụng có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cố định, nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình.
* Vốn liên doanh, liên kết:
Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một (một số)
doanh nghiệp khác nhằm tạo vốn cho một (một số) hoạt động (dự án) liên doanh
nào đó. Các bên liên doanh ký hợp đồng liên doanh với các hoạt động cụ thể về
phương thức hoạt động, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có giá trị trong một
khoảng thời gian nào đó. Khi hết hạn, hợp đồng liên doanh hết hiệu lực.
Với phương thức liên doanh, liên kết doanh nghiệp có một lượng vốn lớn
cần thiết cho một(một số) hoạt động nào đó mà không làm tăng nợ.Vì vậy, nhiều

nhà quản trị học cho rằng phương thức này có thể được coi là phương thức cung
ứng vốn nội bộ.Trong quá trình hoạt động, các bên liên doanh cùng chia sẻ rủi
ro.
18
Bên cạnh đó, phương thức liên doanh, liên kết cũng có những hạn chế nhất
định. Chẳng hạn, huy động vốn theo phương thức này tất sẽ dẫn đến các bên liên
doanh cùng tham gia kinh doanh và cùng chia sẻ lợi nhuận thu được.
* Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp (FDI):
Trong cơ chế kinh tế mở, từ khi có Luật đầu tư nước ngoài, các doanh
nghiệp trong nước còn có thể cung ứng vốn bằng phương thức các doanh nghiệp
(tổ chức kinh tế) nước ngoài đầu tư trực tiếp.
Với nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp doanh nghiệp không chỉ nhận
được vốn mà còn nhận được cả kỹ thuật – công nghệ cũng như phương thức
quản trị tiên tiến. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng được chia sẻ thị trường xuất
khẩu.
Tuy nhiên, huy động vốn bằng nguồn vốn nước ngoài đầu trực tiếp doanh
nghiệp sẽ chịu sự kiểm soát điều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) cấp
vốn. Mức độ kiểm soát điều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài
phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của họ. Mặt khác, mà một doanh nghiệp trong nước
vấp phải là doanh nghiệp khó tìm được đối tác nước ngoài thích hợp nhằm phát
huy ưu thế mỗi bên. Vấn đề duy trì mối quân hệ hợp tác trong khoảng thời gian
dài là bao nhiêu cũng là vấn đề các doanh nghiệp cần cân nhắc một cách thận
trọng.
* Nguồn vốn ODA:
Cuối cùng là phương thức cung ứng của doanh nghiệp bằng nguồn vốn
ODA. Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là
các chương trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ
chức quốc tế khác.
19
Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại

hoặc cho vay có diều kiện ưu đãi về lãi suất và thời gian thanh toán. Nếu doanh
nghiệp được vay từ nguồn vốn ODA có thể chịu mức lãi suất thường trong
khoảng 1%-1,5%/năm, phí ngân hàng thường là 0,2-0,3%/năm trong thời hạn có
thể từ 10-20 năm và có thể được gia hạn thêm.
Hình thức huy động vốn từ nguồn ODA có chi phí kinh doanh sử dụng
vốn thấp. Tuy nhiên, để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải chấp
nhận các điều kiện thủ tục rất chặt chẽ. Đồng thời, doanh nghiệp phải có trình độ
quản lý dự án đầu tư cũng như trình độ phối hợp làm việc với các cơ quan chính
phủ và chuyên gia nước ngoài.
III. HIỆU QUẢ SỦ DỤNG VỐN VÀ í NGHĨA CỦA Nể ĐỐI VỚI DN
1. Khỏi niệm hiệu quả sử dụng vốn:
Sự phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy muốn
phát triển một doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất
cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Tuy nhiên nếu nguồn tài nguyên
là vô hạn, người ta có thể sản xuất hàng hoá một cách không hạn chế, sử dụng
máy móc nguyên vật liệu bừa bãi… cũng chẳng sao. Song mọi tài nguyên như
đất đai, khoáng sản…lại là một phạm trù hữu hạn đòi hỏi ngày một nhiều và cao
hơn, điều này buộc các doanh nghiệp phải sử dụng một cách có kế hoạch các
nguồn lực của mình để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung
của sự phát triển kinh tế chiều sâu, thể hiện trình độ khai thác các nguồn lực và
trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu
kinh doanh.
Công thức tổng quát xác định hiệu quả kinh doanh:
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh doanh = 
20
Chi phí đầu vào
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu
phản ánh kết quả tổng hợp nhất quá trình sử dụng các loại vốn. Đó là sự tối thiểu

hoá vốn cần sử dụng và tối đa hoá kết quả hay khối lượng nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh trong một giới hạn nguồn nhân tài, vật lực, phù hợp với kinh tế hiệu quả nói
chung.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống chỉ tiêu về khả
năng hoạt động, khả năng sinh lời độ luân chuyển vốn… Nó phản ánh quan hệ
giữa đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo
tiền tệ. Công thức xác định là:
G
Hv = 
V
Trong đó:
Hv: hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
G : sản lượng sp hàng hoá tiêu thụ hoặc doanh thu bán hàng
V : vốn sản xuất bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Theo công thức trên, Hv càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn sản xuất
kinh doanh càng cao. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Phải khai thác nguồn lực một cách triệt để, nghĩa là không để nhàn rỗi không sinh
lời.
- Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm.
- Phải quản lý vốn một cách chặt chẽ, nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai
mục đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản lý.
2. Phương pháp phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong DN
21
* Phương pháp so sánh:
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh
được của chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính
chất và đơn vị tính toán…) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh.
Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian, kỳ phân tích được gọi là kỳ báo cáo
hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể đo bằng giá trị tuyệt đối hoặc số bình

quân. Nội dung so sánh gồm:
+ So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, đánh giá sự suy giảm hay sự giảm sút
trong hoạt động sản xuất kinh doanh để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới.
+ So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu
của doanh nghiệp.
+ So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số bình quân của ngành, của
các doanh nghiệp khác để đánh giá doanh nghiệp mình tốt hay xấu được hay
không được.
+ So sánh chiều dọc để xem xét tỷ trọng của trừng chỉ tiêu so với tổng thể,
so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến động cả về số tương đối
và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các liên độ kế toán liên tiếp.
* Phương pháp phân tích tỷ lệ:
Phương pháp này dựa trên chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính. Về
nguyên tắc phương pháp này yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các mức
để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh
các tỷ lệ doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu.
22
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp
được phân tích thành các nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo
mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ mục tiêu thanh toán,
nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả
năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều nhóm tỷ lệ riêng lẻ, từng bộ
phận của hoạt động tài chính. Trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo góc độ
phân tích, người phân tích lựa chọn các mục tiêu khác nhau. Để phục vụ cho
mục tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta phải tính
đến hao mòn vô hình do sự phát triển không những của tiến bộ khoa học kỹ
thuật…
3. í nghĩa của hiệu quả sử dụng vốn
Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần

phải có ba yếu cơ bản là vốn, lao động và kỹ thuật- công nghệ. Cả ba yếu tố này
đều đóng vai trò quan trọng, song vốn là điều kiện tiên quyết không thể thiếu.
Bởi vì hiện nay, đang có một nguồn lao động dồi dào, việc thiếu lao động chỉ
xảy ra ở các ngành nghề cần đòi hỏi chuyên môn cao, nhưng vấn đề này có thể
khắc phục được trong một thời gian ngắn nếu chúng ta có tiền để đào tạo hay
đào tạo lại. Vấn đề là công nghệ cũng không gặp khó khăn phức tạp vì chúng ta
có thể nhập chúng cùng kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới, nếu chúng ta
có khả năng về vốn, ngoại tệ hoặc có thể tạo ra nguồn vốn, ngoại tệ. Như vậy,
yếu tố cơ bản của doanh nghiệp nước ta hiện nay là vốn và quản lý sử dụng vốn
có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
23
Như chúng ta đã biết hoạt động kinh doanh là hoạt động kiếm lời, lợi
nhuận là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để
đạt được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ
sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý và sử dụng vốn là một bộ phận quan
trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh
nghiệp phải có một chế độ bảo toàn vốn trước hết từ đổi mới cơ chế quản lý tài
chính đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trước đây trong cơ chế kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp coi nguồn vốn từ ngân sách Nhà
Nước cấp cho nên doanh nghiệp sử dụng không quan tâm đến hiệu quả, kinh
doanh thua lỗ đã có Nhà Nước bù đắp, điều này gây ra tình trạng vô chủ trong
quản lý và sử dụng vốn dẫn tới lãng phí vốn, hiệu quả kinh tế thấp. Từ khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động
theo phương thức hạch toán kinh doanh. Nhà Nước không tiếp tục bao cấp về
vốn cho doanh nghiệp như trước đây. Để duy trì và phát triển sản xuất kinh
doanh cho doanh nghiệp phải bảo toàn, giữ gìn số vốn Nhà Nước giao, tức là
kinh doanh ít nhất cũng phải hoà vốn, bù đắp được số vốn đã bỏ ra để tái sản
xuất giản đơn. Đồng thời doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi để tích luỹ bổ
sung vốn, là đòi hỏi với tất cả các doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh

nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường doanh nghiệp luôn đề cao tính an toàn
tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn giúp cho doanh nghiệp nâng cao
khả năng huy động các nguồn vốn tài trợ dễ dàng hơn, khả năng thanh toán của
doanh nghiệp được bảo toàn, doanh nghiệp có đủ nguồn lực để khắc phục những
khó khăn và rủi ro trong kinh doanh.
24
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng
cạnh tranh. Đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,
đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm…doanh nghiệp phải có vốn trong khi đó vốn của
doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được mục
tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp
như nâng cao uy tín của sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người
lao động… vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có
thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và
mức sống của người lao động ngày càng cải thiện. Điều đó giúp cho năng xuất
lao động ngày càng được nâng cao, tạo cho sự phát triển của doanh nghiệp và
các ngành khác có liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp
cho Nhà Nước.
Thông thường các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động
được xác định bằng cách so sánh giữa kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất
kinh doanh như doanh thu, lợi nhuận … với số vốn cố định, vốn lưu động để đạt
được kết quả đó. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cao nhất khi bỏ vốn vào kinh
doanh ít nhưng thu được kết quả cao nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là
đi tìm biện pháp làm cho chi phí về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ít
nhất mà đem lại kết quả cuối cùng cao nhất.
Từ công thức: Lợi nhuận = Doanh thu – chi phí

25

×