Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Các địa điểm tham quan du lịch tại Đà Lạt(phần I): pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.19 KB, 7 trang )

Các địa điểm tham quan du lịch tại Đà Lạt(phần I):
Chợ Đà Lạt:
Năm 1929, một ngôi chợ bằng cây, lợp tôn gọi là “Chợ
cây” được dựng lên tại vị trí Rạp chiếu bóng 3 tháng 4 ở Khu Hòa Bình
hiện nay.
Năm 1937, sau một trận hỏa hoạn lớn, Công ty SIDEC xây dựng một
ngôi chợ mới bằng gạch để thay thế “Chợ cây”.
Năm 1958, chợ Đà Lạt hiện nay được khởi công xây dựng trên một vùng
đất sình lầy trồng xà-lách-son (cresson), do kiến trúc sư Nguyễn Duy Đức
thiết kế, nhà thầu Nguyễn Linh Chiểu thi công, hoàn thành vào năm 1960.
Về sau, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ tham gia chỉnh trang chợ Đà Lạt.
Ngày 3.4.1993, khởi công xây dựng khối B chợ Đà Lạt do kiến trúc sư Lê
Văn Rọt và Trần Hùng thiết kế. Công trình do Uỷ ban nhân dân thành
phố Đà Lạt và Ngân hàng Việt Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh hợp tác
đầu tư.
Chợ Đà Lạt có 3 tầng, là một trong những chợ lầu đầu tiên ở Việt Nam.
Chùa Linh Phong:
Chùa Sư nữ Linh Phong cách thành phố Đà
Lạt khoảng 4km về hướng Đông Nam (Trại Hầm). Chùa được xây dựng
trên một đỉnh núi nhỏ cao vút ẩn hiện giữa ngàn thông vi vu lộng gió.
Khởi đầu, năm 1944, chùa là một niệm Phật đường mái tôle vách ván đơn
sơ, cheo leo trên chóp núi, do Hòa thượng Thích Bích Nguyên chủ trì.
Năm 1948 đến 1962, Sư bà Thích Nữ Từ Hương trùng tu và xây dựng
nên Linh Phong Ni Tự, một ngôi chùa trang nghiêm, tráng lệ như ngày
nay Cổng Tam quan được xây dựng bằng đá xanh, tạo nên nét uy nghi
cho ngôi tịnh đường theo triết lý Tam quán "Không, Giả, Trung". Chùa
(16x25m) chia làm 5 gian kiến trúc theo kiểu những đình làng ở miền
Trung. Mái kép cong được trang trí bằng tứ linh (long, lân, qui, phụng)
uốn lượn giữa gió núi mây ngàn.
Chánh điện thờ Đức Phật A Di Đà cao 1,8m. Ở hai bên, phần trước thờ
tượng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đức Đại Thế Chí Bồ Tát bằng đồng bóng


loáng, phần sau thờ Tổ và Linh. Phía sau chùa, trên đồi có một ngôi tháp
nhỏ cao 3 tầng, hình lục giác sẽ là nơi an nghỉ khi Sư bà viên tịch.
Đến viếng chùa Linh Phong, du khách sẽ gặp Sư bà Từ Hương, một Ni
trưởng cao niên, tuổi ngoại thất tuần, dáng người tao nhã. Ta vẫn có thể
hình dung được một người con gái nhan sắc năm xưa, tuổi vừa đôi mươi
đã rời bỏ một gia đình thượng lưu giàu có để xuất gia đầu Phật, lãng quên
việc đời, tu hành chánh quả.
Chùa Linh Sơn:
Cách Hòa Bình hơn 700m về hướng Tây
Bắc, chùa Linh Sơn được xây dựng trên một ngọn đồi rộng khoảng 4ha
trồng trà, cà phê, bạch đàn, thông, tùng, trắc bách diệp, mai anh đào
Cảnh chùa trang nghiêm, cổ kính. Phía trước sân chùa là bãi cỏ xanh với
những luống hoa, tảng đá lớn, cụm sơn giả giữa các hồ nước nhỏ.
Hai bên bậc cấp dẫn vào chánh điện là hai con rồng uốn khúc. Ở giữa
điện Phật thờ tượng Phật Thích Ca bằng đồng nặng 1.250 kg đúc năm
1952. Bên phải tiền đường là tháp hình bát giác có vẻ đẹp kiến trúc
phương Đông.Chùa được xây dựng từ năm 1936, hoàn thành năm 1940.
Dinh I:
Dinh I nguyên là sở chăn nuôi của một người
Pháp tên là Bourgery. Bảo Đại mua lại và sửa chữa thành nơi làm việc
của các quan chức Hoàng triều cương thổ. Về sau, Ngô Đình Diệm dùng
làm nơi nghỉ dưỡng.
Dinh I có một đường hầm bí mật do lính Nhật đào và một sân bay dành
cho máy bay lên thẳng xây dựng dưới thời Ngô Đình Diệm.
Dinh ở cuối đường Trần Quang Diệu trong một khu yên tĩnh.
Dinh II:
Dinh II nằm trên một đồi thông có độ cao
1.539m, ở góc đường Trần Hưng Đạo và Khởi nghĩa Bắc Sơn.
Dinh được xây dựng từ năm 1933 đến năm 1937 do các kiến trúc sư A.
Léonard, P. Veysseyre, A. Kruze thiết kế và P. Foinet trang trí nội thất.

Từ năm 1942, Toàn quyền Decoux đã làm việc tại đây từ tháng 5 đến
tháng 10, do đó dinh được gọi là “Dinh thự mùa hè” hay “Dinh Toàn
quyền”.
Hiện nay, dinh II được sử dụng làm nhà khách của Văn phòng UBND
tỉnh Lâm Đồng.

Dinh III:
Dinh III là tên gọi để chỉ biệt thự nghỉ hè của
vua Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn đồng thời cũng là
vị hoàng đế cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam. Sau này
khi người Pháp đưa Bảo Đại trở lại nắm quyền từ năm 1948 rồi thành lập
“Hoàng triều Cương Thổ” vào năm 1950, nơi đây còn được gọi là Biệt
điện Quốc trưởng. Được xây dựng từ năm 1933 gồm 25 phòng, Dinh 3 là
một tòa dinh thự vô cùng trang nhã, gắn mình trong khung cảnh thơ mộng
của một đồi thông ở độ cao 1539m trên đường Triệu Việt Vương, cách
trung tâm Đà Lạt chừng 2km về hướng Tây-Nam.
Do một may mắn của lịch sử, Biệt điện Quốc trưởng còn được bảo tồn
gần như nguyên trạng khiến cho du khách đến đây có thể cảm nhận một
bầu không khí vừa trang nghiêm lại vừa gần gũi, ấm cúng của một gia
đình hoàng tộc căn phòng làm việc của vua Bảo Đại với những ấn tín
quân sự, ngọc tỷ của Hoàng đế, quốc thư, quốc kỳ các nước có quan hệ
ngoại giao, tượng bản thân của vua Bảo Đại và vua cha Khải Định, phòng
của hoàng hậu Nam Phương, hoàng tử Bửu Long. Phương Mai công
chúa, hình ảnh gia đình và những vật dụng thường ngày… tất cả đều như
mới hôm qua một chút gì đó se sắt chạnh lòng gợi nhớ một thuở vàng son
nay đã không còn !
Hồ Xuân Hương:
Là hồ đẹp nhất nằm ở trung tâm thành phố Ðà
Lạt. Ðây là hồ lớn ở Ðà Lạt, chu vi 5.000m rộng khoảng 8 ha. Hồ Xuân
Hương có hình mảnh trăng lưỡi liềm, là nơi thơ mộng, cuốn hút khách

nhàn du, cũng là nơi hò hẹn của những đôi bạn tâm tình. Mặt hồ phẳng
lặng như tấm kính pha lê, soi bóng những hàng thông reo hát suốt ngày
đêm. Những con đường quanh hồ rợp bóng cây tùng, tạo thêm vẻ thơ
mộng cho hồ.
Khi xưa hồ chỉ là con suối chảy giữa thung lũng, từ đó mà phát sinh tên
gọi Đà Lạt (dòng suối của người Lạch). Đập đá ngăn suối tạo hồ mang
tên Cầu Ông Đạo (Quản Đạo Phạm Khắc Hòe). Còn tên Xuân Hương là
do ông Nguyễn Vỹ, Chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt vào năm 1953 đổi từ
tên Grand Lac do người Pháp đặt trước kia. Ven hồ là bờ cỏ xanh mướt
điểm những cây thông, tùng, anh đào, liễu rủ xinh đẹp tạo thành một
khung cảnh thơ mộng cho những cuộc hẹn hò.
Chiều tàn hay đêm đến, du khách có thể tản bộ hay lọc cọc xe ngựa quanh
hồ để lâng lâng cùng chút se se lạnh cao nguyên hoặc ngồi nhâm nhi ly
rượu, tách cà phê ở các nhà hàng Thủy Tạ, thanh Thủy ven hồ và thả hồn
lăn tăn cùng mặt nước Xuân Hương. Ngoài ra du khách còn có thể đạp
pedalo, đi xuồng máy hay chèo thuyền cao su trên hồ.
Hồ Tuyền Lâm:
Từ một thung lũng hoang vu ở độ cao hơn
1.000m so với mặt biển bị bao bọc bởi bốn bề rừng núi và dòng suối tía
huyền thoại bắt nguồn từ những ngọn núi cao ngất và đại ngàn hùng vĩ ở
nam Tây Nguyên; cuối những năm 80, những người thợ xây dựng Bộ
Thủy lợi đã tạo nên hồ Tuyền Lâm, với diện tích 365 ha, chỗ sâu nhất
36m, cung cấp nước tưới cho hơn 1.400 ha hoa màu, lúa và cây công
nghiệp ở các xã tây bắc huyện Ðức Trọng.
Ðiều kỳ thú ở hồ Tuyền Lâm là dù mùa khô, đằng đẵng suốt sáu tháng
trời không một hạt mưa, hồ vẫn đầy ắp nước. Mặt hồ quanh năm xanh
biếc, kể cả những ngày mưa, nhận nước tuôn như thác từ các dòng suối
và khe núi. Mặt hồ ngày đêm lăn tăn gợn sóng lung linh, soi bóng những
hàng cây xanh ngắt ven hồ, hiếm khi có sóng lớn. Quanh hồ, những rừng
thông ba lá tự nhiên và mới trồng phủ kín những ngọn núi, quả đồi, trải

ngút ngàn tầm mắt. Tất cả cùng hòa quyện, vẽ nên bức tranh thiên nhiên
yên tĩnh, thanh bình và thơ mộng lạ kỳ.
Ðến giữa những năm 90, hồ Tuyền Lâm rộng gần mười lần hồ Xuân
Hương, lọt giữa rừng thông mênh mông và chỉ cách trung tâm Ðà Lạt
6km trở thành tâm điểm chú ý của du khách. Cũng có người dành hẳn
một khoảng thời gian du ngoạn trên mặt hồ để tận hưởng không khí trong
lành, mát mẻ và sự tĩnh lặng quý báu. Ðiều này khơi dậy tiềm năng mới
của hồ Tuyền Lâm, đó là du lịch sinh thái. Sơ khai là những cá nhân tự
đóng tàu cho khách thuê và chở khách tham quan mặt hồ, rừng thông và
thác Bảo Ðại.
Không lâu sau, cuối hồ xuất hiện các khu dã ngoại Nam Qua và Ðá Tiên
của Công ty trách nhiệm hữu hạn du lịch Phương Nam, mở đầu cho việc
khai thác du lịch sinh thái và văn hóa một cách có tổ chức. Du lịch trên
mặt hồ ngày càng mở ra rộng hơn; hướng tới nét đặc sắc của nền văn hóa
các dân tộc thiểu số nam Tây Nguyên. Khách có thể thưởng thức thịt
nướng, cơm lam, rượu cần, đốt lửa trại, tham gia lễ hội cồng chiêng,
ngắm nhìn những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ, thư giãn trên những
ngôi nhà sàn, nhà dài lộng gió, bắn cung tên và thám hiểm rừng sâu.
Khách đến Tuyền Lâm đông dần và hình ảnh từng đoàn du khách dã
ngoại trên hồ và các khu du lịch kề liền đã trở nên phổ biến. Năm 1998,
Khu du lịch hồ Tuyền Lâm chính thức thành lập và cũng thời gian này,
Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận hồ Tuyền Lâm là di tích lịch sử - văn
hóa quốc gia.
Vào xuân, hồ Tuyền Lâm, lấp lánh mầu xanh ngọc bích, khắc họa thêm
nét thơ mộng, lãng mạn của Ðà Lạt vốn đã xinh đẹp. Ðây là danh thắng
của Tây Nguyên nằm trong 20 khu du lịch trọng điểm ở Việt Nam.
Thiền Viện Trúc Lâm:
Nằm trong khu vực khu du lịch Hồ Tuyền
Lâm, du khách đến Thiền Viện Trúc Lâm sẽ được chiêm ngưỡng một
kiến trúc Tôn giáo được tọa lạc trên một đỉnh đồi.

Từ Thiền Viện Trúc Lâm, có thể nhìn thấy toàn cảnh hồ Tuyền Lâm. Tại
đây, quý khách có thể cúng bái, vãng cảnh chùa hoặc nghiên cứu về các
truyền thuyết tôn giáo từ thời Vua Trần Nhân Tông.
Có các điểm buôn bán quà lưu niệm, các đặc sản của Đà Lạt
Hồ Than Thở:
Xưa chỉ là một hồ nhỏ, về sau người Pháp cho
ngăn đập nước tạo thành hồ và đặt tên la Las des Suopirs. Sau đó, năm
1956 lại trở về với tên cũ Than Thở.
Hồ cách trung tâm thành phố 6km về phía đông, trên đường đi Thái Phiên
hoặc Chi Lăng. Hồ nằm trên đồi ao giữa một vùng rừng thông tĩnh mịch.
Trước đây hồ cung cấp nước cho thành phố. Cảnh vật quanh hồ thật im
vắng, mặt hồ trầm ngâm phẳng lặng. Con đường đất nhỏ hẹp quanh hồ
mất hút xa xa.
Gió lên, thông reo, lời ru khi êm ái, khi như nức nở khóc than. Quanh hồ
có bao nhiêu truyền thuyết, tình sử…Hồ Than Thở là một trong những
thắng cảnh nổi tiếng ở Đà Lạt do tên gọi khá hấp dẫn và cảnh quan quanh
hồ. Sau một thời kỳ khu rừng thông quanh hồ bị đào bới để khai thác
thiếc, hồ Than Thở được Công ty trách nhiệm hữu hạn Thùy Dương
chỉnh trang lại để thu hút du khách. Đến đây, du khách dạo chơi dưới
rừng thông, cưỡi ngựa, đi trên chiếc cầu gỗ, chụp ảnh

×