Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bệnh lúa von và cách phòng trừ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.18 KB, 6 trang )

Bệnh lúa von và cách
phòng trừ
Bệnh lúa von, tên tiếng Anh và Nhật gọi là Bakanae do nấm
Gibberella gây ra đã xuất hiện nhiều trong vụ Đông Xuân 2006-2007 trên
nhiều nơi ở ĐBSCL, đặc biệt là thành phố Cần Thơ, trong đó nặng nhất là
các quận, huyện Ô Môn, Cờ Đỏ và Thốt Nốt với tỷ lệ ruộng bị nhiễm
khỏang 20%. Sự xâm nhiễm của bệnh thường xẩy ra trong các giai đoạn đâm
chồi và hình thành hạt. Theo tài liệu của IRRI, sự thất thoát do bệnh có thể
lên đến 20% trong trường hợp bùng phát dịch. Ví dụ ở Nhật đã quan sát sự
thất thoát từ 20 – 50% . Ở Ấn Độ là 15% và Thailand là 3,7% đã được ghi
nhận từ lâu.
Bài này nhằm giúp cho bà con nông dân và cán bộ khuyến nông hiểu
rõ về triệu chứng, tác nhân gây bệnh, điều kiện gây bệnh và cách phòng trị
bệnh lúa von.

Triệu chứng
- Cây lúa bị bệnh phát triển không bình thường. Biểu hiện qua việc
vươn lóng của cây lúa trong nương mạ hoặc đồng ruộng. Cây bị ốm yếu với
các lá có màu vàng hơi xanh.
- Cây bị bệnh giảm số chồi và lá bị khô nếu bị nhiễm muộn, còn nếu
nhiễm vào giai đoạn trước khi đâm chồi cây mạ bị chết khô.
- Trong trường hợp sống sót, cây lúa cho bông với toàn hạt lép, hoặc
lững thời kỳ chín. Do đó gây thất thoát cho người nông dân.
- Trường hợp trong giai đoạn mạ, cây bị bệnh làm tổn thương trên rễ
sẽ chết trước hoặc sau khi cấy.
Xác định triệu chứng
Những vấn đề sau đây giúp xác dịnh bệnh lúa von nhằm phân biệt với
các triệu chứng bệnh khác.
- Cuống bào tử đỉnh có dạng bột trắng có thể nhìn thấy ở gốc hoặc
phần dưới của các cây bệnh.
- Không phải tất cả cây mạ bị nhiễm biểu thị cùng triệu chứng nói


trên, thỉnh thoảng chúng biểu hiện còi cọc hoặc khó phát hiện.
- Trong điều kiện kính hiển vi nhìn nổi (hoặc dưới dạng ống nhòm)
các hạt bị nhiễm bệnh từ mức độ vừa phải cho đến nặng trên một giấy thấm
sẽ cho chỉ thị những thể sợi nấm phủ long tơ mịn, trắng, thường bao phủ
toàn bộ hạt. Về sau phát triền thành dạng bột do bởi sự hình thành bào tử
đính.
- Thường các bệnh khác không có các triệu chứng tương tự như bệnh
lúa von hay bệnh bakanae trên lúa.
Yếu tố ảnh hưởng sự phát triển của bệnh
Bệnh lúa von chủ yếu là bệnh từ hạt giống và nấm bệnh tồn tại trong
điều kiện bất thuận trên hạt bị nhiễm và trên các phần của cây lúa bị bệnh.
Các hạt giống không nẩy mầm trong đất bị nhiễm mầm bệnh tạo điều kiện
nhiễm trên cây mạ khỏe. Nhiệt độ đất khoảng 35 độ C thích hợp nhất cho sự
nhiễm bệnh.
Chú ý các điều kiện thích hợp cho bệnh lúa von phát triển sau đây:
- Có sự hiện diện của hạt giống bị nhiễm bệnh từ vụ trước (xem vòng
đời của bệnh).
- Có thể do nguồn nấm bệnh trong đất.
- Bón phân đạm quá cao tạo điều kiện thích hợp cho bệnh phát triển.
- Nhiệt độ thích hợp cho bệnh từ 30 đến 35 độ C.
- Do gió hoặc nước mang các bào tử nấm bệnh từ cây bị bệnh sang
các cây khác.
- Bệnh lúa von thường xuất hiện tại các giai đoạn đâm chồi và hình
thành hạt của cây lúa.
Tác nhân gây bệnh
- Mầm bệnh sản sinh nang bào tử được hình thành trong một túi gọi là
túi nang. Nang chứa trong các thể quả gọi là thể quả túi hay thể quả bào tử
mà được xem như là các thể quả dạng chai. Các thể quả dạng chai này có
màu xanh tối và đo được từ 250-330 x 220-280 µm. Chúng có hình cầu hay
bầu dục và hơi xù xì ờ bên ngoài. Nang có hình trụ, dạng pít-tông, phía trên

dẹp và kích thước từ 90-102 x 7-9 µm. Nang chứa từ 4 – 6 bào tử, có khi 8.
Các bào từ thường có một vách ngăn và kích thước khoảng 15 x 5,2 µm,
thỉnh thoảng lớn hơn từ 27 - 45 x 6 - 7 µm.
- Sự biến thái dần dần hình thành kích thích tố gibberelin và acid
fusaric. Các nghiên cứu sinh vật học về hai chất này cho thấy rằng acid
fusaric gây nên sự còi cọc và kích thích tố gibberrelin gây nên sự vươn lóng.
- Sợi nấm phân cành và chia thành ngăn. Nấm bệnh có cả hai loại
cuống bào tử đính nhỏ và lớn.
- Ở Nhật, các nhà khoa học đã phát hiện bệnh lúa von trong nhiều loại
cỏ họ hòa bản (chẳng hạn Panicum miliaceum L.), trên lúa mạch, bắp, lúa
miến và mía đường. Các loài ký chủ phụ của nấm bệnh bao gồm cà chua,
chuối, đậu đũa.v.v
Nguyên lý phòng ngừa bệnh
- Sử dụng giống sạch mầm bệnh để giảm thiểu lây lan,
- Dùng nước muối nồng độ 15% vừa có tác dụng xử lý nấm bệnh, vừa
để phân tách những hạt nhẹ, hạt bị nhiễm bệnh từ hạt giống, từ đó giảm
nguồn bệnh từ hạt.
- Sử dụng các loại thuốc trừ nấm như thiram, thiophanate-methyl,
hoặc benomyl rất hiệu quả để xử lý hạt trước khi ngâm ủ theo liều lượng
khuyến cáo.
- Benomyl hoặc benomyl-t từ 1 – 2% so với trọng lượng hạt cho việc
trộn xử lý hạt giống khô phòng ngừa bệnh lúa von. Tuy nhiên, nhiều nghiên
cứu cho rằng sự phát triển tính kháng nhanh chóng của nấm bệnh đối với
benomyl và carbendazim có thể do áp dụng xử lý liên tục.
- Để ứng phó có hiệu quả, dùng các loại thuốc triflumizole,
propiconazole và prochloraz đã được khuyến cáo cho việc phòng trừ các nòi
nấm bệnh lúa von mà đã phát triển tính kháng đối với thuốc benomyl và sự
kết hợp hai loại thuốc thiram and benomyl.


×