Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.78 KB, 50 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TÁC ĐỘNG CỦA
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Nhóm 08: Nguyễn Ngọc Long
Nguyễn Thị Thanh Thúy
Dương Thị Mến
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Kim Ngọc
Hà Nội, tháng 12 năm 2013
MỤC LỤC
BẢNG CHÚ GIẢI NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
1 AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN
2 CACM Central American Common
Market
Thị trường chung Trung Mỹ
3 CARICOM Caribe Community Cộng đồng Caribê
4 EEC European Economic
Community
Cộng đồng Kinh tế châu Âu
5 EU European Union Liên minh châu Âu
6 EFTA Eroupean Free Trade
Assocition
Hiệp hội Mậu dịch tự do châu
Âu
7 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
8 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm Quốc nội
9 IMF International Monetary
Fund


Quỹ tiền tệ quốc tế
10 NAFTA North America Free Trade
Agreement
Hiệp định Thương mại tự do
Bắc Hoa Kỳ
11 NIEs Newly Industrialized
Economies
Các nền kinh tế mới công
nghiệp hoá
12 SEV Council of Mutual
Economic Assistance
Hội đồng Tương trợ kinh tế
13 WB World Bank Ngân hàng thế giới
14 WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT Số hiệu Tên hình Trang
1 2.1
Xuất khẩu trong khối NAFTA và xuất khẩu của
NAFTA với thế giới
18
2 2.2
Xuất khẩu của Mexico sang Hoa Kỳ, Canađa và các
nước khác
19
3 2.3
Xuất khẩu của Mexico sang các nước trong vòng 20
năm kể từ khi gia nhập NAFTA
19
4 2.4
Cán cân thương mại của Mexico trong vòng 20 năm

kể từ khi gia nhập NAFTA
20
5 2.5 Tổng mức FDI của các nước trên thế giới 21
6 3.1
Tổng mức lưu chuyển ngoại thương Việt Nam theo
thời kỳ 5 năm từ 1986-2005
36
7 3.2
Tổng mức lưu chuyển ngoại thương Việt Nam từng
năm từ 2005-2012
36
8 3.3 Tốc độ tăng GDP của Việt Nam từ 1986-2013 40
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Số hiệu Tên bảng Trang
1 3.1
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép thời
kỳ 1989 - 2012
38
LỜI MỞ ĐẦU
Những ngày tháng 12 năm 2013 này, trong khi tại Xinh-ga-po (Singapore)
hội nghị các bộ trưởng và trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến
lược xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là TPP) vừa bế mạc nhưng chưa đi đến chung
kết và vẫn còn để lại nhiều điểm chưa đồng thuận và nhiều việc phải làm; thì ở
trong nước, chính quyền và người dân đang thực hiện tổng kết kết quả sản xuất kinh
doanh đạt được và chưa làm được trong năm, cũng như việc đảm bảo hàng hoá tiêu
dùng dịp Tết Nguyên đán Giáp Ngọ và chuẩn bị kế hoạch kinh doanh năm tới 2014.
Tạm biệt năm 2013 và chào đón năm mới với nhiều mong ước tốt đẹp nhưng đất
nước ta vẫn đang đứng trước thử thách tụt hậu nói chung và suy thoái kinh tế nói
riêng, một cách nghiêm trọng. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, được nhắc đến nhiều
nhất là tái cơ cấu ngành ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước vẫn đang diễn ra và

chắc còn lâu nữa mới đến hồi kết thúc…
Trong hoàn cảnh đó, chúng tôi bắt tay vào việc nghiên cứu chuyên đề khoa
học “Tác động của Hội nhập kinh tế quốc tế”, một nội dung nằm trong môn học
Toàn cầu hoá và Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, vốn đã được nghiên cứu
và giảng dạy tại các trường đại học ở Việt Nam từ hơn 10 năm trước đến nay.
Việc nghiên cứu dựa trên một nền móng cơ sở lý luận đã có và tương đối đầy
đủ, với sự hướng dẫn của một người thầy giỏi chuyên môn và phương pháp là
chuyên gia cao cấp về kinh tế quốc tế, không thể nào thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, nếu thực sự nghiên cứu một cách nghiêm túc trên tinh thần tư duy
độc lập, đòi hỏi tính sáng tạo và khám phá cái mới, để đạt được kết quả cao trong
khoa học đòi hỏi nhiều công sức của người làm nghiên cứu.
Lý luận đã có, đọc, nghiền ngẫm và suy xét lại. Tư liệu cuộc sống nhiều năm
qua của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thật là bổ ích cho công việc tổng
hợp lại chuyên đề khoa học này.
Nằm trong một loạt chuyên đề khoa học của môn học Toàn cầu hoá và Hội
1
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, theo lịch trình nghiên cứu, trình bày, nhận xét
và phản biện; Nhóm 08 chúng tôi gồm ba thành viên: Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn
Thị Thanh Thuý và Dương Thị Mến, tiếp thu được những kiến thức cơ bản, những
điểm mới, các điểm được đánh giá cao và cả các điểm hạn chế của các nhóm thực
hiện chuyên đề trước đó, để xây dựng cho mình phương hướng và phương pháp
nghiên cứu, cách thức trình bày chuyên đề, cũng như quan trọng hơn cả là kết quả
có được ở những phát hiện mới, thể hiện được quan điểm mới trong chuyên đề.
1. Sự cần thiết của chuyên đề
Hội nhập kinh tế quốc tế nằm trong một xu thế lớn của thế giới và là một xu
thế chung lôi cuốn sự tham gia của tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ sau khi
thực hiện đường lối đổi mới (1986) đến nay, Việt Nam ta đã và đang nắm bắt tốt
các cơ hội mở cửa và hội nhập để vươn lên thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu. Đứng
trước thách thức của toàn cầu hoá làm biến chuyển đất nước cả về kinh tế và chính
trị, bài toán đặt ra là phải hội nhập như thế nào để phát triển kinh tế bền vững trong

khi vẫn đảm bảo độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững hoà bình và ổn
định… Vì thế chuyên đề khoa học này vẫn luôn có ý nghĩa thời sự và học thuật
trong khuôn khổ toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chuyên đề khoa học này có mục đích làm sáng rõ việc tại sao một nước
trong đó có Việt Nam lại phải hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế như
thế nào, hội nhập kinh tế quốc tế có vai trò và tác động đến mọi mặt đời sống đặc
biệt là đời sống kinh tế ra làm sao, chúng ta nên, cần và phải làm gì khi hội nhập
kinh tế quốc tế.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu chuyên đề này là phải khái quát được về mặt
lý thuyết các vấn đề chung của hội nhập kinh tế quốc tế từ trước đến nay, thu thập
được kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của các nước, nhất là từ các nước tương
đồng, tương đương với nước ta, và từ các nước mà chúng ta đang hướng đến để đạt
được thành tựu như họ. Cùng với đó phân tích và đánh giá thực trạng nền kinh tế
2
nước ta từ trước đến nay gắn với tình hình và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ
đó đề xuất các giải pháp và/hoặc đưa ra được các nhận định về xu thế, và/hoặc dự
báo, dự đoán về triển vọng hội nhập kinh tế của nước ta trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề khoa học này sẽ chỉ tập trung nghiên cứu về vai trò (tác động) đối
với các hoạt động kinh tế của việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong quá
trình toàn cầu hoá. Việc không nghiên cứu sâu về lịch sử và quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, chỉ xét về hội nhập kinh tế trong hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, và chỉ
đề cập sâu đến những tác động kinh tế mà không xem xét nhiều những tác động về
chính trị, văn hoá, khoa học công nghệ… là sự giới hạn cần thiết trong phạm vi của
một chuyên đề khoa học nhỏ với thời lượng học tập và nghiên cứu có hạn, để mong
đạt được kết quả có tính sâu sắc hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu,
chuyên đề khoa học đòi hỏi nhóm thực hiện phải luôn dựa trên cơ sở thế giới quan

duy vật và phương pháp luận biện chứng và lịch sử; độc lập nhìn nhận, phân tích,
tổng hợp và đánh giá các sự kiện, xu hướng trong mối liên hệ tương tác về lợi ích
kinh tế, chính trị là chủ yếu (tạm thời chưa thể xem xét lợi ích phi kinh tế, phi chính
trị như là văn hoá, truyền thống,…). Thêm nữa, phương pháp thống kê học và dự
báo kinh tế cũng được áp dụng một cách phù hợp khi cần thiết.
5. Dự kiến đóng góp của chuyên đề
Chuyên đề được thực hiện với mong muốn tiếp tục hệ thống hoá được những
vấn đề lý luận và thực tiễn về hội nhập kinh tế quốc tế, kỳ vọng đưa ra được cách
nhìn nhận mới và phù hợp hơn về quan điểm và cách thức hội nhập kinh tế, mạnh
dạn phân tích và làm rõ được thực trạng tác động của hội nhập kinh tế ở Việt Nam,
nhận định xu thế và đưa ra được các dự đoán, dự báo về những biến chuyển kinh tế
và chính trị của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ trước đến nay và
trong tương lai.
3
6. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, nội dung chính của chuyên đề được thể hiện
trong kết cấu gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Một số lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chương 2: Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chương 3: Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam giai đoạn từ
1986 đến nay, những thành tựu đạt được và hạn chế, định hướng trong
thời gian tới.
4
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Toàn cầu hoá và Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Toàn cầu hoá
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v trên quy mô toàn
cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác

động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại"
nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô
toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn
hoá.
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15, sau
khi có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu
tiên vòng quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như
việc xuất hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu
Phi và châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng
hoá vật chất, một số giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng
khí hậu khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá).
Do có hai khía cạnh kỹ thuật và chính trị, "toàn cầu hoá" sẽ có nhiều lịch sử
khác nhau. Thông thường trong phạm vi của môn kinh tế học và kinh tế chính trị
học, toàn cầu hoá chỉ là lịch sử của việc trao đổi thương mại không ngừng giữa các
nước dựa trên những cơ sở ổn định cho phép các cá nhân và công ty trao đổi hàng
hoá với nhau một cách trơn tru nhất.
1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ
khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham
gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác.
5
Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội
nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập
kinh tế quốc tế.Có một thực tiễn đáng lưu ý là trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế
quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết
kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được
sử dụng để chỉ cùng một khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic
integration”. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và
lịch sử khác nhau. Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu
trong bối cảnh hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng

Tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970-1980.
Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói về hiện
tượng phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các nước
không phải là xã hội chủ nghĩa trong những thập niên sau Chiến tranh thế giới II,
đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như Cộng đồng Kinh tế
châu Âu (EEC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu
(EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribê và Thị trường
chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), v.v Trong thực
tiễn sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật ngữ “liên kết quốc tế” và “hội nhập
quốc tế” có thể thay thế nhau và hầu như không có sự khác biệt về ý nghĩa.
Hội nhập kinh tế quốc tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến
trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội
nhập kinh tế quốc tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế quốc tế
với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm
chiếm thế giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng
hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ
cho toàn bộ các nơi.
Hội nhập kinh tế quốc tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết
mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla
6
Balassa đề xuất từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật
và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động thực
hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị
trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do
hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế
kinh tế khu vực và toàn cầu.
Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tế, hội nhập kinh tế quốc
tế thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu
vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh
kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp độ hội nhập

có thể nhiều hơn và đa dạng hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế,
hoặc khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy
mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại thế giới đang hướng
tới.
2.1. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
2.1.1 Thoả thuận thương mại ưu đãi
Đây là cấp độ thấp nhất của liên kết kinh tế, theo đó các quốc gia tham gia
hiệp định dành các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan cho hàng hóa của nhau, tạo
thành các khu vực thương mại ưu đãi vùng (Preferential Trade Area). Trong các
thỏa thuận này, thuế quan và hàng rào phi thuế quan có thể vẫn còn, nhưng thấp hơn
so với khi áp dụng cho quốc gia không tham gia hiệp định. Một ví dụ về thỏa thuận
thương mại ưu đãi là Hiệp định về Thỏa thuận Thương mại Ưu đãi ASEAN được
ký kết tại Manila năm 1977 và được sửa đổi năm 1995; hay Khu vực Thương mại
Ưu đãi Đông và Nam Phi tồn tại từ năm 1981 đến năm 1994; hay như các hiệp định
dành ưu đãi thương mại (hay tối huệ quốc) mà một số nước phát triển có thể dành
cho các nước đang phát triển.
7
2.1.2 Hiệp định thương mại tự do và Khu vực mậu dịch tự do
Là hiệp định theo đó các nước ký kết cam kết bãi bỏ thuế quan và hàng rào
phi thuế quan cho tất cả hoặc gần như tất cả hàng hóa của nhau. Có thể có những
dòng thuế sẽ được bãi bỏ chậm hơn; và người ta thường đưa các dòng thuế này vào
"danh sách nhạy cảm". Chỉ một số ít dòng thuế sẽ không được bãi bỏ và được liệt
kê trong "danh sách loại trừ". Quy tắc xuất xứ là một phần quan trọng của các hiệp
định thương mại tự do nhằm đảm bảo chỉ những hàng hóa được sản xuất toàn bộ
hoặc tối thiểu ở một tỷ lệ nhất định tại các nước thành viên hiệp định mới được
buôn bán tự do nhằm tránh tình trạng nước không tham gia hiệp định sử dụng
cách tái xuất hoặc chỉ lắp ráp tại một nước tham gia hiệp định mà có thể xuất khẩu
sang nước còn lại của hiệp định không phải chịu thuế.
Một hiệp định thương mại tự do nổi tiếng được thành lập từ năm 1960, đó

là Hiệp định Thương mại Tự do Châu Âu. Sau những bế tắc của đàm phán tự do
hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ GATT, các hiệp định thương mại tự do
song phương (giữa hai nước) và khu vực xuất hiện ngày càng nhiều từ giữa thập
niên 1990. Và trong số những quốc gia hăng hái nhất trong việc ký kết các hiệp
định thương mại tự do song phương phải kể đến Mexico, Singapore. Những hiệp
định thương mại tự do nổi tiếng mới thành lập từ thập niên 1990 điển hình là Hiệp
định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (thành lập năm 1994), Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN (hiệp định được ký kết vào năm 1992). Ngoài ra, còn có những hiệp định
thương mại tự do giữa một nước với cả một khối, như Hiệp định Khung về Hợp tác
Kinh tế ASEAN-Trung Quốc (ký kết vào năm 2002).
Do xóa bỏ gần như hoàn toàn thuế quan và hàng rào phi thuế quan, nên việc
đàm phán để thành lập một hiệp định thương mại tự do rất mất thời gian và qua
nhiều vòng thương thảo. Những nước hăng hái với tự do hóa thương mại có thể
thỏa thuận tiến hành chương trình giảm thuế quan sớm (còn gọi là chương trình thu
hoạch sớm) đối với một số dòng thuế trước khi đàm phán kết thúc và hiệp định
được thành lập.
8
2.1.3 Hiệp định đối tác kinh tế
Hiệp định đối tác kinh tế là cấp độ Hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn hiệp
định thương mại tự do, theo nghĩa là ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa
thông qua bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan lại còn bao gồm cả tự do
hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử giữa các nước ký kết hiệp
định.
Nhật Bản là quốc gia có xu hướng thích các hiệp định đối tác kinh tế vì nó
cho phép quốc gia này thâm nhập toàn diện vào các thị trường của nước đối tác.
Hiện Nhật Bản đã ký kết 8 hiệp định đối tác kinh tế song phương và một hiệp định
đối với ASEAN, đang đàm phán để đi tới ký kết 5 hiệp định khác (Hàn Quốc, Ấn
Độ, Việt Nam,Úc, Thụy Sĩ), có 15 quốc gia, lãnh thổ và khu vực đang có nguyện
vọng đàm phán và ký kết hiệp định đối tác kinh tế với Nhật Bản.
2.1.4 Thị trường chung

Thị trường chung có đầy đủ các yếu tố của hiệp định đối tác kinh tế và liên
minh thuế quan, cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất (vốn,
lao động) giữa các nước thành viên. Một thị trường chung như vậy đã từng được
thành lập ở châu Âu vào năm 1957 theo Hiệp ước Rome và mất một thời gian dài
mời hoàn thành mục tiêu. Khối ASEAN cũng đã thỏa thuận sẽ thực hiện được mục
tiêu một thị trường chung và một cơ sở sản xuất thống nhất trong toàn khối vào
năm2020 trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
2.1.5 Liên minh thuế quan
Đây có thể hiểu là một khu vực thương mại tự do giữa các nước thành viên
cộng với thuế quan thống nhất của các nước thành viên đối với hàng hóa từ ngoài
khu vực. Việc thành lập liên minh thuế quan cho phép tránh được những phức tạp
liên quan đến quy tắc xuất xứ, nhưng lại làm nảy sinh những khó khăn trong phối
hợp chính sách giữa các nước thành viên.
9
2.1.6 Liên minh kinh tế và tiền tệ
Hội nhập kinh tế quốc tế đến cấp độ này tạo ra một thị trường chung giữa các
nền kinh tế (không còn hàng rào kinh tế nào nữa) với một đơn vị tiền tệ chung. Ví
dụ rõ nhất về cấp độ liên minh này là Khu vực đồng Euro. Các khu vực được thành
lập với mục tiêu trở thành liên minh kinh tế tiền tệ nhưng chưa hoàn thành được
mục tiêu này gồm: Cộng đồng Kinh tế Tây Phi, Cộng đồng Caribe (tiền thân là
Cộng đồng và Thị trường Chung Caribe). Trong các liên minh từng tồn tại nhưng
nay không còn có Liên minh Bỉ-Luxembourg.
Trong lịch sử đã từng có những khu vực dùng một đơn vị tiền tệ chung,
như Liên minh Tiền tệ Latinh hồi thế kỷ 19, nhưng họ chưa xây dựng được một thị
trường chung nên không gọi đó là liên minh kinh tế và tiền tệ. Lại có một số nước
chấp nhận đồng tiền của nước hay khu vực khác làm đơn vị tiền tệ chính thức của
mình, nhưng giữa họ không có một thị trường chung, nên không gọi là liên minh
kinh tế - tiền tệ.
Hiện nay, tuy Anh đã tham gia Liên minh châu Âu , nhưng vì Anh vẫn giữ
đơn vị tiền tệ riêng là đồng Bảng Anh, nên Anh không tham gia liên minh kinh tế

tiền tệ ở châu Âu.
Với một đơn vị tiền tệ chung, các nước thành viên sẽ phải từ bỏ quyền thực
thi chính sách tiền tệ riêng của mình, mà thay vào đó là một chính sách tiền tệ
chung của toàn khối do một ngân hàng trung ương chung của khối đó thực hiện,
như trường hợp của Ngân hàng Trung ương Châu Âu.
Khi mà ngay cả chính sách tài chính cũng được thực hiện chung, Hội nhập
kinh tế quốc tế đạt đến độ hoàn toàn.
2.3. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia xuất hiện khi lực lượng sản xuất và phân
công lao động đã phát triển đến một trình độ nhất định. Ban đầu chỉ là những hình
thức buôn bán song phương, sau đó mở rộng, phát triển dưới dạng liên kết sản xuất
10
kinh doanh. Trong thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất và công nghệ thông tin đã
và đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng chưa từng thấy. Tình hình đó vừa đặt
ra yêu cầu vừa tạo ra khả năng tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn cầu. Các
quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ phụ thuộc nhau hơn, cần sự bổ trợ cho
nhau, đặc biệt là các mối quan hệ về kinh tế thương mại cũng như đầu tư và các mối
quan hệ khác như môi trường, dân số…Chính đây là những căn cứ thực tế để đi tới
cái đích cuối cùng của quá trình toàn cầu hoá hướng tới đó là một nền kinh tế toàn
cầu thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế ấy. Cụ thể những căn cứ là:
(1) Mỗi quốc gia dù ở trình độ phát triển đến đâu cũng tìm thấy lợi ích cho
mình khi tham gia hôị nhập quốc tế. Đối với các nước phát triển họ có thể đẩy mạnh
hoạt động thương mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ ra nước ngoài, mở rông
quy mô sản xuất, tận dụng và khai thác được các nguồn lực từ bên ngoài như tài
nguyên, lao động và thị trường…cũng như gia tăng các ảnh hưởng kinh tế và chính
trị của mình trên trường quốc tế. Còn đối với các nước đang phát triển Có thể nói
nhu cầu tổ chức lại thị trường thế giới trước hết bắt nguồn từ những nước công
nghiệp phát triển, do họ ở thế mạnh nên họ thường áp đặt các quy tắc, luật chơi.
Bên cạnh đó, các nước đang phát triển khi tham giâ hội nhập quốc tế vừa có yêu cầu
tự bảo vệ, vừa có yêu cầu phát triển nên cũng cần phải tham gia vào để bảo vệ và

tranh thủ lợi ích cho mình, nhất là các nước đang tiến hành quá trình công nghiệp
hoá. Lợi ích ở đây là mở rộng thị trường cho hàng hoá xuất khẩu, tiếp nhận vốn,
tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó sẽ
tạo ra công ăn việc làm, đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được trình độ và kinh
nghiệm quản lý Đây chính là lý do đầu tiên mà một quốc gia hội nhập quốc tế .
(2).Một nền công nghệ toàn cầu đang xuất hiện: Nền công nghệ cơ khí về cơ
bản vẫn là một nền công nghệ có tính quốc gia, vì nó luôn phải lấy thị trường trong
làm chính, một khi chi phí vận chuyển, liên lạc còn quá đắt đỏ thì việc sản xuất, vận
chuyển, tiêu thụ các loại hàng hoá ở thị trường bên ngoài luôn có nhiều rủi ro bất
trắc và có lợi thế so sánh hạn chế.
11
Nhưng trong những thập kỷ gần đây công nghệ thông tin và vận tải đã có
những tiến bộ vượt bậc, đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và
giảm chi phí liên lạc viễn thông xuống tới vài trăm lần. Tiến bộ công nghệ này đã
có tác động cực kỳ quan trọng đến toàn bộ các quan hệ kinh tế quốc tế, nó đã biến
các công nghệ có tính quốc gia thành công nghệ toàn cầu. Ta có thể nêu ra một ví
dụ về công nghệ may mặc. Một cái máy may dù có hiện đại cũng chỉ có thể làm ra
quần áo bán trong một địa phương hay một quốc gia, và có thể vươn tới một vài
nước gần gũi, chúng không thể được bán ở các thị trường xa xôi vì chi phí vận tải
và liên lạc cao làm mất hết lợi thế so sánh. Nhưng nhờ có tiến bộ trong công nghệ
liên lạc và vận tải nên công ty NIKE chỉ nắm hai khâu: sáng tạo, thiết kế mẫu mã và
phân phối toàn cầu (còn sản xuất do các công ty ở nhiều nước làm), nhưng đã làm
chho công nghệ may mặc có tính toàn cầu. Các công nghệ sản xuất xe máy, máy
tính, ô tô, máy bay đã ngày càng có tính toàn cầu sâu rộng. Tính toàn cầu này đã
thể hiện ngay từ khâu sản xuất (được phân công chuyên môn hoá ở nhiều nước) đến
khâu phân phối (tiêu thụ trên toàn cầu). Những công nghệ ngay từ khi ra đời đã có
tính toàn cầu như công nghệ vệ tinh viễn thông đang bắt đầu xuất hiện.
Chính công nghệ toàn cầu này là cơ sở quan trọng đặt nền móng cho sự đẩy
mạnh quá trình toàn cầu hoá. Nhờ có công nghệ toàn cầu hoá phát triển, sự hợp tác
giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh doanh có thể mở rộng từ sản xuất đến phân

phối trên phạm vi toàn cầu, những quan hệ này tuỳ thuộc lẫn nhau cùng có lợi phát
triển. .
(3). Các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển: Một nền công nghệ
toàn cầu xuất hiện đã là cơ sở cho các quan hệ kinh tế toàn cầu phát triển. Đầu tiên
là các quan hệ thương mại. Chi phí vận tải liên lạc càng giảm đi, thì khả năng bán
hàng đi các thị trường xa càng tăng lên, thương mại toàn cầu càng có khả năng phát
triển. Đồng thời với quá trình phân công, chuyên môn hoá sản xuất càng có thể diễn
ra gữa các quốc gia và châu lục. Các linh kiện của máy bay Boing, của ô tô, của
máy tính đã có thể được sản xuất ở hàng chục nước khác nhau. Các quan hệ sản
xuất, thương mại có tính toàn cầu, đã kéo theo các dòng tiền tệ, vốn, dịch vụ vận
12
động trên phạm vi toàn cầu. Công nghệ thông tin đã làm cho các dòng vận động này
thêm chôi chẩy. Ngày nay lượng buôn bán tiền tệ toàn cầu một ngày đã vượt quá
1500 tỷ USD. Thưng mại điện tử xuất hiện vơi kim ngạch ngày càng tăng và đang
trở thành một loại hình buôn bán toàn cầu đầy triển vọng.
Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang
ngày càng xung đột với các thể chế quốc gia, với các rào cản quốc gia. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang xâm nhập qua biên giới
các quốc gia. Bước vào thập kỷ 90 các rào cản này đã bị phá vỡ ở các quốc gia
trong Liên Minh Châu Âu, và ở Bắc Mỹ với mức độ thấp hơn. các quốc gia ASEAN
đã cam kết giảm bớt rào cản quốc gia. Các nước thành viên của tổ chức thương mại
thế giới cũng đã cam kết một lộ trình giảm bỏ hàng rào này Nhưng phải thừa nhận
các rào cản này vẫn còn rất mạnh ở nhiều nước và ngay cả ở Liên Minh Châu Âu
vơí những hình thức biến tướng đa dạng. Chính chúng đang cản trở quá trình toàn
cầu hoá.
(4). Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức
xúc và càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia: Người ta có thể
kể ra ngày càng nhiều các vấn đề kinh tế toàn cầu như: thương mại, đầu tư, tiền tệ,
dân số, lương thực, năng lượng, môi trường Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá
hoại; các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị cạn kiệt; dân số thế giới đang

gia tăng nhanh chóng trở thành một thách thức toàn cầu; các dòng vốn toàn cầu vận
động tự do không có sự phối hợp điều tiết đã làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng
liên tiếp ở Châu Âu, Châu Mỹ, và Châu á trong thập kỷ 90 Cần có sự phối hợp
toàn cầu để đối phó với những thách thức đó. "Bàn tay hữu hình" của các chính phủ
chỉ hữu hiệu ở các quốc gia, còn trên phạm vi toàn cầu chúng nhiều khi lại mâu
thuẫn đối lập nhau, chứ chưa có một "bàn tay hữu hình" chung làm chức năng điều
tiết toàn cầu.
Ngoài các căn cứ trên đây thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá phát triển còn có
thể có những căn cứ khác như: chiến tranh lạnh chấm dứt vào đầu thập kỷ 90 đã kết
13
thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, tạo ra một thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát
triển mới
Với những căn cứ trên đây, toàn cầu hoá đang phát triển như là một xu
hướng có tính tất yếu khách quan với những đặc trưng chủ yếu là:
- Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đang giảm dần và sẽ bị xoá bỏ
trong một tương lai không xa theo các cam kết quốc tế đa phương và toàn cầu,
nghĩa là các biên giới quốc gia về thương mại, đầu tư đang bị dần biến mất-đấy là
một tiền đề quan trọng trước hết cho sự hình thành một nền kinh tế thế giới không
còn biên giới quốc gia.
- Các công ty của các quốc gia ngày càng có quyền kinh doanh tự do ở mọi
quốc gia, trên các lĩnh vực được cam kết, không có phân biệt đối xử. Đặc trưng này
rất quan trọng, vì dù như không có các biên giới quốc gia về thuế quan, nhưng các
công ty không được quyền kinh doanh tự do trên phạm vi toàn cầu, thì nền kinh tế
thế giới khó có thể hình thành được. Đặc trưng này thực chất là sự xoá bỏ các biên
giới về đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực kinh tế khác.
Chính từ những căn cứ cơ sở như vậy mà ngày nay hầu hết các nước thực
hiện chính sách hội nhập. Ngay cả như Trung Quốc-một thị trường với 1,2 tỷ dân,
lớn hơn bất cứ một khu vực mậu dịch tự do nào, lại có khả năng sản xuất được hầu
hết mọi thứ, từ đơn giản đến phức tạp nhưng vẫn kiên trì chủ trương hội nhập vào
nền kinh tế thế giới , điều đó thể hiện thông qua việc Trung Quốc kiên trì đàm phán

gia nhập WTO trong suốt 14 năm.
Đương nhiên đối với các nước đang phát triển, kinh tế còn yếu kém, trình độ
sản xuất thấp, doanh nghiệp còn bé nhỏ, sức cạnh tranh thấp, trình độ quản lý còn
hạn chế thì hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực không chỉ có những cơ hội mà bên
cạnh đó còn có nhiều khó khăn thách thức lớn, nhưng nếu cứ đứng ngoài cuộc thì
khó khăn, thách thức có thể sẽ dần tăng và lớn hơn nhiều. Quyết định đúng đắn đó
là chủ động hội nhập gắn với chủ động điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng phát
huy lợi thế so sánh, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý, cải cách hành
14
chính trên cơ sở đó mà phát huy nội lực, vượt qua khó khăn thách thức, khai thác
triệt để các cơ hội để phát triển đất nước.

15
Chương 2: TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Mặc dù khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế
giới cũng đồng thời chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với các
nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế, sự lựa chọn tất
yếu này còn được quyết định bởi rất nhiều lợi ích hay những tác động tích cực mà
hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cho các nước. Tuy nhiên, các nước cũng phải đối
mặt với các tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế. Dưới đây với phạm vi
của chuyên đề, nội dung của chương 2 xin được tổng quan về các tác động của hội
nhập kinh tế quốc tế đồng thời phân tích để bạn đọc có thể thấy rõ được các điều
kiện để gia nhập một tổ chức kinh tế khu vực và các tác động của các tổ chức kinh
tế khu vực trong nền kinh tế thế giới.
2.1. Tác động tích cực
2.1.1 Tác động đến thương mại, đầu tư, tài chính
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi mỗi nước phải mở cửa nền kinh
tế, thực hiện tự do hóa về thương mại và đầu tư. Thực tế luôn tồn tại sự phát triển
không đồng đều các quốc gia và vùng lãnh thổ trong nền kinh tế thế giới và sự hát
triển của mỗi nước cũng khác nhau và không đồng đều. Có những nước giàu, có

những nước nghèo nhưng mỗi nước đều có lợi thế so sánh riêng của mình. Nội dung
của hội nhập là các nước sẽ mở cửa hội nhập cho nhau. Đây cũng là quá trình dỡ bỏ
dần những cản trở trong hoạt động thương mại, xóa bỏ sự phân biệt đối xử, tạo lập
sự cạnh tranh bình đẳng, nhằm làm cho hoạt động thương mại trên phạm vi quốc tế
ngày càng tự do hơn thông qua việc cắt giảm dần thuế quan; giảm bớt, tiến tới loại
bỏ hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, quản lý
ngoại hối, phụ thu hàng nhập khẩu, các loại lệ phí và nhiều cản trở vô hình khác;
bảo đảm cạnh tranh công bằng và không phân biệt đối xử. Do vậy các quốc gia
tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có khả năng mở rộng thị trường xuất
khẩu hàng hóa của mình sang nhiều các quốc gia và vùng lãnh thổ khác trên thế giới
làm tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp một phần quan trọng vào tăng trưởng kinh
16
tế của các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Đặc biệt, sự ra đời
của tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã tập trung giải quyết vấn đề tiếp cận thị
trường thông qua các cam kết về tự do hóa thương mại. Đây là quá trình dỡ bỏ dần
những cản trở trong hoạt động thương mại, xóa bỏ sự phân biệt đối xử, tạo lập sự
cạnh tranh bình đẳng, nhằm làm cho hoạt động thương mại trên phạm vi quốc tế
ngày càng tự do hơn thông qua việc cắt giảm dần thuế quan; giảm bớt, tiến tới loại
bỏ hàng rào phi thuế quan, như hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, quản lý
ngoại hối, phụ thu hàng nhập khẩu, các loại lệ phí và nhiều cản trở vô hình khác;
bảo đảm cạnh tranh công bằng và không phân biệt đối xử.
Quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các
quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã
hội. Các nước cũng ký kết nhiều hơn các hiệp định thương mại đa phương, song
phương, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực để góp phần nâng cao bảo hộ
mậu dịch và cạnh tranh của khối. Đây chính là tiền đề cho việc mở rộng các quan hệ
ngoại giao giữa các nước, làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia.
Đơn cử trường hợp Mexico. Hiệp định Thương mại tự do Bắc Hoa Kỳ
(NAFTA) là hiệp định thương mại tự do giữa ba nước Canada, Hoa Kỳ và Mexico,
ký kết ngày 12/8/1992, hiệu lực từ ngày 1/01/1994. Nội dung của hiệp định này là:

Giúp cho kinh tế của 3 nước Hoa Kỳ, Canada và Mexico được dễ dàng. Cụ thể là
việc Hoa Kỳ và Canada có thể dễ dàng chuyển giao công nghệ sang Mexico và
Mexico cũng dễ dàng chuyển giao nguồn nhân lực sang hai nước kia. Ngoài ra, hiệp
định này còn giúp cho 3 nước có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới về
kinh tế với các khối như EU, AFTA. Sau 10 năm tham gia NAFTA các chỉ số kinh
tế cơ bản của Mexico đều được cải thiện. Dưới tác động của NAFTA, kim ngạch
xuất khẩu của Mexico tăng gấp 4 lần, GDP trung bình tăng 3,3%/năm so với mức
2,9% những năm trước, nguồn tiền do lao động tại Hoa Kỳ chuyển về mỗi năm 14
tỷ USD trở thành nguồn ngoại tệ quan trọng của Mexico.
Kể từ khi hiệp định được thi hành năm 1994 đã tạo ra những thay đổi to lớn
17
đối với các thành viên trong toàn khối. Sau 10 năm thực sự đã có bùng nổ thương
mại. Kể từ khi ký kết, 76,2% hàng hoá Mexico xuất sang Hoa Kỳ và 66,3% hàng
hoá Hoa Kỳ xuất sang Mexico được miễn thuế so với con số trước khi hiệp định là
13,9% và 17,9%. Hàng rào thuế giảm đã làm thương mại tăng mạnh. Nếu như trước
khi hiệp định được ký kết thương mại giữa ba nước với nhau đạt trên 200 tỷ USD
thì đến năm 2002 đã tăng hơn 3 lần, đạt trên 600 tỷ USD. Thương mại của NAFTA
đa tăng cao hơn thương mại của khối với phần còn lại của thế giới. Thương mại của
khối NAFTA các nước còn lại giai đoạn 1990-2002 tăng từ 322 lên 481 tỷ USD.
Đơn vị: tỷ USD
Nguồn: www.wto.org
Hình 2.1: Xuất khẩu trong khối NAFTA và xuất khẩu của NAFTA với thế giới
Trong 3 nước, Mexico là nước có trình độ phát triển thấp nhất cũng thu được
lợi ích từ thương mại. Trong vòng hơn 10 năm, kim ngạch xuất khẩu của Mexico đã
tăng hơn 4 lần, từ khoảng 40 tỷ USD lên trên 160 tỷ USD. Trong cùng giai đoạn, tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu của Mexico trong khối NAFTA đã tăng từ 79% lên đến
91%. Tăng trưởng thương mại đã thúc đẩy nền kinh tế đi lên. Nền kinh tế Mexico
đạt mức tăng trưởng trung bình 3,3%/năm sau khi hội nhập so với tốc độ của giai
đoạn trước là 2,9%/năm. Cũng trong giai đoạn 10 năm, kinh tế đi lên đã giúp tăng
được công ăn việc làm 22%. Một số địa phương của Mexico đã thu được lợi ích lớn

từ quá trình hội nhập, như ở Jalisco đã hình thành được một khu vực công nghiệp
18
công nghệ cao tập trung.
Đơn vị: tỷ USD
Nguồn: www.wto.org
Hình 2.2: Xuất khẩu của Mexico sang Hoa Kỳ, Canađa và các nước khác
Đơn vị: tỷ USD
Tháng 1/92 Tháng 1/96 Tháng 1/00 Tháng 1/04 Tháng 1/08 Tháng 1/12 Tháng 1/13
Nguồn:
Hình 2.3: Kím ngạch xuất khẩu của Mexico sang các nước trong vòng 20 năm
kể từ khi gia nhập NAFTA
Đơn vị: tỷ USD
19
Tháng 1/92 Tháng 1/96 Tháng 1/00 Tháng 1/04 Tháng 1/08 Tháng 1/12 Tháng 1/13
Nguồn:
Hình 2.4: Cán cân thương mại của Mexico trong vòng 20 năm kể từ khi gia
nhập NAFTA
Hai biểu đồ trên mô tả về kim ngạch xuất khẩu và cán cân thương mại của
Mexico từ năm 1992 đến nay cho thấy những lợi ích mà Mexico thu được về
thương mại quốc tế khi gia nhập NAFTA. Kim ngạch xuất khẩu năm 1992 của
Mexico năm 1992 dưới 5.000 tỷ USD đã tăng lên đến mốc 35.000 tỷ USD vào năm
2013 (tăng hơn 7 lần) và cán cân thương mại của Mexico đã xuất hiện thặng dư
thương mại mà trước đây hầu như không có.
Cũng từ các tác động trên, tỷ trọng xuất nhập khẩu ở các nước có sự thay đổi
đáng kể. Cụ thể với thị trường ngày càng rộng lớn, khối lượng xuất khẩu hàng năm
sẽ tăng lên, góp phần làm tăng doanh thu xuất khẩu và tỷ trọng của nó trong GDP.
Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động sản xuất các
ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong nước, đặc biệt là cải thiện cán cân
thanh toán và tăng tỷ lệ dự trữ ngoại hối. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế làm cho
thương mại quốc tế của các nước thay đổi cả về cơ cấu các loại mặt hàng trao đổi.

Cụ thể:
- Giảm đáng kể tỷ trọng nhóm hàng lương thực, thực phẩm, đồ uống
- Giảm mạnh tỉ trọng của nhóm hàng nguyên liệu, tăng nhanh tỉ trọng của nhóm
20

×