Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

PHÂN CẤP TÀI CHÍNH VÀ VIỆC LÀM KHU VỰC CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 80 trang )





TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG







ĐỀ TÀI 5

PHÂN CẤP TÀI CHÍNH VÀ VIỆC LÀM
KHU VỰC CÔNG
FISCAL DECENTRALIZATION AND PUBLIC SECTOR EMPLOYMENT:
A CROSS-COUNTRY ANALYSIS

Tác giả
MING-HUNG YAO







Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Sử Đình Thành
Lớp: Cao học Ngân hàng – Đêm 2 – Khóa 22


Nhóm thực hiện : Nhóm 5







TP.HCM, Tháng 08/2013
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM

1. Nguyễn Tú Anh
2. Võ Duy Minh
3. Âu Hải Khắc Nguyên
4. Trần Lê Ánh Thu
5. Trần Thị Tuyết Vân
6. Võ Tuấn Vũ
















NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN























MỤC LỤC
Trang
1. CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU 1
2. CHƯƠNG 2 : TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 6

Ba giả thuyết về việc làm khu vực công 6
+ Đạo luật Wagner 7
+ Giả thuyết tìm kiếm đặc lợi 9
+ Giả thuyết về bảo hiểm xã hội 11
Việc làm công và sự phân cấp trong các nghiên cứu trước đây 13
Chi phí công và hiệu ứng không gian trong các bài nghiên cứu trước đây 17
3. CHƯƠNG 3 : MÔ HÌNH LÝ THUYẾT 20
4. CHƯƠNG 4 : PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM 36
Khái niệm việc làm khu vực công 36
Định nghĩa phân cấp tài chính 43
Các giả thuyết thực nghiệm 47
Biến số chính trị 49
Các vấn đề thực nghiệm 52
5. CHƯƠNG 5 : KẾT LUẬN 72
CÁC PHỤ LỤC ĐÍNH KÈM









Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công







Trang 1



CHƯƠNG I : GIỚI THIỆU

Ít nghi ngờ rằng những hoạt động của chính phủ đóng một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế hiện đại. Chính phủ ảnh hưởng đến nền kinh tế thông qua một vài
công cụ như chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Việc làm khu vực nhà nước
chiếm một phần đáng kể trong tổng số việc làm ở nhiều nền kinh tế, là một công cụ
quan trọng của chính sách tài chính và thu hút sự chú ý trong suốt 2 thập kỷ qua
(Gregory & Borland, 1999). Ngày nay tình hình quan liêu và hiện tượng các công ty
công dư thừa nhân viên là vấn đề chung trong sự phát triển đất nước, đặc biệt trong
nền kinh tế chuyển giao – nền kinh tế thị trường đòi hỏi hàng triệu nhân viên phải
được thay đổi vị trí. Một số lớn các Bộ trùng lắp về chức năng hoặc có sự tồn tại của
“những nhân viên ma” – người thuộc biên chế của một tổ chức nhưng không có công
việc thực tế - được xác định là nguyên nhân chính của việc chi tiêu không hiệu quả
(Rama, 1997). Do đó, việc cắt giảm việc làm khu vực nhà nước đã trở thành một vấn
đề quan trọng trong cải cách nền kinh tế ở các nước này.
Sự phân cấp được định nghĩa như là một việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ
chung từ Trung Ương đến các chính quyền cấp dưới, tổ chức hay khu vực tư nhân đã
đang là một xu hướng toàn cầu trong 2 thập kỷ qua (Rondinelli, 1999). Một luận điểm
kinh tế cho việc phân cấp là nó làm tăng hiệu quả của phân bố nguồn lực. Thứ nhất,
quyết định về việc công khai nguồn chi tiêu được đưa ra bởi một cấp chính quyền gần
hơn và đáp ứng nhiều hơn đến cử tri địa phương để phản ánh nhu cầu cho các dịch vụ
địa phương hơn là được thực hiện bởi chính quyền trung ương. Thứ hai, phân cấp sẽ
dẫn đến việc cạnh tranh giữa các chính quyền và xu hướng tăng cường đổi mới (Ford,
1999).
Dựa vào 2 luận điểm về sự phân cấp, người ta có thể đề nghị rằng phân cấp tài

chính có thể khắc phục tình trạng bộ máy quan liêu cồng kềnh và các doanh nghiệp
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 2



nhà nước có quá nhiều nhân viên ở các nước đang phát triển. Trong luận văn này,
chúng tôi cố gắng trả lời xem liệu chính sách phân cấp tài chính có giúp đỡ trong
việc hạn chế việc làm khu vực nhà nước hay không.
Trong phụ lục A, chúng tôi đã cho thấy các dữ liệu về việc làm khu vực nhà nước
của các nước tính theo phần trăm dân số từ năm 1985 đến năm 2005 của các quốc gia
thuộc Tổ chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế OECD và không thuộc. Từ những dữ
liệu đó, chúng ta có thể quan sát một vài xu hướng. Thứ nhất, trong khi việc làm khu
vực nhà nước tăng ở một số quốc gia, nó lại giảm ở một số quốc gia khác trong giai
đoạn 1985 - 2005. Chúng ta có thể gọi đây là khoảng thời gian thay đổi việc làm khu
vực nhà nước. Thứ hai, số lượng việc làm khu vực nhà nước ở một số quốc gia lớn
hơn một số quốc gia trong bất kỳ năm nào. Chúng ta có thể gọi đây là sự thay đổi về
mặt cắt ngang của việc làm khu vực nhà nước.
Nghiên cứu này tìm cách giải thích các biến thể theo thời gian và giữa các quốc
gia trong việc làm khu vực nhà nước. Trong việc đạt được sự hiểu biết về nguồn gốc
của sự thay đổi về mặt thời gian và giữa các quốc gia chúng ta cũng quan tâm đến việc
kiểm tra quá trình phân cấp ở một số nước trên thế giới và mức độ phân cấp việc làm
khu vực nhà nước ở một số quốc gia nhanh hơn một số khác. Chúng tôi gọi đây là sự
thay đổi kích thước cấu trúc trong việc làm khu vực nhà nước. Phụ lục B cho thấy việc

làm khu vực công tính theo phần trăm dân số ở trung ương và ở các cấp địa phương
đối với các nước OECD và các nước không thuộc OECD trong năm 1995 và 2000.
Có ba giả thuyết được sử dụng để giải thích sự thay đổi trong việc làm khu vực
công. Thứ nhất, sự giải thích về mặt kinh tế thông thường và được biết đến với tên gọi
là Đạo luật Wagner. Luật này cho rằng sự phát triển kinh tế tạo ra những nhu cầu mới
về một số loại hình dịch vụ chính phủ. Thứ hai, sự giải thích kinh tế - chính trị xem
việc làm khu vực công là một “phương tiện” mà các chính trị gia sử dụng để che giấu
việc phân phối lợi ích cho một số tổ chức đặc biệt. Thứ ba, sự giải thích theo kinh tế
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 3



quốc tế, theo đó việc làm khu vực công được liên kết với việc tiếp xúc thương mại
quốc tế của một quốc gia.
Mặc dù cả 3 giả thuyết dường như có thể giải thích một phần thay đổi trong
việc làm khu vực công, chúng dường như không giải quyết hết tất cả các vấn đề
liên quan. Nếu Đạo luật Wagner đúng, người ta sẽ mong đợi các quốc gia giàu hơn
hoặc các vùng địa phương giàu hơn sẽ có mức độ việc làm khu vực công cao hơn.
Nếu việc làm nhà nước là một công cụ chính trị để chuyển lợi ích của các chính trị gia
sang các tổ chức đặc biệt, người ta mong đợi các nước hoặc khu vực địa phương với
dân số tượng tự có cùng một số lượng dòng bảo trợ như vậy. Nhưng trong thực tế, lợi
ích tương quan với mức độ phân chia sắc tộc và bất bình đẳng thu nhập chứ không
dựa vào dân số. Cuối cùng, nếu thiết lập một mức độ việc làm nhà nước cao hơn là

một công cụ cho các quan chức hòa giải các tác động bất ổn liên quan đến thương
mại, tại sao họ lại sử dụng nó không hiệu quả. Tái đào tạo và chuyển đổi chương trình
làm việc sẽ là một chính sách hiệu quả về mặt chi phí, dù mục đích của các chính trị
gia là bảo đảm cho các nhân viên “dễ bị tổn thương” hay là mua những phiếu bầu từ
họ.
Trong khi ba giả thuyết có thể làm việc tốt trong việc giải thích một vài thông
tin về việc làm khu vực công theo thời gian và giữa các quốc gia, nhưng không giả
thuyết nào đủ để cung cấp một lý do rõ ràng về mặt cơ cấu, đó là một sự thay đổi
tương đối việc làm nhà nước ở cấp trung ương so với cấp chính quyền địa phương.
Phân cấp giúp chúng ta giải thích việc chuyển đổi cơ cấu việc làm khu vực nhà nước.
Với chính sách phân cấp tài chính, trung ương sẽ chuyển một vài trách nhiệm xuống
địa phương. Như là một kết quả, chúng ta mong chờ mức độ việc làm nhà nước ở
trung ương sẽ giảm và ở địa phương sẽ tăng cùng với mức độ phân cấp tài chính. Tác
động tổng thể của phân cấp tài chính lên việc làm nhà nước phụ thuộc vào hai hiệu
ứng đối lập. Nếu mức độ giảm việc làm khu vực nhà nước ở cấp trung ương lấn át sự
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 4



gia tăng trong việc làm ở khu vực địa phương thì sau đó việc làm nhà nước ở khu vực
trung ương sẽ co lại theo sự phân cấp tài chính. Nói cách khác, chính sách phân cấp tài
chính giúp hạn chế việc làm khu vực công. Mặc khác nếu độ lớn của việc gia tăng
việc làm nhà nước khu vực địa phương lấn át việc giảm của khu vực trung ương thì

sau đó tổng số lao động khu vực nhà nước sẽ tăng lên với chính sách phân cấp tài
chính. Cả hai trường hợp được hỗ trợ bởi những lý thuyết sẽ thảo luận trong chương
Hai. Xa hơn nữa chúng ta cũng muốn nhìn thấy những yếu tố tác động đến độ lớn của
hai sự ảnh hưởng này.
Trong khi sử dụng sự thay đổi quan hệ của việc làm nhà nước ở khu vực địa
phương so với khu vực trung ương để giải thích sự thay đổi việc làm nhà nước giữa
các quốc gia, chúng ta không nên bỏ qua vai trò tiềm năng gây ra bởi “hiệu ứng
không gian”, nghĩa là các nhà hoạch định chính sách có thể bị ảnh hưởng bởi
“hàng xóm” của họ khi họ thiết kế chính sách tài chính. Lời giải thích đầu tiên cho
sự tồn tại của hiệu ứng không gian là có sự tồn tại bên ngoài giữa các quốc gia vì thế
việc lựa chọn chính sách tài chính có sự tương tác. Lời giải thích thứ hai là công dân
có thể đánh giá hiệu quả của các nhà hoạch định chính sách bằng cách so sánh với
việc lựa chọn chính sách tương tự của các quốc gia láng giềng. Với sự liên hệ của 2
lời giải thích, chúng tôi sẽ kiểm tra sự hiện diện của yếu tố không gian như là một yếu
tố quyết định mức độ việc làm khu vực công của một quốc gia.
Việc làm khu vực công khác với việc làm khu vực tư nhân trong đó các quyết
định về việc làm, tiền lương xảy ra trong một môi trường chính trị trong khi khu vực
tư nhân đưa ra quyết định trong một môi trường thị trường. Chính trị gia hay quan
chức có thể có mục tiêu khác biệt với người chủ sỡ hữu doanh nghiệp khu vực tư
nhân. Do sự khác biệt này, chúng ta có thể hiểu việc làm khu vực nhà nước bằng cách
xem xét thị trường lao động nhà nước là một sự tồn tại riêng biệt.
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 5




Trong luận văn này, chúng ta phát triển một một mô hình lý thuyết về việc làm
khu vực công trong một nỗ lực để đưa ra những giả thuyết khác nhau nhưng có tiềm
năng giải thích về cấu trúc việc làm nhà nước và có thể bao hàm thời gian và không
gian giữa các quốc gia. Trong chương thực nghiệm của luận văn, chúng ta dùng 2 tập
dữ liệu khác nhau để kiểm tra giả thuyết có nguồn gốc từ mô hình của chúng ta. Mục
đích chính của luận văn là phân tích vai trò của việc phân cấp tài chính lên việc
làm nhà nước. Xa hơn, chúng ta muốn tìm ra yếu tố tác động lên việc làm khu vực
công ở cấp trung ương và địa phương cũng như mức độ về mặt tổng thể. Bên cạnh
đó, chúng ta muốn phát hiện xem có tồn tại bằng chứng nào về hiệu ứng không
gian trong việc xác định mức độ việc làm khu vực nhà nước của một quốc gia.
Luận văn này bao gồm 5 chương. Trong chương này, chúng ta trình bày mục đích
chính của việc nghiên cứu. Trong chương Hai, chúng ta xem xét và tóm lược các
nghiên cứu trước đây về việc làm khu vực nhà nước và quan hệ của nó với chính sách
phân cấp tài chính. Trong chương Ba, chúng ta phát triển một mô hình lý thuyết để
phân tích mối quan hệ giữa mức độ của phân cấp tài chính và mức độ việc làm khu
vực công. Trong chương Bốn, chúng ta mô tả tập dữ liệu dùng trong việc nghiên cứu
và trình bày các kết quả thực nghiệm dựa trên dữ liệu chúng ta có. Chương Năm là
phần kết luận.








Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công







Trang 6



CHƯƠNG II : TỔNG QUAN CÁC LÝ THUYẾT NGHIÊN
CỨU TRƯỚC ĐÂY

Trong chương này, chúng ta xem xét lại các nghiên cứu trước đây về vấn đề việc
làm trong khu vực nhà nước, và sau đó chúng ta thảo luận lý do tại sao phân cấp quản
lý tài chính có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định việc làm của khu
vực nhà nước. Phần đầu của chương này, chúng ta sẽ thảo luận một vài giả thuyết,
theo gợi ý từ những nghiên cứu trước đây, có thể giúp giải thích sự khác biệt của việc
làm trong khu vực nhà nước giữa các vùng của một quốc gia và giữa các quốc gia.
Trong phần thứ hai, chúng ta thảo luận về lý do tại sao chính sách phân cấp quản lý tài
chính có thể ảnh hưởng đến việc làm khu vực công. Và phần thứ ba, chúng ta nhắc lại
các nghiên cứu về sự tương tác chính sách tài chính giữa các quốc gia, trong đó tập
trung vào vấn đề chi tiêu.
Ba giả thuyết về việc làm trong khu vực công :
Trong phần này, chúng tôi thảo luận về ba giả thuyết giải thích sự khác biệt về
việc làm trong khu vực công giữa các quốc gia. Giả thuyết đầu tiên là Đạo luật
Wagner (Đạo luật quan hệ lao động quốc gia năm 1935). Nó lập luận rằng phát triển
kinh tế tạo ra nhu cầu đối với các loại hình dịch vụ mới của chính phủ. Giả thuyết thứ
hai là giả thuyết về tìm kiếm đặc lợi, lần đầu tiên được đề xuất bởi Gelb et al. (1991).
Giả thuyết này cho rằng việc làm trong khu vực công được xem như là một phương
tiện chính trị để che giấu việc phân phối lại lợi ích cho các nhóm cụ thể. Giả thuyết

thứ ba là giả thuyết bảo hiểm xã hội, được đề xuất bởi nghiên cứu của Rodrik (1996).
Giả thuyết này cho rằng việc làm trong khu vực công có thể được sử dụng để làm vật
đệm chống lại nguy cơ dân số từ bên ngoài. Chúng tôi lần lượt xem xét ba giả thuyết,
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 7



sau đó báo cáo về những nghiên cứu thực nghiệm đã tìm thấy để hỗ trợ cho việc giải
thích các giả thuyết vừa nêu trên.
 Đạo luật Wagner :
Đầu tiên, đạo luật Wagner cho rằng phát triển kinh tế tạo ra nhu cầu đối với các
loại hình dịch vụ mới của chính phủ. Nói cách khác, các dịch vụ của chính phủ tăng
lên với tốc độ nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế tương
quan rõ ràng giữa các quốc gia có khu vực công lớn hơn. Theo kinh nghiệm, quy mô
khu vực công được đo lường bằng tỷ trọng theo từng thời kì của chi tiêu chính phủ so
với tổng sản phẩm quốc nội (viết tắt là GDP) hoặc tỷ trọng của lao động khu vực công
so với dân số của quốc gia. Quy mô của khu vực công thông thường được đo lường
thông qua chi tiêu chính phủ, còn mức độ quyết định của vấn đề việc làm khu vực
công chỉ được thảo luận trong một vài nghiên cứu, cụ thể là những nghiên cứu của
Tait và Heller (1984), Kraay và van Rijckeghem (1995), Schiavo-Campo et al.
(1997b), Rama (1997), Rodrik (1996, 1997), Alesina et al. (2000), Alesina et al.
(2001), Gimpelson và Treisman (2002) và Marques-Sevillano và Rossello-Villallonga
(2004). Những nghiên cứu khác nhau về phạm vi các quốc gia cũng như trong phương

pháp nghiên cứu. Một số những nghiên cứu tập trung vào một quốc gia cụ thể, chẳng
hạn như các nghiên cứu về Hoa Kỳ của Alesina et al. (2000), các nghiên cứu về Ý của
Alesina et al. (2001), các nghiên cứu về Nga của Gimpelson và Treisman (2002) và
các nghiên cứu về Tây Ban Nha của Marques-Sevillano và Rossello-Villallonga
(2004). Những nghiên cứu khác là những nghiên cứu xuyên các quốc gia.
Phần lớn các nghiên cứu xuyên quốc gia xác nhận, hoặc xác nhận có điều kiện
đạo luật của Wagner, chẳng hạn như trong Tait và Heller (1984), Kraay và van
Rijckeghem (1995), Schiavo-Campo et al. (1997b) và Rama (1997). Tait và Heller
(1984) sử dụng dữ liệu của 61 quốc gia trong năm 1980 để điều tra xem liệu có bất kỳ
yếu tố phổ biến nào giải thích về quy mô của việc làm khu vực công hay không. Kết
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 8



quả nghiên cứu chỉ ra rằng lao động của khu vực công tại mỗi quốc gia tính theo đầu
người tăng lên khi thu nhập bình quân đầu người tăng, từ đó ủng hộ cho giá trị của
những thử nghiệm khác của đạo luật Wagner. Kraay và Van Rijckeghem (1995) sử
dụng một bộ dữ liệu bảng của 34 quốc gia đang phát triển và 21 quốc gia trong khối
OECD từ năm 1972 đến năm 1992 để kiểm tra những yếu tố quyết định đến việc làm
khu vực công và tiền lương dựa trên một mô hình tiền lương hiệu quả. Họ nhận ra
rằng việc làm khu vực công có liên quan tích cực đến việc hạn chế sử dụng nguồn lực,
đó là tỷ lệ thu nhập so với GDP trong trường hợp các nước đang phát triển và GDP
bình quân đầu người trong trường hợp của các nước OECD. Schiavo-Campo et al.

(1997b) đã phát triển một bộ dữ liệu xuyên quốc gia từ trung ương đến địa phương đối
với việc làm khu vực công và thống kê tiền lương cho gần 100 quốc gia, bao gồm các
nước phát triển và kém phát triển trong những năm đầu thập niên 90. Đối với toàn bộ
mẫu, họ nhận thấy rằng mức độ của nhân viên công chức tương quan thuận với thu
nhập bình quân đầu người và do đó xác nhận đạo luật Wagner. Tuy nhiên, đối với
trường hợp của các nước OECD, sự kết hợp này là không có ý nghĩa thống kê, nghiên
cứu đã chỉ ra rằng hệ thống đạo luật Wagner có thể xảy ra tình trạng không hiệu quả
với một một mức độ phát triển nhất định. Rama (1997) sử dụng một bảng dữ liệu
không đồng đều của nhân viên công chức nói chung bao gồm 90 quốc gia cho thập
niên 1970, 1980, và 1990. Ông phát hiện ra rằng ở những mức độ phát triển kinh tế
thấp, lao động khu vực công tăng cùng với với sản lượng bình quân đầu người, như dự
đoán của đạo luật Wagner. Tuy nhiên, mối liên hệ này không hoàn toàn cố định mà
biến động, với mức điểm biến động vào khoảng 14.000 đô la đầu người, được quy đổi
theo mức giá PPP (sức mua tương đương) năm 1985.
Từ kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu xuyên quốc gia, chúng ta thấy rằng
đạo luật Wagner được xác nhận, hoặc xác nhận có điều kiện. Phát hiện thú vị là việc
làm khu vực công tăng trưởng cùng với sự phát triển kinh tế nhưng mối quan hệ này
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 9



là không cố định. Đến một mức độ nhất định của sự phát triển kinh tế, mối quan hệ
này trở nên không đáng tin cậy và đạo luật Wagner trở nên không có hiệu quả.

 Giả thuyết tìm kiếm đặc lợi :
Đạo luật Wagner ứng dụng tốt trong việc giải thích mức độ lao động công xuyên
các quốc gia nhưng không phải luôn luôn giải thích tốt cho mức độ lao động công bên
trong các quốc gia đó.Ví dụ, Alesina et al. (2001) đã cho thấy thấy rằng ở Italy, số
lượng công chức trong những khu vực nghèo khó (tại miền Nam) thì lớn hơn đáng kể
so với các vùng giàu có (tại miền Bắc). Vì vậy, chúng tôi nghi ngờ rằng sẽ xuất hiện
một số yếu tố khác ngoài yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến mức độ việc làm khu vực công
trong phạm vi một quốc gia. Bây giờ, chúng ta tập trung vào giả thuyết tìm kiếm đặc
lợi, theo đề xuất của Gelb et al. (1991). Họ phát triển một mô hình lý thuyết cho rằng
các chính phủ ở các nước đang phát triển nên cung cấp những hàng hóa và dịch vụ có
giá trị tạo ra những nhu cầu xuất phát từ các yếu tố sản xuất. Tuy nhiên, khu vực công
khác với khu vực tư nhân khi mà khu vực công phải chịu những áp lực chính trị đối
với vấn đề việc làm. Hành vi tìm kiếm hoặc tạo ra những đặc lợi riêng làm phát sinh
một dòng lãng phí các nguồn lực vào khu vực công hơn là những nhu cầu thực sự xuất
phát từ các nguồn lực sản xuất. Robinson và Verdier (2002) giải thích lý do tại sao
việc làm khu vực công là hấp dẫn về mặt chính trị, mặc dù kém hiệu quả về mặt xã
hội. Họ cho rằng điều này là do việc làm khu vực công là một công cụ cam kết tốt
giữa các chính trị gia và cử tri. Từ mô hình lý thuyết của họ, họ thấy rằng sự tái phân
phối không hiệu quả và clientelism trở thành một chiến lược chính trị tương đối hấp
dẫn trong các tình huống mà sự bất bình đẳng cao và năng suất thấp. Cả hai nghiên
cứu này đều đã cung cấp những dẫn chứng thực nghiệm. Tiếp theo, chúng ta xem xét
một số nghiên cứu thực nghiệm củng cố cho giả thuyết này.
Cùng quan điểm, Alesina et al. (2000) đã lập luận rằng các chính trị gia có thể sử
dụng chính sách tái phân phối trá hình, chẳng hạn như việc làm khu vực công, để phá
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công







Trang 10



vỡ các phe đối lập chính trị thông qua các hệ thống thuế chuyển đổi rõ ràng. Kết quả
thực nghiệm của họ là phù hợp với dự đoán của giả thuyết cho rằng những nhà chính
trị ở các thành phố của Hoa Kì xuất hiện để sử dụng việc làm trong khu vực công như
là một thiết bị tái phân phối. Họ nhận thấy rằng mức độ công chức ở các thành phố
của Hoa Kỳ cao hơn đáng kể so với các thành phố nơi mà sự bất bình đẳng thu nhập
và chia cắt dân tộc cao.
Alesina et al. (2001) kiểm tra khoản trợ cấp cho việc làm khu vực công tại Ý. Họ
giải thích lý do tại sao ở Ý có một số lượng công chức đáng kể ở những vùng miền
Nam nghèo nàn so với các vùng giàu có ở miền Bắc. Họ tính toán khoản chi phí dành
cho trợ cấp bằng cách ước lượng số công chức dư thừa và khoản tiền lương trong các
khu vực nghèo hơn so với một nền kinh tế chuẩn. Họ tính toán rằng khoảng một nửa
số tiền lương cho khu vực công ở phía nam của Ý có thể được xác định là một khoản
trợ cấp. Họ đưa ra kết luận rằng cả hai yếu tố quy mô của khối việc làm công và mức
lương công khai được sử dụng như một công cụ tái phân phối.
Gimpelson và Treisman (2002) phát triển một thử nghiệm hai giai đoạn cho
những nhà điều hành cấp Trung ương và những người đứng đầu địa phương để giải
thích sự khác biệt về việc làm công ở các khu vực tại Nga. Trong mô hình của họ, các
chính trị gia xem việc làm công như một công cụ để tăng sự ủng hộ, và có thể được
xem như là một công cụ cam kết hiệu quả giữa các chính trị gia và cử tri. Một số kết
quả phù hợp với giả thuyết của họ. Một phát hiện thú vị là mức độ của nhân viên khu
vực công at the jurisdiction with an “opposite governor” tends to be higher.
Tóm lại, chúng ta thấy rằng không chỉ phát triển kinh tế có thể ảnh hưởng đến
khối công chức, mà một số động cơ chính trị cũng có tác động. Tuy nhiên, chúng tôi
không biết bất kỳ nghiên cứu xuyên quốc gia nào có kiểm tra thực nghiệm các mô
hình nghiên cứu đặc lợi. Chúng tôi nghi ngờ nguyên nhân là từ việc định lượng của

các biến chính trị. Như chúng tôi sẽ giới thiệu trong chương thực nghiệm của nghiên
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 11



cứu này, chúng ta biết rằng có một số biến giả có thể mô tả các mối quan hệ chính trị
giữa chính quyền trung ương và địa phương. Tuy nhiên, mối quan hệ chính trị này
luôn luôn là một vấn đề mức độ và không phải là một vấn đề của một câu hỏi đóng
với câu trả lời có hoặc không. Do đó, một biến giả có thể gây hiểu nhầm. Vấn đề này
có thể trở nên nghiêm trọng hơn khi chúng ta tiến hành so sánh xuyên quốc gia.
 Giả thuyết bảo hiểm xã hội :
Bên cạnh giả thuyết dựa trên đạo luật Wagner, hầu hết các nghiên cứu chúng tôi
đã thảo luận cho đến nay lập luận rằng sự khác biệt về mức độ việc làm công được
xác định bởi lý do chính trị : chính phủ sử dụng việc làm công như một công cụ để tạo
ra và phân phối lại lợi ích. Rodrik (1996, 1997) đưa ra một giả thuyết để giải thích sự
khác biệt này: công việc của chính phủ tương đối an toàn và được xem như là một
hình thức bảo hiểm để chống lại nguy cơ thiếu sự đa dạng hóa với bên ngoài của nền
kinh tế trong nước. Ông lập luận rằng các quốc gia tiếp xúc nhiều với bên ngoài yêu
cầu cao hơn đối với khối công chức. Mô hình Rodrik năm 1997 cho thấy việc làm khu
vực công có thể đóng một vai trò nâng cao phúc lợi xã hội trong một nền kinh tế chịu
tác động bởi những rủi ro bên ngoài như thế nào. Trong nghiên cứu thực nghiệm của
mình, ông đã sử dụng cơ sở dữ liệu thị trường lao động được tập hợp bởi Ngân hàng
Thế giới và kích thước mẫu tối đa cho mô hình hồi quy của mình là 76 quốc gia (dữ

liệu mặt cắt ngang). In view of this small sample size, he supplements his analysis on
employment with data on real government consumption as a share of GDP. Kết quả
thực nghiệm của ông cho rằng những rủi ro bên ngoài được đo lường bằng thị phần
của tổng nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trên GDP, và có một sự liên
quan mạnh mẽ đến mức độ nhân viên công chức tại các nước. Mặc dù có đủ bằng
chứng cho thấy giả thuyết tìm kiếm đặc lợi không thể bị bác bỏ, như đã thảo luận
trước đó, một động cơ tốt hơn, đó là cung cấp bảo hiểm xã hội thông qua tạo công ăn
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 12



việc làm, những sự tính toán tốt hơn thể hiện sự khác biệt trong khu vực nhà nước
giữa các quốc gia.
Rama (1997) sử dụng các biện pháp tương tự tiếp xúc với rủi ro bên ngoài như
nghiên cứu của Rodrik (1996) nhưng tăng số lượng mẫu và khoảng thời gian (dữ liệu
bảng không cân bằng) để giải thích sự khác biệt về mức độ công chức giữa các nước.
Nghiên cứu thực nghiệm của Rama (1997) cho thấy mức độ hân viên chính phủ làm
tăng đáng kể sự tiếp xúc với rủi ro bên ngoài, như nhận định đầu tiên của Rodrik
(1997).
Một số yếu tố khác được đánh giá là có thể giải thích sự khác biệt về mức độ
công chức giữa các nước. Ví dụ, Kraay và van Rijckeghem (1995) thấy rằng mức độ
của nhân viên chính phủ có liên quan tích cực đến các khoản nợ chính phủ. Bên cạnh
đó, họ cũng nhận thấy rằng chính phủ thuê mướn lao động có tính chất phản chu kì

hoặc theo mức độ đô thị hóa. Áp lực chính trị do tỷ lệ thất nghiệp cao, có thể nâng cao
nhu cầu về việc làm khu vực công như một chính sách phản chu kỳ. Ngoài ra, đô thị
hóa kích thích nhu cầu đối với một số dịch vụ công cộng, chẳng hạn như cơ sở hạ
tầng, trật tự xã hội v.v, điều này dẫn đến tình trạng khu vực nhà nước tăng thêm nhân
viên. Rama (1997) chỉ ra rằng mức độ nhân viên khu vực nhà nước dường như là cao
hơn ở Mỹ Latinh và Nam Á. Giả thiết rằng tất cả các biến giả khu vực bằng 0 bị từ
chối ở mức ý nghĩa 5%. Vì vậy, những điểm đặc trưng vùng miền có thể giải thích
một phần nhất định cho phương sai trong việc làm của chính phủ các nước. Marques-
Sevillano và Rossello-Villallonga (2004) lập luận rằng sự khác biệt có thể được giải
thích bằng tỷ lệ phụ thuộc (được định nghĩa là tỷ lệ dân số có độ tuổi lớn hơn 65 và
nhỏ hơn 16 so với tổng lao động của một quốc gia). Họ nhận ra rằng số lượng nhân
viên công chức tại chính quyền khu vực ở Tây Ban Nha tăng lên cùng với tỷ lệ phụ
thuộc. Điều này là do tỷ lệ phụ thuộc có thể được kết hợp với các nhu cầu về giáo dục
và y tế, dẫn đến chính phủ phải thuê thêm nhân viên để cung cấp dịch vụ đó.
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 13



Việc làm công và sự phân cấp trong các nghiên cứu trước đây
Trong phần này, chúng tôi xem xét các nghiên cứu trước đây nói về sự liên kết
giữa việc làm khu vực công và phân cấp tài chính. Như chúng ta đã đề cập ở trên, hầu
hết các tài liệu trước đó không trực tiếp thảo luận về mối quan hệ này, ngoại trừ
Marques-Sevillano và Rossello-Villallonga (2004). Trong phần đầu của phần này,

chúng tôi xem xét các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa phân cấp quản lý tài
chính và quy mô của khu vực công, được đo bằng tỷ số chi tiêu của chính phủ hoặc
thu nhập so với GDP. Sau đó, chúng tôi giới thiệu nghiên cứu thực nghiệm của
Marques-Sevillano và Rossello-Villallonga (2004), trực tiếp giải quyết các vấn đề tác
động của phân cấp tài chính đối với việc làm trong khu vực công tại Tây Ban Nha.
Tranh luận đầu tiên để giải quyết các tác động của phân cấp tài chính trên quy
mô khu vực có thể được xem xét lại với nghiên cứu của Musgrave (1959). Ông lập
luận rằng dưới một khu vực công phân cấp mạnh mẽ, có khả năng hoạt động hỗ trợ
cho người nghèo bị thu hẹp vì hai lý do. First, sorting out along Tiebout lines implies
relatively income-homogeneous jurisdictions with little scope for redistribution from
the rich to the poor within jurisdictions. Second, the fear of attracting the mobile poor
with relatively generous support programs tends to deter the adoption of such
programs. Cả hai lý do cho thấy phạm vi cho các chương trình cứu trợ này sẽ hẹp hơn
theo một hệ thống tài chính phân cấp tương đối. Nói cách khác, một ngân sách tương
đối lớn hơn đang được mong đợi dưới sự tập trung cao của chính phủ do nhu cầu hỗ
trợ cho người nghèo hiện đang cao.
Giả thuyết của Brennan và Buchanan (1980) – Leviathan - là một lập luận cổ
điển trong các cuộc thảo luận về mối quan hệ giữa phân cấp và quy mô của khu vực
công. Trong mô hình của họ, chính phủ là một thực thể đồng nhất, với mục tiêu chung
là tối đa hóa doanh thu tài chính. Điều này chỉ có thể bị giới hạn bởi những hạn chế
của Hiến pháp. Theo giả thuyết của họ, phân cấp quản lý thuế và các quyết định chi
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 14




tiêu cạnh tranh giữa các đơn vị chính quyền tìm cách thu hút người dân và các nguồn
tài nguyên biến động khác, do đó hạn chế việc truy cập vào các công cụ tài chính và
thuế khác. Trong ngắn hạn, giả thuyết Leviathan ngụ ý rằng, với các điều kiện khác là
như nhau, quy mô của khu vực nhà nước nên thay đổi tỷ lệ nghịch với mức độ phân
cấp quản lý tài chính, phù hợp với lập luận của Musgrave (1959).
Quan điểm của cả Musgrave (1980) và Brennan và Buchanan (1959) dựa trên
quan điểm của hiệu quả phân bổ và họ nhận định sự phân cấp đó sẽ dẫn đến một khu
vực công nhỏ. Tuy nhiên, có một quan điểm gây nhiều tranh cãi về quy mô của khu
vực nhà nước tăng với bối cảnh phân cấp tài chính. Tranh luận đầu tiên của Oates
(1972, 1985) là sự phân cấp quản lý cao hơn có thể dẫn đến một sự tổn thất trong các
nền kinh tế có quy mô nhất định với kết quả là sự tăng lên trong trong chi phí quản lý.
Giả thuyết Leviathan đã bị chỉ trích rằng nó bỏ qua hiệu quả cung cấp. Nếu nền kinh
tế với quy mô trong việc cung cấp các dịch vụ công cộng là đáng kể, phân cấp quản lý
có thể dẫn đến một khu vực nhà nước lớn hơn (Stein, 1998). Hơn nữa, kể từ khi chính
quyền trung ương có nhiều khả năng để cung cấp các cá nhân có trình độ chuyên môn
cao thì có xu hướng chọn lựa điều kiện thăng tiến cao hơn, kết quả hoạt động kém
chất lượng của các quan chức địa phương có thể làm giảm lợi ích của việc phân cấp
quản lý và kết quả là chi phí quản lý công yếu kém, chi phí cung cấp cao hơn chi phí
của các dịch vụ công cộng (Prud'homme, 1995).
Tranh luận thứ hai được thực hiện trên cơ sở sự tham gia chính trị của
Wallis.Wallis lập luận rằng kể từ khi cá nhân có quyền kiểm soát tại địa phương hơn ở
cấp quốc gia, họ sẽ muốn ủy quyền cho khu vực công với một phạm vi chức năng
rộng hơn và trách nhiệm thực hiện ở các cấp độ địa phương cao hơn của chính phủ.
Kết quả là, mức độ làm việc chính quyền địa phương phát triển với mức độ phân cấp
quản lý tài chính. Dựa trên hai tham số này, chúng tôi hy vọng rằng khu vực công có
xu hướng lớn hơn với một mức độ cao hơn của phân cấp tài chính.
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công







Trang 15



Trong thực tế, có một số lượng các nghiên cứu thực nghiệm tốt để kiểm tra giả
thuyết Leviathan, chẳng hạn như Giertz (1983), Oates (1985), Nelson (1987), Wallis
và Oates (1988), Zax (1989) và tạp chí Forbes và Zampelli (1989). Tuy nhiên, không
phải các nghiên cứu này đo lường quy mô khu vực công bằng bằng cách tính số lượng
công chức, bởi vì các giả thuyết Leviathan cho thấy tập trung vào mức doanh thu mà
nhà nước trích ra từ nền kinh tế. Bên cạnh các biến doanh thu liên quan, chẳng hạn
như doanh thu thuế của chính phủ được xem như một phần nhỏ của thu nhập cá nhân
đã được nhắc tới trong tạp chí Forbes và Zampelli (1989), Giertz (1976), Nelson
(1987), Oates (1985) và Zax (1989), các biện pháp khác, chẳng hạn như chi tiêu chính
phủ như một phần nhỏ của thu nhập cá nhân, được sử dụng để đo quy mô của khu vực
công là tốt, ví dụ, Giertz (1983), Oates (1985) và Oates và Wallis (1988). Theo kinh
nghiệm, không có bằng chứng phù hợp để hỗ trợ hoặc bác bỏ giả thuyết Leviathan.
Trong khi Wallis và Oates (1988) và Zax (1989) tìm thấy các dẫn chứng hỗ trợ cho
giả thuyết Leviathan, Giertz (1983), Oates (1985), Nelson (1987) và tạp chí Forbes và
Zampelli (1989) đã bác bỏ nó.
Cho đến nay, có vẻ như chỉ có một nghiên cứu thực nghiệm của Marques-
Sevillano và Rossello-Villallonga (2004), giải thích tại sao số lượng công chức tại
chính quyền khu vực bị ảnh hưởng bởi quá trình phân cấp. Các tác giả xác định quá
trình phân cấp quản lý tài chính như chuyển giao trách nhiệm giáo dục và y tế từ trung
ương đến các chính quyền trong khu vực. Trong nghiên cứu thực nghiệm của họ, họ
nhóm các chính quyền khu vực ở Tây Ban Nha vào thời điểm đó tùy thuộc vào việc

các chính quyền đã nhận hoặc không nhận hai trách nhiệm này để đo lường quá trình
phân cấp tài chính. Các chính phủ trong khu vực khi nhận cả hai trách nhiệm sẽ là
nhóm có phân cấp mạnh mẽ. Các chính phủ trong khu vực chỉ nhận trách nhiệm của
giáo dục được phân vào nhóm có phân cấp trung bình. Nhóm kiểm soát là nhóm các
chính phủ trong khu vực khi không nhận bất cứ trách nhiệm nào.
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 16



Do quá trình phân cấp được bắt đầu ở Tây Ban Nha trong những năm 1980, 17
chính phủ các nước trong khu vực đã được lập ra và nhu cầu việc làm công đã không
hoàn toàn sử dụng các nhân viên chuyển từ chính quyền trung ương. Các dữ liệu từ
nghiên cứu thực nghiệm của họ cho thấy rằng sự gia tăng số lượng công chức ở cấp
chính phủ trong khu vực bằng 1,6 lần mức giảm của cán bộ công ở chính quyền trung
ương trong thời gian 1990-2003. Đó là con số tổng lao động khu vực nhà nước thực
sự tăng lên cùng với quá trình phân cấp quản lý tài chính.
Chúng ta đặc biệt quan tâm đến một trong những kết quả thực nghiệm của họ. Họ
nhận ra rằng tỷ lệ cán bộ khu vực đối với tổng số việc làm là lớn hơn đáng kể trong
khu vực nhận cả 2 trách nhiệm (giáo dục và y tế) từ chính quyền trung ương so với
phần còn lại của khu vực. Mô hình lý thuyết của chúng tôi dưới đây chịu ảnh hưởng từ
kết quả này. Với quá trình phân cấp quản lý tài chính, chính phủ trung ương chuyển
giao một số trách nhiệm cho các chính phủ khu vực, điều này dẫn đến sự gia tăng
nhân viên chính phủ khu vực và việc giảm nhân viên chính phủ trung ương. Tác động

tổng thể của phân cấp tài chính trên tổng số nhân viên khu vực phụ thuộc vào hai hiệu
ứng đối lập. Nếu độ lớn của sự gia tăng lấn át giảm, dẫn đến tổng số lao động khu vực
công tăng lên cùng với quá trình tài chính phân cấp. Trong trường hợp này, chúng tôi
xác nhận Oates (1972, 1985) và lập luận của Wallis rằng phân cấp quản lý có xu
hướng dẫn đến một khu vực công lớn hơn. Mặt khác, nếu độ lớn của sự gia tăng ít hơn
so với giảm, số lượng tổng số lao động khu vực công giảm dần theo quá trình phân
cấp quản lý tài chính. Trong trường hợp này, quan điểm được đề xuất bởi Musgrave
(1959) và Brennan và Buchanan (1980) rằng quá trình phân cấp dẫn đến quy mô
chính phủ gọn nhẹ hơn sẽ được hỗ trợ.
Hơn nữa, chúng tôi cũng quan tâm đến việc xác định một vài yếu tố có thể ảnh
hưởng đến độ lớn của hai tác động này. Trong chương tiếp theo, chúng tôi phát triển
mô hình riêng của chúng tôi với mục đích giải thích rõ sự khác biệt trong việc làm khu
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 17



vực công ở các quốc gia và làm rõ các câu hỏi mà chúng tôi đặt ra là liệu rằng việc
phân cấp tài chính có làm giảm bớt khối việc làm khu vực công hay không
Chi phí công và hiệu ứng không gian trong các bài nghiên cứu trước đây
Như đã nêu trong Chương Một, các nhà hoạch định chính sách có thể bị ảnh
hưởng bởi quốc gia lân cận “neighbors” của họ khi họ thiết kế chính sách của mình,
được gọi là tương tác không gian hoặc các hiệu ứng không gian. Hiện tại có một
nghiên cứu cho thấy rằng hiệu ứng không gian đóng một vai trò quan trọng trong việc

quyết định chính sách tài chính của một quốc gia. Nghiên cứu này đã sử dụng khung
lý thuyết khác nhau để hợp lý hóa sự tồn tại của hiệu ứng không gian, bao gồm những
hiệu ứng lan tỏa (Case et al., 1993.) Và tiêu chuẩn đánh giá cạnh tranh (Besley &
Case, 1995; Bordignon và cộng sự, 2003;. Revelli, 2006). Không phụ thuộc vào cách
giải thích lý thuyết khác nhau, ước tính thực nghiệm của các mô hình này thường đi
theo một khung thực nghiệm thông thường (Case et al., 1989). Các hiệu ứng không
gian có thể được ghi nhận bằng cách sử dụng ma trận khối lượng , được tính toán gần
đúng với tương quan không gian tiềm năng hoặc trong các biến phụ thuộc hoặc trong
các điều khoản lỗi, hoặc cả hai .Trong phần này, chúng tôi tập trung xem xét lại các
tài liệu về tương tác không gian trên phương diện chi tiêu ngân sách, vì nó trực tiếp
liên kết đến các chủ đề nghiên cứu của chúng tôi, mức độ việc làm khu vực công. Hầu
hết các nghiên cứu thực nghiệm trước đó đã sử dụng dữ liệu cấp địa phương để phát
hiện các hiệu ứng đặc biệt, ví dụ, Baicker (2001), Case et al. (1989), Case et al.(1993),
Bordignon (2003) và Revelli (2006). Một số nghiên cứu khác, chẳng hạn như
Redoano (2003) và Mbakile-Moloi (2006) đã sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia để phát
hiện hiệu ứng không gian. Redoano (2003) tìm thấy bằng chứng về hiệu ứng không
gian về chi tiêu công, sử dụng một bộ dữ liệu cho 13 (EU) Liên minh châu Âu trong
giai đoạn 1985 -1995. Chương trình thực nghiệm của ông cho rằng các nước EU thiết
lập chương trình chi tiêu công của họ ở cả cấp tổng hợp và phân tách, phụ thuộc lẫn
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 18




nhau. Mbakile-Moloi (2006) cũng phát hiện bằng chứng về sự tương tác không gian
trên phương diện chi ngân sách tại 24 nước trong khu vực miền Nam châu Phi (Phát
triển Cộng đồng (SADC) )và 11 nước tiểu vùng Sahara Châu Phi
Một điểm thú vị của hai nghiên cứu xuyên quốc gia là cả hai tác giả sử dụng một
bộ dữ liệu "đồng nhất" quốc gia. Ví dụ, 13 quốc gia Liên minh châu Âu đã được sử
dụng trong ước tính thực nghiệm Redoano (2003) tất cả đều là các nước OECD.
Trong khi đó, 11 quốc gia SSA và 24 quốc gia SADC được sử dụng trong ước tính
thực nghiệm Mbakile-Moloi (2006) là các nước đang phát triển hoặc kém phát triển.
Tầm quan trọng của quan sát này là với một bộ dữ liệu "đồng nhất", sự hiện diện của
hiệu ứng không gian có thể không có gì đáng ngạc nhiên vì nó hữu ích hơn cho các
nhà làm chính sách của một quốc gia bị ảnh hưởng hoặc đi theo các chính sách của
nước láng giềng với mức GDP tương tự hoặc nền cơ sở hạ tầng tương đương. Ngoài
ra còn có một cơ hội lớn hơn là vì hiệu ứng không gian có thể được kết hợp với các
yếu tố phổ biến khác nhưng là những yếu tố không quan sát được. Mặt khác, hiệu ứng
không gian có thể không tồn tại giữa hai nước trong cùng một nhóm nhưng tồn tại tại
2 nước khác nhóm, ví dụ, một trong số đó là OECD và nước kia là nước không thuộc
OECD hoặc một phát triển và đang phát triển khác. Điều này là do có sự khác biệt
đáng kể trong tổ chức, cơ sở hạ tầng và nhiều thứ khác giữa hai quốc gia này, hiệu
ứng lan tỏa không thể diễn ra và, do đó, hiệu ứng không gian có thể không xảy ra. Đặc
biệt, ở nhiều nước đang phát triển, các chính trị gia không phải chịu trách nhiệm trước
cử tri, và, do đó, sự cạnh tranh tiêu chuẩn đánh giá có thể không cần thiết. Cả hai tham
số đề nghị sử dụng một giới hạn địa lý hay khoảng cách để phát hiện hiệu ứng không
gian giữa các quốc gia có thể không thích hợp nếu tập dữ liệu bao gồm cả các nước
OECD và không thuộc OECD hoặc các nước phát triển và đang phát triển. Trong
nghiên cứu này, dữ liệu của chúng tôi bao gồm cả các nước OECD và các nước ngoài
OECD, do đó, các phương pháp thực nghiệm sử dụng cho một ma trận khối lượng trở
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công







Trang 19



nên rất quan trọng. Trong nghiên cứu thực nghiệm của chúng tôi, chúng tôi chia các
nước thành sáu nhóm: châu Phi, châu Á, Đông Âu và Liên Xô cũ, châu Mỹ Latinvà
vùng Caribê, Trung Đông và Bắc Phi, và OECD.Các nước trong cùng một nhóm có
thể có nền văn hóa tương tự hoặc nền kinh tế xã hội, và có nhiều khả năng ảnh hưởng
lẫn nhau thông qua các hiệu ứng không gian. Trong một bối cảnh như vậy, có hai
quốc gia là trong cùng một nhóm, hai quốc gia này được xem là hàng xóm, độc lập
cho dù họ có chung đường biên giới hay không. Một khi giả thuyết ma trận trọng
lượng được quyết định, nó sẽ được sử dụng để phát hiện các hiệu ứng không gian về
mức độ việc làm khu vực công cho tất cả các nước trong bộ dữ liệu của chúng tôi. Ma
trận trọng lượng và kết quả thực nghiệm của chúng tôi được thể hiện trong Chương
Bốn.
















Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 20



CHƯƠNG III : MÔ HÌNH LÝ THUYẾT

Trong chương này, chúng tôi phát triển mô hình lý thuyết mở rộng dựa trên
nghiên cứu của Gimpelson và Treisman (2002). Chúng tôi mô hình hóa ngân sách
công nhằm xác định số nhân sự khu vực công như một trò chơi hai tầng thi đấu giữa
chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Các chính trị gia trong mô hình
này luôn tìm cách để tối đa hóa lợi ích của mình (tối đa hóa hàm hiệu dụng). Theo
Niskanen (1968), một số biến có thể gộp vào hàm hiệu dụng của công chức, chẳng
hạn như tiền lương, danh tiếng và đầu ra của cơ quan. Trong mô hình, chúng tôi giả
định rằng hàm hiệu dụng của công chức bao gồm hai thành phần: mức độ cung cấp
hàng hóa công cho người dân và chênh lệch/thâm hụt ngân sách chính quyền địa
phương. Lợi ích của công chức có quan hệ đồng biến với mức độ cung cấp hàng hóa
công và nghịch biến với thâm hụt ngân sách địa phương.
Chúng tôi giả định có hai loại hàng hóa công: hàng hóa công địa phương và hàng
hóa công quốc gia. Hàng hóa công địa phương chỉ được cung cấp cho các cư dân
trong một khu vực cụ thể theo quyết định của viên chức đứng đầu địa phương đó.

Hàng hóa công quốc gia được cung cấp cho người dân trên cả nước theo quyết định
của Trung ương. Hàm sản xuất của cả hai loại hàng hóa này đều là hàm Cobb-Douglas
với hai đầu vào: lao động (nhân sự khu vực công) và nguồn vốn, có thể được thể hiện
dạng toán học như sau:

Trong đó, m là nhân sự khu vực công và K là vốn. Chúng tôi tiếp tục giả định
rằng công nghệ sản xuất hàng hóa công địa phương ở mỗi khu vực đều như nhau. Do
đó, hai hệ số sản xuất, α và β được cố định như nhau đối với mọi địa phương trên cả
Phân cấp tài chính và việc làm khu vực công






Trang 21



nước. Tất cả các khoản chi tiêu công dùng để trả lương cho nhân viên và các chi phí
thuê vốn.
Mô hình này được thiết lập như sau. Giả sử có một quốc gia bao gồm một chính
quyền trung ương với một người điều hành và n khu vực pháp lý. Tổng nguồn lực
quốc gia ở đất nước này là , được tài trợ bởi một tỷ lệ thuế thu nhập t.Y, trong đó t là
thuế suất cố định và Y là GDP thực tế. Trong giai đoạn 1, chính quyền trung ương
thiết lập mức độ phân quyền ngân sách (θ) cho các chính quyền địa phương với một tỷ
trọng nhất định của và phần còn lại (1- θ) được chính quyền trung ương giữ lại.
Chúng tôi biểu thị nguồn lực được phân bổ cho địa phương i là ri với . Do
đó, những ràng buộc/hạn chế ngân sách cho trung ương và chính quyền địa phương
lần lượt là (1- θ). và . Trong giai đoạn 2, người đứng đầu địa phương i nhận phần

chuyển giao và thiết lập số lượng nhân sự công theo thẩm quyền của mình, biểu
diễn bằng đại lượng mi. Theo Bird và Vaillancourt (1998), quá trình phân quyền ngân
sách là một sự ủy quyền: người đứng đầu địa phương có thẩm quyền quyết định mức
độ cung cấp hàng hóa công nhưng các quyết định tăng thuế thì bị giới hạn. Như chúng
tôi đã giả định, hàm hiệu dụng của công chức bao gồm mức độ cung cấp hàng hóa
công địa phương cho người dân và thâm hụt ngân sách địa phương, nó tỷ lệ thuận với
mức độ cung cấp hàng hóa công địa phương và tỷ lệ nghịch với thâm hụt ngân sách.
Hàm hiệu dụng của người đúng đầu địa phương i là E(Vi),

Trong đó, mi, f(mi) và ci lần lượt là số lượng nhân sự công, hàm sản xuất của
hàng hóa công địa phương và tỷ lệ thâm hụt ngân sách địa phương i. Tỷ lệ thâm hụt

×