MỤC LỤC
*Nguồn gốc của TNC 9
Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia đi từ tích tụ và tập trung sản xuất, rồi hình
thành các công ty cổ phần, các công ty kinh doanh lớn như sau:Quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ quyền lực kinh tế. Tích tụ và tập
trung sản xuất tạo ra những công ty cực lớn bao gồm trong đó rất nhiều các công ty với
công ty mẹ đứng đầu và các công ty con có quan hệ phụ thuộc về tài chính, kỹ thuật,
với công ty mẹ. Sự thâu tóm và kiểm soát về mọi mặt như tài chính, kỹ thuật của công
ty mẹ đối với công ty con đã tạo điều kiện thuận lợi để tăng quy mô sản xuất và cho tư
bản sinh lời.Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất dẫn đến sự hình thành các tổ chức
độc quyền. Sự liên kết theo chiều dọc và chiều ngang được đẩy mạnh dẫn đến quá trình
liên kết đa ngành và bành trướng quyền lực. Từ đó dẫn đến hình thành các công ty
xuyên quốc gia với mạng lưới thị trường rộng khắp.Quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất trong nông nghiệp ngày càng được đẩy mạnh dẫn đến việc xuất hiện các hình thức
công ty liên hợp nông – công nghiệp, nông – thương nghiệp.Cùng với sự tác động của
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã làm cho cấu tạo hữu cơ tăng lên và mối liên hệ
giữa công – nông nghiệp ngày càng phát triển.Như vậy quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất đã tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành trướng, giúp cho các tập đoàn tư bản có khả
năng hiện thực vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thực hiện việc đầu tư vào các nước khác
dưới nhiều hình thức, thỏa mãn mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao. Trên cơ sở đó hình
thành các công ty xuyên quốc gia 9
*Khái niệm của TNC 9
Theo khái niệm chung nhất, công ty xuyên quốc gia là công ty có quá trình sản xuất
kinh doanh vượt ra khỏi biên giới quốc gia và có quan hệ kinh tế chặt chẽ với nhiều
nước thông qua việc thiết lập các chi nhanh ở nước ngoài 9
Cũng có quan niệm cho rằng công ty xuyên quốc gia là công ty tư bản độc quyền của tư
bản thuộc về chủ tư bản của một nước nhất định nào đó.Theo quan điểm này, người ta
nhấn mạnh tới tính chất sở hữu và tính quốc tịch của tư bản. Chủ tư bản ở một nước cụ
thể nào đó có công ty mẹ và thực hiện kinh doanh trong và ngoài nước bằng cách lập các
công ty con ở nước ngoài 9
Gần đây, UNCTAD đã đưa ra định nghĩa chung như sau: TNC bao gồm các công ty mẹ
và công ty con của chúng ở các nước trên thế giới. Công ty mẹ kiểm soát toàn bộ tài sản
của chúng ở nước sở hữu hơn là ở nước ngoài. Công ty con là công ty hoạt động ở nước
ngoài dưới sự quản lý của công ty mẹ và thường được gọi chung là chi nhánh ở nước
ngoài 10
Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu các công ty xuyên quốc gia là một cơ cấu tổ chức
kinh doanh quốc tế, dựa trên cơ sở kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của nhiều
thực thể kinh doanh quốc tế với quá trình phân phối và khai thác thị trường quốc tế
nhằm đặt được kết quả tối ưu, trên cơ sở đó thu được lợi nhuận độc quyền cao 10
* Đặc điểm của TNC 10
- Tính đa sở hữu: tính đa sở hữu của tập đoàn phản ánh quá trình sản xuất, kinh doanh.
Mặc dù nhiều chủ sở hữu nhưng thường có một chủ sở hữu nắm vai trò công ty mẹ và có
quyền chi phối công ty. Chính đặc điềm về sở hữu này đã phân biệt TNC với MNCs.
Nếu MNCs là công ty tư bản độc quyền nhưng tư bản sở hữu của công ty là của hai hay
nhiều nước đầu tư và thực hiện thiết lập công ty chi nhánh nước ngoài tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh quốc tế thì TNC lại là công ty tư bản độc quyền mang quốc
tịch của một nước nhất định thực hiện kinh doanh nước ngoài bằng thiết lập công ty xí
nghiệp phụ thuộc 10
- Cơ cấu tổ chức: Gồm 2 bộ phận: Công ty mẹ và công ty con 10
Công ty mẹ: Là công ty mang quốc tịch của nước mẹ có trụ sở ở nước đó 10
Công ty con hay còn gọi là công ty chi nhánh nước ngoài: Gồm các hang, xí nghiệp
công ty do công ty mẹ cắm ở nước ngoài dưới các hình thức khác nhau không phân biệt
thức bậc 10
- Quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng: với những chi nhánh đặt tại nhiều quốc gia trên
thế giới, điều đương nhiên TNC phải có một tiềm lực vốn vô cùng lớn để có thể đầu tư
hay mua lại và sáp nhập, đặt ảnh hưởng và chi phối của mình vượt qua biên giới quốc
gia 10
- Lực lượng lao động của công ty rất rộng lớn và ở mọi trình độ: từ những quản lý cấp
cao, các nhà phát minh sáng chế cho đến những công nhân bình thường, giúp TNC
không rơi vào vấn đề thiếu hụt nguồn lực lao động 10
- Cạnh tranh và độc quyền : độc quyền ra đời thống trị trong nền kinh tế tư bản nhưng
không vì thế mà thủ tiêu cạnh tranh mà còn làm cho cạnh tranh gay gắt và quyết liệt
hơn. Chúng tồn tại song song và thống nhất với nhau một cách biện chứng và là hai mặt
đối lập giúp cho TNC luôn đi theo chiều hướng phát triển không ngừng 10
- Cắm nhánh: 11
+ Con đường cắm nhánh : có rất nhiều con đường để TNC đầu tư vào nước ngoài nhưng
FDI là con đường cắm nhánh sâu và hiệu quả nhất. Bằng các hình thức rất thường gặp
hiện nay như : GI, M&A hay BOT,…, TNC hình thành được con đường cắm nhánh của
mình một cách sâu rộng nhất 11
+ Khu vực cắm nhánh: cắm nhánh ở hầu hết các quốc gia, khu vực trên thế giới 11
+ Ngành cắm nhánh : thành phần ngành phong phú và đa dạng, hình thành ngày càng
nhiều TNC đa ngành đa lĩnh vực 11
* Bản chất của TNC 11
Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tư bản đã dẫn đến những biến đổi quan trọng về
lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất mà khâu quan trọng nhất là quan hệ sở
hữu. Do đó khi nghiên cứu về bản chất của các công ty xuyên quốc gia chúng ta nghiên
cứu trên hai mặt, đó là về hình thức sở hữu và tổ chức quản lý tại các công ty xuyên
quốc gia 11
- Về hình thức sở hữu: Kể từ khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ mạnh mẽ
đã tạo ra những sự thay đổi các quan hệ pháp lý của các chủ sở hữu trong các công ty
xuyên quốc gia. Ngày nay, hình thức sở hữu tại các công ty xuyên quốc gia tồn tại chủ
yếu dưới hai nhìn thức sở hữu sau: 11
Thứ nhất, hình thức sở hữu độc quyền siêu quốc gia, đây là hình thức sở hữu hỗn hợp
đã được quốc tế hoá. Hình thức sở hữu này mang tính khách quan tạo nên bởi quá trình
tích tụ, tập trung hoá và xã hội hoá sản xuất trên quy mô quốc tế của chủ nghĩa tư bản,
dưới sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và của
các quy luật cạnh tranh, quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. 11
Thứ hai, hình thức sở hữu hỗn hợp, hình thức sở hữu này được tạo ra do sự thay đổi về
căn bản địa vị và vai trò của những người công nhân, trí thức làm việc trực tiếp trong
các ngành nghề khác nhau, đặc biệt là các ngành nghề có hàm lượng khoa học và công
nghệ cao và nó có tác động lớn tới chất lượng của lao động và sản xuất. 11
Như vậy, dù theo hình thức sở hữu nào thì các công ty xuyên quốc gia cũng không còn
là sở hữu của một người hay một nước mà là sở hữu hỗn hợp quốc tế. Nhưng trong đó
sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở hữu của những người lao động
chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ 11
2
+ Về tổ chức quản lý: việc tổ chức quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế đã dịch
chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hoá hàng loạt sang kiểu sản xuất loạt nhỏ và linh
hoạt theo đơn đặt hàng. Đồng thời có sự dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được
liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết kiểu mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn
vị kinh tế trong nước và nước ngoài. Điều đó đã làm xuất hiện sự liên kết mới giữa các
công ty xuyên quốc gia, đó là kiểu liên kết mà trong đó có các vệ tinh xoay quanh một
công ty gốc tạo nên một mạng lưới phủ lên thị trường các nước. Phương thức tổ chức
quản lý sản xuất tại các công ty xuyên quốc gia ngày nay luôn biến đổi theo các xu thế
sau: 12
Thứ nhất là phi hàng hoá và đa dạng hoá các sản phẩm: việc tổ chức quản lý sản xuất
các sản phẩm được tiến hành theo loạt nhỏ hay đơn chiếc theo đúng yêu cầu và thị hiếu
đa dạng của khách hàng. 12
Thứ hai là phi chuyên môn hoá: việc sản xuất sản phẩm được tổ chức quản lý theo
phương thức cấu tạo tổ hợp các khối cấu kiện, phụ kiện 12
Thứ ba là phi tập trung hoá: quá trình sản xuất được phân bố và được tổ chức quản lý
trên diện rộng trong các chi nhánh và đơn vị sản xuất nhỏ và vừa với các nguồn nhân
lực, vật lực và tài lực phân tán trên qui mô quốc gia và quốc tế. 12
Thứ tư là tổ chức quản lý từ xa: dưới tác động của sự phát triển ngành khoa học viễn
thông, tổ chức quản lý từ xa ngày càng được ứng dụng rộng rãi, đặc biệt là tại các công
ty xuyên quốc gia. 12
Thứ năm là quốc tế hoá và toàn cầu hoá hoạt động tổ chức quản lý 12
Như vậy việc tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại và
dịch vụ trong các công ty xuyên quốc gia đã được quốc tế hoá và đang được toàn cầu
hoá trong quá trình thâm nhập qua lại giữa các hoạt động kinh tế và nền kinh tế của các
quốc gia trên quy mô thế giới 12
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các TNC, tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu
thì các phân loại phổ biến nhất hiện nay là phân loại theo trình độ phát triển, là sự thay
đổi về hình thức sở hữu tư bản của các TNC 12
+ Cartel: loại hình liên kết giữa các công ty độc quyền trong cùng một ngành, có thể
cùng nhau ký hiệp định lập ra thị trường tiêu thụ, xác định giá cả hang hóa và số lượng
bán ra nhằm mục tiêu hạn chế cạnh tranh, phân chia lợi ích cụ thể 12
+ Syndicate: cũng là loại hình liên kết giữa các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, các bên
cùng ký hiệp định liên quan đến việc mua nguyên vật liệu với giá thấp, bán sản phẩm
với giá cao. Các xí nghiệp vẫn độc lập về sản xuất nhưng không còn độc lập về thương
mại 12
+ Trust: loại hình mà các xí nghiệp sản xuất cùng một mặt hàng hoặc ở các ngành kế
cận nhau có quan hệ chặt chẽ, hợp nhất lại thành một tổ chức. Các xí nghiệp sau khi đã
hợp nhất không còn độc lập về mọi mặt sản xuất, thương mại và luật pháp 13
+ Concern: là một trong những hình thức phổ biến của TNC hiện đại. Mối liên kết giữa
các xí nghiệp trong Concern chủ yếu là liên kết ngang giữa ít nhất 2 công ty lớn kinh
doanh độc lập, có tư cách pháp nhân trong một ngành sản xuất hoặc giữa các ngành có
mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế và kỹ thuật 13
+ Conglomerate : là hình thức liên kết công ty theo chiều dọc, công ty lớn thâm nhập
vào công ty, xí nghiệp của các ngành sản xuất khác không có sự ràng buộc về kỹ thuật
sản xuất kinh doanh, mà chủ yếu là liên hệ về tài chính. 13
Việc phân loại các TNC theo các hình thức trên từ Cartel đến Conglomerate phản ánh
sự giảm dần tính chất sở hữu tư nhân và sự tăng lên tính chất tập thể trong sở hữu tư
bản. Các công ty tư bản độc quyền vốn đã tồn tại dưới hình thức những loại hình cơ bản
này ở phạm vi quốc gia, nhưng do quá trình hoạt động phát triển, chúng buộc phải vượt
ra khỏi biên giới quốc gia và hoạt động trên phạm vi quốc tế 13
3
Toàn cầu hóa là một xu hướng đã và đang diễn ra trong nhiều lĩnh vực kinh tế - chính trị
- văn hóa, xã hội. Theo định nghĩa của Ủy ban Châu Âu năm 1997: “Toàn cầu hóa có thể
được định nghĩa như là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều
nước khác nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau” 13
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh
tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ
chức hay cá nhân ở góc độ văn hóa kinh tế….trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm
vi kinh tế, toàn cầu hóa hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói
chung và tự do hóa thương mại hay “tự do thương mại” nói riêng. 13
Tại hội thảo “Hội nhập kinh tế quốc tế - những vấn đề lý luận và thực tiễn” diễn ra tại
Hà Nội vào ngày 11-03-2004 các đại biểu đã đồng thuận ý kiến với một khái niệm được
tập hợp từ các khái niệm khác nhau về toàn cầu hóa kinh tế như sau: “Toàn cầu hóa kinh
tế là một quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới và các quan hệ kinh tế
quốc tế vượt khỏi biên giới một quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu, trong đó, hàng
hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động vận động thông thoáng. Mối quan hệ giữa các
quốc gia và khu vực được vận hành theo “luật chơi” chung được xác lập giữa các thành
viên trong cộng đồng quốc tế; của sản xuất ngày càng tăng, các nền kinh tế ngày càng có
mối quan hệ mật thiết với nhau và tùy thuộc lẫn nhau” 13
*Đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế: 14
Sự ra đời của TCHKT là một xu thế tất yếu, khách quan, không thể đảo ngược, nhưng
không thuận buồm xuôi gió mà đầy mâu thuẫn. TCHKT mở rộng biên giới kinh tế vượt
biên giới lãnh thổ quốc gia. Mỗi nước tham gia TCHKT một mặt phải thích nghi với
những quy tắc chung, phải từ bỏ một số quyền dân tộc nào đó; mặt khác vẫn phải bảo vệ
chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng của dân tộc. 14
TCHKT thúc đẩy nền kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh nhưng phân phối lợi ích lại
ngày càng chênh lệch. Các nước phát triển muốn dựa vào ưu thế về nhiều mặt để duy trì
trật tự kinh tế thế giới hiện tại, trong khi các nước đang phát triển lại muốn thiết lập một
trật tự kinh tế quốc tế mới công bằng, cùng có lợi 14
Các chủ thể cùng hợp tác và đấu tranh, cùng tham gia hoạch định các thể chế về
TCHKT. Đó là các quốc gia có chủ quyền, các tổ chức kinh tế khu vực, các tổ chức kinh
tế quốc tế và TNC. Mặc dù ưu thế thuộc về các nước phát triển nhất và TNC lớn nhất, họ
chi phối các quyết sách của các tổ chức quốc tế, nhưng không phải họ có thể mặc sức
làm mưa làm gió theo ý chí chủ quan của họ. 14
Kinh tế phi vật thể ngày càng thoát ly kinh tế hiện vật và tồn tại độc lập khiến cho
TCHKT rất dễ bị xáo động bởi các cuộc khủng hoảng.Hiện có khoảng 2% giao dịch tài
chính, tiền tệ có quan hệ với hàng hóa và dịch vụ. Cái gọi là “kinh tế bong bóng” tăng
lên, trở thành một nhân tố quan trọng làm cho hệ thống tài chính – tiền tệ toàn cầu dễ bị
xáo động. 14
Xu thế khu vực hóa tiếp tục diễn ra cùng với xu thế toàn cầu hóa. Liên kết kinh tế khu
vực diễn ra từ thấp đến cao, từ khu vực ưu đãi thuế quan, khu vực mậu dịch tự do, đồng
minh thuế quan, thị trường chung hay cộng đồng kinh tế và liên minh kinh tế. Xu thế đa
cực hóa thế giới: Toàn cầu hóa do các nước lớn chi phối, dẫn đến sự giành giật lợi ích
giữa các trung tâm kinh tế lớn và hình thành xu hướng đa cực hóa kinh thế giới. Toàn
cầu hóa làm tăng thêm sự biến động thực lực và thay đổi so sánh lực lượng giữa các
nước lớn. 14
Phân cực giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển vẫn sâu sắc nhưng thế và
lực của các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Xét về các mặt: mức độ tham gia
TCHKT, mức độ chiếm giữ thị trường thế giới, sức cạnh tranh và khả năng chế ngự
những nguy cơ của thị trường…các nước đang phát triển kém xa các nước phát triển. .15
4
Sự phân hóa giữa các nước đang phát triển vẫn tiếp diễn. Những năm qua các giao dịch
kinh tế giữa các nước đang phát triển không ngừng tăng lên, góp phần giảm bớt sự lệ
thuộc vào các nước phát triển, nhưng sự phân hóa giữa các nước đang phát triển vẫn tiếp
diễn 15
Cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, kinh tế tri thức xuất hiện ở
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao sẽ thúc đẩy nhanh hơn TCHKT và tác động
mạnh các lĩnh vực xã hội, văn hóa, chính trị 15
*Bản chất của toàn cầu hóa: 15
Toàn cầu hóa có bản chất hai mặt.Một mặt, nó là xu thế khách quan như kết quả của sự
phát triển cao của lực lượng sản xuất và các yếu tố vật chất khác.Mặt khác toàn cầu hóa
kinh tế cũng là một quá trình kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội bị một số thế lực tư bản
chi phối. Chính sự đan xen giữa hai mặt, giữa cái chủ quan và khách quan đã khiến cho
toàn cầu hóa về bản chất trở thành một quá trình chứa đựng đầy mâu thuẫn, chứa đựng
cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.Như vậy, toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên
mạnh mẽ những mối liên hệ, sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các nước và
khu vực. 15
Một số xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới ( Xu hướng phát triển toàn cầu hóa) 15
Toàn cầu hóa kinh tế là kết quả của quá trình quốc tế hóa diễn ra lâu dài kể từ chủ nghĩa
tư bản canh tranh tự do đến chủ nghĩa tư bản độc quyền , đế quốc và cuộc khủng hoảng
của nó .Trong “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, Mác và Ănghen đã chỉ rõ tính quy luật
và dự báo triển vọng tính quy luật của toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa từ những điều kiện
chủ nghĩa tư bản vừa mới trở thành một hình thái kinh tế xã hội thống trị. Trong tác
phẩm “ Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” , V.Lênin cũng đã
làm rõ thêm triển vọng của toàn cầu hóa khi xem xét quá trình chủ nghĩa tư bản cạnh
tranh tự do chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, thời đại thống trị của chủ nghĩa tư
bản tài chính. Theo V.Lênin, chủ nghĩa tư bản đã hình thành thị trường toàn thế giới từ
lâu, song chỉ đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa mà
nòng cốt là tư bản tài chính, mới bủa lưới bao trùm lên đầu tất cả các nước khi mà độc
quyền thống trị, bên cạnh thương mại giữa các nước, xuất khẩu tư bản nổi lên hàng đầu,
các liên minh độc quyền và các đại cường quốc phân chia thế giới. Đến đây, trong chừng
mực nhất định, có thể nói nền kinh tế toàn cầu tư bản chủ nghĩa đầu tiên đã được hình
thành. Nó tồn tại trong những thập niên đầu của giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, song tính
toàn cầu của nó còn chưa phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, những
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia còn bị hạn chế, gắn liền với sự tồn tại của hệ thống
thuộc địa đóng kín của mẫu quốc. 15
Tuy nhiên, kể từ Cách mạng Tháng Mười Nga, sự hình thành và phát triển của hệ thống
XHCN do Liên Xô đứng đầu, cũng như chính sách bao vây cấm vận chống các nước
XHCN do các nước đế quốc thực hiện, đã phá vỡ nền kinh tế toàn cầu tư bản chủ nghĩa.
Từ đó, xuất hiện hai hệ thống kinh tế quốc tế gần như đóng kín và đối chọi với nhau mà
một bên là các nước tư bản chủ nghĩa, bên kia là các nước XHCN 16
Mặc dù vậy, trong những thời kỳ hòa hoãn và cùng tồn tại hòa bình được xác lập, đã
manh nha một nền kinh tế toàn thế giới bao trùm cả hai hệ thống dựa trên những quan hệ
kinh tế qua lại, trao đổi, phân công, hợp tác, cạnh tranh chứ không cô lập. Trong khi đó,
trong phạm vi thế giới tư bản chủ nghĩa, quốc tế hóa đời sống kinh tế vẫn không ngừng
phát triển và kể từ những năm 1980 trở lại đây, quốc tế hóa kinh tế đã đạt tới đỉnh cao
dưới tác động của những thành quả của cách mạng khoa học công nghệ, đã khiến cho
toàn cầu hóa kinh tế trở thành một đòi hỏi hiện thực 16
Tóm lại, toàn cầu hóa kinh tế bắt nguồn từ những cơ sở hiện thực khách quan trong đời
sống nhân loại mà thực chất của chúng là những minh chứng tất yếu cho một quá trình
không thể đảo ngược 16
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy nền kinh tế của các quốc gia phát
triển và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn, dẫn đến những thay đổi sâu sắc
trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thế giới.Nhắc tới quá trình toàn
cầu hóa không thể không nhắc tới hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế
của TNC, những nhân tố quan trọng tác động tới quá trình này.Sự xuất
hiện của các công ty xuyên quốc gia đã được đánh giá là một sự tiến bộ
của lịch sử. TNC có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thế giới bởi TNC
không chỉ tác động đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung
mà còn tác động đến sự phát triển của nền kinh tế từng quốc gia nói
riêng. Sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam đã đem
đến sự khởi sắc cho nền kinh tế, nhưng bên cạnh đó chúng cũng đem
lại một số tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Để
nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty xuyên quốc gia trong tiến
trình toàn cầu hóa thì trước hết cần phải tìm hiểu, nghiên cứu về các
công ty xuyên quốc gia, đặc biệt đi sâu phân tích về bản chất và vai trò
của chúng. Trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị nhằm thu hút và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các công ty xuyên quốc gia trong toàn cầu
hóa kinh tế tại Việt Nam. Vì thế, nhóm tác giả đã chọn đề tài: “Vai trò
của các công ty xuyên quốc gia trong toàn cầu hóa kinh tế” làm
chuyên đề nghiên cứu cho nhóm.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới đề tài, nói chung đã có ở nhiều công trình nghiên cứu ở cấp
độ quốc gia cũng như quốc tế. Ở Việt Nam có thể kể đến những công trình
nghiên cứu về TNC như sau:
Nguyễn Khắc Thân (1995), Các công ty xuyên quốc gia hiện đại, Nxb
Chính trị quốc gia.
Nguyễn Khắc Thân (1991), Ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia
đối với nền kinh tế các nước ASEAN, ( Luận án Tiến sĩ kinh tế)
Lê Văn Sang- Trần Quang Lâm (1996), Các công ty xuyên quốc gia
(TNC) trước ngưỡng của thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội.
Học viện quan hệ quốc tế (1996), Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên
quốc gia ở các nước đang phát triển, Nxb Chính trị quốc gia.
6
Tuy nhiên, hiện nay, ở Việt Nam đặc biệt trong giai đoạn hội nhập những
năm gần đây, chưa có đề tài nào cập nhật đầy đủ và sâu rộng, chưa có một công
trình nào nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về vai trò của
các công ty xuyên quốc gia trong toàn cầu hóa kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: chuyên đề được tiến hành nghiên cứu nhằm mục
đích phân tích sự hình thành và phát triển của các TNC để thấy được vai trò của
chúng trong phát triển nền kinh tế quốc gia, khu vực và thế giới trong điều kiện
toàn cầu hóa, khu vực hóa hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp để nâng cao
vai trò của các TNC đối với Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa.
Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được những mục tiêu đề ra, chuyên đề cần
phải làm rõ bốn vấn đề:
Phân tích nguồn gốc, đặc điểm và một số mô hình TNC trên thế giới
Tìm hiểu thực trạng vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong quá trình
toàn cầu hóa.
Dựa trên phân tích thực trạng, khái quát cơ hội và thách thức của các TNC
đối với Việt Nam từ đó rút ra các bài học nghiệm cho Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đối với chuyên đề này, đối tượng nghiên cứu là vai
trò của TNC trong toàn cầu hóa kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu: chuyên đề tập trung phân tích các vai trò của các
TNC đối với toàn cầu hóa kinh tế, tập trung trong giai đoạn từ 1995 đến 2012,
đây là thời kỳ được đánh dấu bởi sự ra đời của WTO mở đầu cho sự phát triển
mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề được sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu gồm:
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp
phân tích tổng hợp để phân tích làm rõ vai trò của TNC trong toàn cầu hóa kinh
tế. Ngoài ra, chuyên đề sử dụng phương pháp thống kê học để xử lý số liệu.
6. Dự kiến đóng góp của chuyên đề
Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về TNC trong tiến trình
toàn cầu hóa kinh tế. Thông qua nghiên cứu tình hình nền kinh tế, đề tài phân
tích làm rõ vai trò của TNC đối với thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, phát
triển nguồn nhân lực trong toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó, đưa ra các cơ hội, thách
7
thức đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ và rút ra các bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
7. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu làm 3 chương với
nội dung như sau:
Chương 1: Lý luận chung về các công ty xuyên quốc gia và toàn cầu hóa
kinh tế
Chương 2: Vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong toàn cầu hóa
kinh tế
Chương 3: Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam trong
toàn cầu hóa kinh tế
8
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
VÀ TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
1.1 Tổng quan về công ty xuyên quốc gia
1.1.1 Nguồn gốc và khái niệm TNC
*Nguồn gốc của TNC
Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia đi từ tích tụ và tập trung sản xuất,
rồi hình thành các công ty cổ phần, các công ty kinh doanh lớn như sau:Quá
trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ quyền
lực kinh tế. Tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty cực lớn bao gồm
trong đó rất nhiều các công ty với công ty mẹ đứng đầu và các công ty con có
quan hệ phụ thuộc về tài chính, kỹ thuật, với công ty mẹ. Sự thâu tóm và
kiểm soát về mọi mặt như tài chính, kỹ thuật của công ty mẹ đối với công ty
con đã tạo điều kiện thuận lợi để tăng quy mô sản xuất và cho tư bản sinh
lời.Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất dẫn đến sự hình thành các tổ chức
độc quyền. Sự liên kết theo chiều dọc và chiều ngang được đẩy mạnh dẫn đến
quá trình liên kết đa ngành và bành trướng quyền lực. Từ đó dẫn đến hình
thành các công ty xuyên quốc gia với mạng lưới thị trường rộng khắp.Quá
trình tích tụ và tập trung sản xuất trong nông nghiệp ngày càng được đẩy mạnh
dẫn đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hợp nông – công nghiệp,
nông – thương nghiệp.Cùng với sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ
thuật đã làm cho cấu tạo hữu cơ tăng lên và mối liên hệ giữa công – nông
nghiệp ngày càng phát triển.Như vậy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đã
tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành trướng, giúp cho các tập đoàn tư bản có khả
năng hiện thực vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thực hiện việc đầu tư vào các
nước khác dưới nhiều hình thức, thỏa mãn mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao.
Trên cơ sở đó hình thành các công ty xuyên quốc gia.
*Khái niệm của TNC
Theo khái niệm chung nhất, công ty xuyên quốc gia là công ty có quá trình sản
xuất kinh doanh vượt ra khỏi biên giới quốc gia và có quan hệ kinh tế chặt chẽ
với nhiều nước thông qua việc thiết lập các chi nhanh ở nước ngoài.
Cũng có quan niệm cho rằng công ty xuyên quốc gia là công ty tư bản độc
quyền của tư bản thuộc về chủ tư bản của một nước nhất định nào đó.Theo
quan điểm này, người ta nhấn mạnh tới tính chất sở hữu và tính quốc tịch của
tư bản. Chủ tư bản ở một nước cụ thể nào đó có công ty mẹ và thực hiện kinh
doanh trong và ngoài nước bằng cách lập các công ty con ở nước ngoài.
9
Gần đây, UNCTAD đã đưa ra định nghĩa chung như sau: TNC bao gồm các
công ty mẹ và công ty con của chúng ở các nước trên thế giới. Công ty mẹ
kiểm soát toàn bộ tài sản của chúng ở nước sở hữu hơn là ở nước ngoài. Công
ty con là công ty hoạt động ở nước ngoài dưới sự quản lý của công ty mẹ và
thường được gọi chung là chi nhánh ở nước ngoài.
Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu các công ty xuyên quốc gia là một cơ
cấu tổ chức kinh doanh quốc tế, dựa trên cơ sở kết hợp giữa quá trình sản xuất
quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế với quá trình phân phối và
khai thác thị trường quốc tế nhằm đặt được kết quả tối ưu, trên cơ sở đó thu
được lợi nhuận độc quyền cao.
1.1.2 Đặc điểm của TNC
* Đặc điểm của TNC
- Tính đa sở hữu: tính đa sở hữu của tập đoàn phản ánh quá trình sản xuất,
kinh doanh. Mặc dù nhiều chủ sở hữu nhưng thường có một chủ sở hữu nắm
vai trò công ty mẹ và có quyền chi phối công ty. Chính đặc điềm về sở hữu này
đã phân biệt TNC với MNCs. Nếu MNCs là công ty tư bản độc quyền nhưng
tư bản sở hữu của công ty là của hai hay nhiều nước đầu tư và thực hiện thiết
lập công ty chi nhánh nước ngoài tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
quốc tế thì TNC lại là công ty tư bản độc quyền mang quốc tịch của một nước
nhất định thực hiện kinh doanh nước ngoài bằng thiết lập công ty xí nghiệp
phụ thuộc.
- Cơ cấu tổ chức: Gồm 2 bộ phận: Công ty mẹ và công ty con
Công ty mẹ: Là công ty mang quốc tịch của nước mẹ có trụ sở ở nước đó.
Công ty con hay còn gọi là công ty chi nhánh nước ngoài: Gồm các hang, xí
nghiệp công ty do công ty mẹ cắm ở nước ngoài dưới các hình thức khác nhau
không phân biệt thức bậc.
- Quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng: với những chi nhánh đặt tại nhiều quốc
gia trên thế giới, điều đương nhiên TNC phải có một tiềm lực vốn vô cùng lớn
để có thể đầu tư hay mua lại và sáp nhập, đặt ảnh hưởng và chi phối của mình
vượt qua biên giới quốc gia
- Lực lượng lao động của công ty rất rộng lớn và ở mọi trình độ: từ những
quản lý cấp cao, các nhà phát minh sáng chế cho đến những công nhân bình
thường, giúp TNC không rơi vào vấn đề thiếu hụt nguồn lực lao động.
- Cạnh tranh và độc quyền : độc quyền ra đời thống trị trong nền kinh tế tư bản
nhưng không vì thế mà thủ tiêu cạnh tranh mà còn làm cho cạnh tranh gay gắt
và quyết liệt hơn. Chúng tồn tại song song và thống nhất với nhau một cách
10
biện chứng và là hai mặt đối lập giúp cho TNC luôn đi theo chiều hướng phát
triển không ngừng
- Cắm nhánh:
+ Con đường cắm nhánh : có rất nhiều con đường để TNC đầu tư vào nước
ngoài nhưng FDI là con đường cắm nhánh sâu và hiệu quả nhất. Bằng các hình
thức rất thường gặp hiện nay như : GI, M&A hay BOT,…, TNC hình thành
được con đường cắm nhánh của mình một cách sâu rộng nhất.
+ Khu vực cắm nhánh: cắm nhánh ở hầu hết các quốc gia, khu vực trên thế
giới.
+ Ngành cắm nhánh : thành phần ngành phong phú và đa dạng, hình thành
ngày càng nhiều TNC đa ngành đa lĩnh vực.
* Bản chất của TNC
Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tư bản đã dẫn đến những biến đổi quan
trọng về lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất mà khâu quan trọng
nhất là quan hệ sở hữu. Do đó khi nghiên cứu về bản chất của các công ty
xuyên quốc gia chúng ta nghiên cứu trên hai mặt, đó là về hình thức sở hữu và
tổ chức quản lý tại các công ty xuyên quốc gia.
- Về hình thức sở hữu: Kể từ khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ
mạnh mẽ đã tạo ra những sự thay đổi các quan hệ pháp lý của các chủ sở hữu
trong các công ty xuyên quốc gia. Ngày nay, hình thức sở hữu tại các công ty
xuyên quốc gia tồn tại chủ yếu dưới hai nhìn thức sở hữu sau:
Thứ nhất, hình thức sở hữu độc quyền siêu quốc gia, đây là hình thức sở hữu
hỗn hợp đã được quốc tế hoá. Hình thức sở hữu này mang tính khách quan tạo
nên bởi quá trình tích tụ, tập trung hoá và xã hội hoá sản xuất trên quy mô
quốc tế của chủ nghĩa tư bản, dưới sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ và của các quy luật cạnh tranh, quy luật kinh
tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, hình thức sở hữu hỗn hợp, hình thức sở hữu này được tạo ra do sự
thay đổi về căn bản địa vị và vai trò của những người công nhân, trí thức làm
việc trực tiếp trong các ngành nghề khác nhau, đặc biệt là các ngành nghề có
hàm lượng khoa học và công nghệ cao và nó có tác động lớn tới chất lượng
của lao động và sản xuất.
Như vậy, dù theo hình thức sở hữu nào thì các công ty xuyên quốc gia cũng
không còn là sở hữu của một người hay một nước mà là sở hữu hỗn hợp quốc
tế. Nhưng trong đó sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở
hữu của những người lao động chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ.
11
+ Về tổ chức quản lý: việc tổ chức quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế
đã dịch chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hoá hàng loạt sang kiểu sản
xuất loạt nhỏ và linh hoạt theo đơn đặt hàng. Đồng thời có sự dịch chuyển từ
các tổ chức có quy mô lớn được liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết kiểu
mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và nước ngoài.
Điều đó đã làm xuất hiện sự liên kết mới giữa các công ty xuyên quốc gia, đó
là kiểu liên kết mà trong đó có các vệ tinh xoay quanh một công ty gốc tạo nên
một mạng lưới phủ lên thị trường các nước. Phương thức tổ chức quản lý sản
xuất tại các công ty xuyên quốc gia ngày nay luôn biến đổi theo các xu thế sau:
Thứ nhất là phi hàng hoá và đa dạng hoá các sản phẩm: việc tổ chức quản lý
sản xuất các sản phẩm được tiến hành theo loạt nhỏ hay đơn chiếc theo đúng
yêu cầu và thị hiếu đa dạng của khách hàng.
Thứ hai là phi chuyên môn hoá: việc sản xuất sản phẩm được tổ chức quản lý
theo phương thức cấu tạo tổ hợp các khối cấu kiện, phụ kiện.
Thứ ba là phi tập trung hoá: quá trình sản xuất được phân bố và được tổ chức
quản lý trên diện rộng trong các chi nhánh và đơn vị sản xuất nhỏ và vừa với
các nguồn nhân lực, vật lực và tài lực phân tán trên qui mô quốc gia và quốc
tế.
Thứ tư là tổ chức quản lý từ xa: dưới tác động của sự phát triển ngành khoa
học viễn thông, tổ chức quản lý từ xa ngày càng được ứng dụng rộng rãi, đặc
biệt là tại các công ty xuyên quốc gia.
Thứ năm là quốc tế hoá và toàn cầu hoá hoạt động tổ chức quản lý.
Như vậy việc tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương
mại và dịch vụ trong các công ty xuyên quốc gia đã được quốc tế hoá và đang
được toàn cầu hoá trong quá trình thâm nhập qua lại giữa các hoạt động kinh
tế và nền kinh tế của các quốc gia trên quy mô thế giới.
1.1.3 Một số mô hình TNC trên thế giới
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các TNC, tuy nhiên, theo các nhà
nghiên cứu thì các phân loại phổ biến nhất hiện nay là phân loại theo trình độ
phát triển, là sự thay đổi về hình thức sở hữu tư bản của các TNC
+ Cartel: loại hình liên kết giữa các công ty độc quyền trong cùng một ngành,
có thể cùng nhau ký hiệp định lập ra thị trường tiêu thụ, xác định giá cả hang
hóa và số lượng bán ra nhằm mục tiêu hạn chế cạnh tranh, phân chia lợi ích cụ
thể
+ Syndicate: cũng là loại hình liên kết giữa các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, các
bên cùng ký hiệp định liên quan đến việc mua nguyên vật liệu với giá thấp,
12
bán sản phẩm với giá cao. Các xí nghiệp vẫn độc lập về sản xuất nhưng không
còn độc lập về thương mại
+ Trust: loại hình mà các xí nghiệp sản xuất cùng một mặt hàng hoặc ở các
ngành kế cận nhau có quan hệ chặt chẽ, hợp nhất lại thành một tổ chức. Các xí
nghiệp sau khi đã hợp nhất không còn độc lập về mọi mặt sản xuất, thương
mại và luật pháp
+ Concern: là một trong những hình thức phổ biến của TNC hiện đại. Mối liên
kết giữa các xí nghiệp trong Concern chủ yếu là liên kết ngang giữa ít nhất 2
công ty lớn kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân trong một ngành sản
xuất hoặc giữa các ngành có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế và kỹ thuật.
+ Conglomerate : là hình thức liên kết công ty theo chiều dọc, công ty lớn
thâm nhập vào công ty, xí nghiệp của các ngành sản xuất khác không có sự
ràng buộc về kỹ thuật sản xuất kinh doanh, mà chủ yếu là liên hệ về tài chính.
Việc phân loại các TNC theo các hình thức trên từ Cartel đến Conglomerate
phản ánh sự giảm dần tính chất sở hữu tư nhân và sự tăng lên tính chất tập thể
trong sở hữu tư bản. Các công ty tư bản độc quyền vốn đã tồn tại dưới hình
thức những loại hình cơ bản này ở phạm vi quốc gia, nhưng do quá trình hoạt
động phát triển, chúng buộc phải vượt ra khỏi biên giới quốc gia và hoạt động
trên phạm vi quốc tế.
1.2 Lý luận chung về toàn cầu hóa kinh tế
1.2.1 Khái niệm toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là một xu hướng đã và đang diễn ra trong nhiều lĩnh vực kinh tế
- chính trị - văn hóa, xã hội. Theo định nghĩa của Ủy ban Châu Âu năm 1997:
“Toàn cầu hóa có thể được định nghĩa như là một quá trình mà thông qua đó
thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang trở nên ngày càng phụ
thuộc lẫn nhau”.
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các
quốc gia, các tổ chức hay cá nhân ở góc độ văn hóa kinh tế….trên quy mô toàn
cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hóa hầu như được dùng để chỉ
các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay “tự do
thương mại” nói riêng.
Tại hội thảo “Hội nhập kinh tế quốc tế - những vấn đề lý luận và thực tiễn”
diễn ra tại Hà Nội vào ngày 11-03-2004 các đại biểu đã đồng thuận ý kiến với
một khái niệm được tập hợp từ các khái niệm khác nhau về toàn cầu hóa kinh
tế như sau: “Toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình phát triển kinh tế của các
13
nước trên thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới một quốc
gia, hướng tới phạm vi toàn cầu, trong đó, hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao
động vận động thông thoáng. Mối quan hệ giữa các quốc gia và khu vực
được vận hành theo “luật chơi” chung được xác lập giữa các thành viên trong
cộng đồng quốc tế; của sản xuất ngày càng tăng, các nền kinh tế ngày càng có
mối quan hệ mật thiết với nhau và tùy thuộc lẫn nhau”.
1.2.2 Đặc điểm và bản chất của toàn cầu hóa kinh tế
*Đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế:
Sự ra đời của TCHKT là một xu thế tất yếu, khách quan, không thể đảo ngược,
nhưng không thuận buồm xuôi gió mà đầy mâu thuẫn. TCHKT mở rộng biên
giới kinh tế vượt biên giới lãnh thổ quốc gia. Mỗi nước tham gia TCHKT một
mặt phải thích nghi với những quy tắc chung, phải từ bỏ một số quyền dân tộc
nào đó; mặt khác vẫn phải bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng
của dân tộc.
TCHKT thúc đẩy nền kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh nhưng phân phối lợi
ích lại ngày càng chênh lệch. Các nước phát triển muốn dựa vào ưu thế về
nhiều mặt để duy trì trật tự kinh tế thế giới hiện tại, trong khi các nước đang
phát triển lại muốn thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới công bằng, cùng có
lợi.
Các chủ thể cùng hợp tác và đấu tranh, cùng tham gia hoạch định các thể chế
về TCHKT. Đó là các quốc gia có chủ quyền, các tổ chức kinh tế khu vực, các
tổ chức kinh tế quốc tế và TNC. Mặc dù ưu thế thuộc về các nước phát triển
nhất và TNC lớn nhất, họ chi phối các quyết sách của các tổ chức quốc tế,
nhưng không phải họ có thể mặc sức làm mưa làm gió theo ý chí chủ quan của
họ.
Kinh tế phi vật thể ngày càng thoát ly kinh tế hiện vật và tồn tại độc lập khiến
cho TCHKT rất dễ bị xáo động bởi các cuộc khủng hoảng.Hiện có khoảng 2%
giao dịch tài chính, tiền tệ có quan hệ với hàng hóa và dịch vụ. Cái gọi là “kinh
tế bong bóng” tăng lên, trở thành một nhân tố quan trọng làm cho hệ thống tài
chính – tiền tệ toàn cầu dễ bị xáo động.
Xu thế khu vực hóa tiếp tục diễn ra cùng với xu thế toàn cầu hóa. Liên kết kinh
tế khu vực diễn ra từ thấp đến cao, từ khu vực ưu đãi thuế quan, khu vực mậu
dịch tự do, đồng minh thuế quan, thị trường chung hay cộng đồng kinh tế và
liên minh kinh tế. Xu thế đa cực hóa thế giới: Toàn cầu hóa do các nước lớn
chi phối, dẫn đến sự giành giật lợi ích giữa các trung tâm kinh tế lớn và hình
14
thành xu hướng đa cực hóa kinh thế giới. Toàn cầu hóa làm tăng thêm sự biến
động thực lực và thay đổi so sánh lực lượng giữa các nước lớn.
Phân cực giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển vẫn sâu sắc
nhưng thế và lực của các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Xét về các
mặt: mức độ tham gia TCHKT, mức độ chiếm giữ thị trường thế giới, sức cạnh
tranh và khả năng chế ngự những nguy cơ của thị trường…các nước đang phát
triển kém xa các nước phát triển.
Sự phân hóa giữa các nước đang phát triển vẫn tiếp diễn. Những năm qua các
giao dịch kinh tế giữa các nước đang phát triển không ngừng tăng lên, góp
phần giảm bớt sự lệ thuộc vào các nước phát triển, nhưng sự phân hóa giữa các
nước đang phát triển vẫn tiếp diễn.
Cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, kinh tế tri thức xuất
hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao sẽ thúc đẩy nhanh hơn
TCHKT và tác động mạnh các lĩnh vực xã hội, văn hóa, chính trị.
*Bản chất của toàn cầu hóa:
Toàn cầu hóa có bản chất hai mặt.Một mặt, nó là xu thế khách quan như kết
quả của sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và các yếu tố vật chất
khác.Mặt khác toàn cầu hóa kinh tế cũng là một quá trình kinh tế - xã hội,
chính trị - xã hội bị một số thế lực tư bản chi phối. Chính sự đan xen giữa hai
mặt, giữa cái chủ quan và khách quan đã khiến cho toàn cầu hóa về bản chất
trở thành một quá trình chứa đựng đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả mặt tích cực
lẫn tiêu cực.Như vậy, toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh
mẽ những mối liên hệ, sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các nước
và khu vực.
1.2.3 Một số xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới
Một số xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới ( Xu hướng phát triển toàn cầu
hóa)
Toàn cầu hóa kinh tế là kết quả của quá trình quốc tế hóa diễn ra lâu dài kể từ
chủ nghĩa tư bản canh tranh tự do đến chủ nghĩa tư bản độc quyền , đế quốc và
cuộc khủng hoảng của nó .Trong “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, Mác và
Ănghen đã chỉ rõ tính quy luật và dự báo triển vọng tính quy luật của toàn cầu
hóa tư bản chủ nghĩa từ những điều kiện chủ nghĩa tư bản vừa mới trở thành
một hình thái kinh tế xã hội thống trị. Trong tác phẩm “ Chủ nghĩa đế quốc
giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” , V.Lênin cũng đã làm rõ thêm triển
vọng của toàn cầu hóa khi xem xét quá trình chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do
chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, thời đại thống trị của chủ nghĩa tư
15
bản tài chính. Theo V.Lênin, chủ nghĩa tư bản đã hình thành thị trường toàn thế
giới từ lâu, song chỉ đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, nền kinh tế thế giới tư
bản chủ nghĩa mà nòng cốt là tư bản tài chính, mới bủa lưới bao trùm lên đầu
tất cả các nước khi mà độc quyền thống trị, bên cạnh thương mại giữa các
nước, xuất khẩu tư bản nổi lên hàng đầu, các liên minh độc quyền và các đại
cường quốc phân chia thế giới. Đến đây, trong chừng mực nhất định, có thể
nói nền kinh tế toàn cầu tư bản chủ nghĩa đầu tiên đã được hình thành. Nó tồn
tại trong những thập niên đầu của giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, song tính toàn
cầu của nó còn chưa phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, những
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia còn bị hạn chế, gắn liền với sự tồn tại của
hệ thống thuộc địa đóng kín của mẫu quốc.
Tuy nhiên, kể từ Cách mạng Tháng Mười Nga, sự hình thành và phát triển của
hệ thống XHCN do Liên Xô đứng đầu, cũng như chính sách bao vây cấm vận
chống các nước XHCN do các nước đế quốc thực hiện, đã phá vỡ nền kinh tế
toàn cầu tư bản chủ nghĩa. Từ đó, xuất hiện hai hệ thống kinh tế quốc tế gần
như đóng kín và đối chọi với nhau mà một bên là các nước tư bản chủ nghĩa,
bên kia là các nước XHCN.
Mặc dù vậy, trong những thời kỳ hòa hoãn và cùng tồn tại hòa bình được xác
lập, đã manh nha một nền kinh tế toàn thế giới bao trùm cả hai hệ thống dựa
trên những quan hệ kinh tế qua lại, trao đổi, phân công, hợp tác, cạnh tranh
chứ không cô lập. Trong khi đó, trong phạm vi thế giới tư bản chủ nghĩa, quốc
tế hóa đời sống kinh tế vẫn không ngừng phát triển và kể từ những năm 1980
trở lại đây, quốc tế hóa kinh tế đã đạt tới đỉnh cao dưới tác động của những
thành quả của cách mạng khoa học công nghệ, đã khiến cho toàn cầu hóa kinh
tế trở thành một đòi hỏi hiện thực.
Tóm lại, toàn cầu hóa kinh tế bắt nguồn từ những cơ sở hiện thực khách quan
trong đời sống nhân loại mà thực chất của chúng là những minh chứng tất yếu
cho một quá trình không thể đảo ngược.
16
Chương 2
VAI TRÒ CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
TRONG TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
2.1 Vai trò của các TNC với thương mại quốc tế trong toàn cầu hóa
kinh tế
2.1.1 Thúc đẩy hoạt động thương mại thế giới phát triển
Hoạt động thương mại thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa nhấn mạnh
đến sự tự do hóa giao thương. “Biên giới” giữa các quốc gia dần xóa nhòa bởi
rất nhiều những hiệp định song phương và đa phương. Đây chính là nền tảng,
là những nền móng đầu tiên để các TNC phát triển và dần lớn mạnh trên
phạm vi toàn cầu.
Các TNC ra đời đã thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ,
trọng tâm là hoạt động xuất khẩu giữa các quốc gia và gia công quốc tế.
Thông qua việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực sản xuất thế giới, kiểm soát
hơn 50% mậu dịch quốc tế, các TNC ngày càng thúc đẩy quá trình phát triển
quan hệ hàng hóa, tài chính trên phạm vi toàn cầu.
Hình 2.1: Thương mại xuất khẩu toàn cầu năm 2012
17
~19
~4
~15
~ 6,3
~2,4
~6,3
Tổng giá trị thương mại của
mạng lưới Các TNC : 80%
ĐVT: Nghìn tỷ USD
Dịch vụ, hàng hóa
TM toàn cầu
TM không có sự
tham gia các TNC
Tất cả TM liên
quan đến Các
TNC
TM nội khối
NEM
T M mở rộng
của các TNC
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2012
Tổng giá trị thương mại toàn cầu tăng phần lớn do tổng giá trị thương
mại của các TNC luôn tăng trong nhiều năm liền. Với kênh lưu thông xuyên
quốc gia của mình, lợi thế về công nghệ hiện đại, mạng lưới marketing rộng
lớn, nhiều vốn và hiệu quả sản xuất theo quy mô, các TNC đã tạo ra tổng giá
trị xuất khẩu của các chi nhánh nước ngoài chiếm tỉ trọng tương đối lớn. Báo
cáo của UNCTAD về thương mại và phát triển với chủ đề “Chuỗi giá trị và
phát triển” đánh giá rằng: tổng giá trị giao dịch toàn cầu ước đạt 20 nghìn tỷ,
trong đó giá trị của các TNC chiếm 80%.
Các TNC đã tạo ra và khai thác nhiều nguồn lực tiềm năng của các
quốc gia trên thế giới nhờ vào mạng lưới dày đặc các chi nhánh. Bằng hoạt
động khai thác thị trường tại chỗ giúp giảm chi phí vận chuyển, tăng năng
suất, hạ giá thành sản phẩm cùng với các bằng phát minh sáng chế, bí quyết
công nghệ…, các TNC góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và
nâng cao trình độ xã hội hóa sản phẩm trên thế giới.
Tổng lượng vốn FDI là thể hiện vai trò to lớn của các TNC trong nền kinh
tế thế giới vì FDI là công cụ quan trọng nhất của các TNC trong việc thực hiện
chiến lược toàn cầu của mình. Theo báo cáo đầu tư thế giới năm 2012 của
UNCTAD, các TNC hiện chi phối trên 80% tổng FDI trên toàn thế giới.
Hình 2.2 Giá trị FDI của các TNC giai đoạn 2005 – 2012
ĐVT: Nghìn tỉ USD
Nguồn: UNCTAD, 2013
Bảng số liệu trong báo cáo của UNCTAD thể hiện tổng lượng vốn FDI
được cung cấp bởi các TNC trong giai đoạn 2005 – 2012. Có thể thấy trong
giai đoạn trước năm 2008, lượng vốn FDI tăng dần theo các năm và đạt giá trị
18
Năm
cao nhất vào năm 2007, với giá trị khoảng gần 2000 tỷ USD. Tuy nhiên, do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong các năm 2008,
2009, giá trị FDI suy giảm và chưa có dấu hiệu phục hồi. Trong 2 năm gần
đây (2011 và 2012), giá trị FDI của các TNC duy trì quanh mức 1200 đến
1300 tỷ USD. Mặc dù đây chưa phải là mức giá trị kỳ vọng như những năm
trước nhưng trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu khởi sắc thì
đây được coi là một nỗ lực đáng ghi nhận của các TNC trong việc mở rộng
hoạt động đầu tư, kinh doanh và duy trì sản xuất.
2.1.2 Thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế
*Thay đổi cơ cấu hàng hóa:
Chiến lược phát triển của các TNC gắn liền với các hoạt động thương
mại, xuất nhập khẩu nên ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu hàng hoá xuất khẩu.
Trong những năm gần đây, tỷ suất lợi nhuận trong ngành dịch vụ tăng cao
còn trong ngành nông nghiệp và công nghiệp giảm dần. Do đó, các công ty,
tập đoàn trên thế giới nói chung và các TNC nói riêng cũng có sự thay đổi
hướng đầu tư vào các ngành dịch vụ và thúc đẩy giá trị xuất khẩu của hàng
hoá dịch vụ tăng cao.
Hình 2.3: Cơ cấu đầu tư của các TNC
Nguồn: UNCTAD, Dữ liệu FDI 2012
Từ số liệu trên có thể thấy, mặc dù các ngành sản xuất công nghiệp
đóng góp lớn nhất vào tổng giá trị xuất khẩu nhưng vai trò của các TNC thực
sự nổi bật lĩnh vực dịch vụ với 46% giá trị gia tăng. Điều này xuất phát từ
19
22 %
11%
43%
46%
7%
71%
26%
64%
7%
Dịch vụ
Sản xuất
Tổng xuất khẩu GTGT đầu vào xuất
khẩu
Dòng vốn đầu tư
vào
Các ngành cơ bản
thực tế các sản phẩm thuộc lĩnh vực dịch vụ như quảng cáo, marketing, dịch
vụ tài chính, tư vấn đầu tư đòi hỏi hàm lượng chất xám và nguồn nhân lực
chất lượng cao, đây là những yếu tố được coi là lợi thế của các TNC. Vì vậy,
tỷ trọng vốn đầu tư của các TNC vào lĩnh vực dịch vụ cũng tăng dần theo các
năm, trong năm 2012 lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực này đạt 64%.
Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hóa còn hướng đến các ngành yêu cầu trình
độ công nghệ cao nhằm duy trì khả năng cạnh tranh và thu lợi nhuận tối đa
của các TNC. Hiện nay giao dịch trên thế giới đang thay đổi theo chiều
hướng tăng tỉ trọng hàng hoá có hàm lượng vốn hoặc kỹ thuật cao và giảm
dần tỉ trọng hàng sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu. Điều này được thể
hiện qua tỉ trọng hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao trong nội bộ
các TNC, chiếm tới 43,1% tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu. Do vậy, những
quốc gia có lợi thế về vốn và kỹ thuật đang ra sức đẩy mạnh tầm ảnh hưởng
của các TNC trên toàn cầu.
*Thay đổi cơ cấu đối tác:
Các công ty xuyên quốc gia tìm kiếm lợi thế tại mỗi quốc gia khác
nhau để đặt các chi nhánh phù hợp với định hướng hoạt động của mình. Các
đối tác mà các TNC lựa chọn có những thay đổi theo tình hình biến động kinh
tế nhất định.
Hình 2.4: 10 khu vực kinh tế tiềm năng của các TNC giai đoạn 2012 -2014
(phần trăm các nhà đầu tư lựa chọn)
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2012
Số liệu mà UNCTAD cung cấp phản ánh xu hướng đầu tư của các
TNC trong giai đoạn 2012 - 2014. Các khu vực kinh tế thu hút đầu tư trong
năm 2012 được chia là 2 nhóm: nhóm các nền kinh tế phát triển (gồm Mỹ,
20
Úc, Anh và Đức) và nhóm các nền kinh tế đang phát triển (gồm Trung Quốc,
Ấn Độ, Indonesia, Brazil, Nga và Thái Lan). Có thể nhận thấy một số đặc
điểm nổi bật dựa trên bảng số liệu trên.
Các nước đang phát triển đang dần trở thành điểm đến tiềm năng của
các nhà đầu tư. Trong số 10 nền kinh tế hấp dẫn nhất năm 2012 có 6 khu vực
có nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt phần lớn các nền kinh tế này thuộc
Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ… Có thể thấy các nước Châu Á với dân số
trẻ, nguồn nhân lực dồi dào cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
đang là mục tiêu của các TNC. So với giai đoạn trước, việc đầu tư ra nước
ngoài của các TNC chủ yếu nằm trong phạm vi các nước phát triển ở khu
vực Châu Âu thì hiện nay, xu hướng đã thay đổi. Việc phát triển ra các thị
trường đang phát triển không chỉ tận dụng được nguồn tài nguyên, nhân lực
với chi phí hợp lý mà còn giúp các TNC kéo dài vòng đời sản phẩm và tiếp
cận đối tượng khách hàng mới.
Các nước phát triển như Mỹ, Anh cũng được nhiều TNC lựa chọn là
nhờ sự tương đồng về văn hóa và trình độ kỹ thuật. Hầu hết các TNC đều
hình thành và có trụ sở tại các nước phát triển với trình độ khoa học công
nghệ đã phát triển ở mức cao. Việc mở rộng thị trường ra các nước phát triển
cũng là một biện pháp phát triển chất lượng sản phẩm (do yêu cầu chất
lượng ở những thị trường này cao hơn), cải tiến kỹ thuật do có sự trao đổi và
chuyển giao công nghệ, đồng thời nâng cao hình ảnh và thương hiệu của các
TNC.
Thứ hạng của các quốc gia về thu hút đầu tư có sự biến động trong
năm 2012. Ngoại trừ 3 quốc gia ở vị trí dẫn đầu là Trung Quốc, USA và Ấn
Độ thì thứ bậc của các nước còn lại đều thay đổi, đặc biệt là Anh và Thái
Lan. Năm 2011, hai nước này đứng ở vị trí 12 và 13 nhưng tính đến cuối
năm 2012, 2 nước đã trở thành những điểm đến tiềm năng đối với các TNC.
Mức độ chênh lệch trong đánh giá của các nhà đầu tư đối với 10 nền
kinh tế là rất lớn. Sự khác biệt giữa 2 nước đứng đầu (Trung Quốc và Mỹ)
với nhóm nước ở top cuối (5 nước) là đáng kể. Trong khi 40% các TNC
tham gia phỏng vấn ưu tiên đầu tư vào Trung Quốc thì chưa đến 10% nhà
đầu tư lựa chọn các nước Úc, Anh, Đức, Nga, Thái Lan. Điều đó chứng tỏ
nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới (Trung Quốc) vẫn là điểm đến hấp dẫn nhất
đối với TNC trong quá trình toàn cầu hóa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các TNC có những thay đổi đối tác nhằm
đảm bảo mục đích khai thác tối đa những lợi thế từ các quốc gia trên thế giới.
21
2.2 Vai trò của các TNC đối với đầu tư quốc tế trong toàn cầu hóa
2.2.1 Các TNC thúc đẩy lưu thông dòng vốn đầu tư trên toàn thế giới
Các TNC thúc đẩy thương mại phát triển với ba dòng lưu thông hàng
hoá cơ bản là: hàng hoá xuất nhập khẩu từ công ty mẹ, hàng hoá bán ra từ các
chi nhánh ở nước ngoài và hàng hoá trao đổi giữa các công ty trong cùng một
tập đoàn. Hoạt động thương mại nội bộ các TNC thường tạo điều kiện cho các
chi nhánh tiếp cận với trình độ công nghệ và bí quyết kỹ thuật tiên tiến của
công ty mẹ và các chi nhánh khác trong cùng hệ thống. Đây chính là điểm
mạnh của các TNC trong môi trường toàn cầu hóa giúp nước trên thế giới nói
chung và các nước đang phát triển nói riêng rút ngắn khoảng cách về công
nghệ, nâng cao hiệu quả năng suất, thúc đẩy giao thương giữa các quốc gia
trên thế giới.
Nếu trước đây, hầu hết nguồn vốn FDI được thực hiện bởi các TNC
của các nước phát triển thì ngày nay số lượng các TNC của các nước đang
phát triển cũng tăng lên và xu hướng ngày càng nhiều vốn FDI đến từ các
nước đang phát triển. Theo Hội nghị về thương mại và phát triển của Liên
Hiệp Quốc (UNCTAD), các nước đang phát triển mở rộng hoạt động đầu tư
của mình ở các thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, nguồn vốn này chỉ tập
trung vào một số quốc gia nhất định. Điển hình là Trung Quốc, theo số liệu
thống kê của Tài liệu Tổng quan kinh tế thế giới năm 2012 chỉ ra đầu tư của
Trung Quốc ra nước ngoài đạt 77,2 tỷ USD vào 4.425 công ty trải dài trên
141 quốc gia nước và vùng lãnh thổ, tức là tăng 28,6%.
Chính bởi những thay đổi trong dòng vốn đầu tư lưu thông trên thế
giới, mỗi quốc gia trên toàn cầu phải luôn nỗ lực tạo các điều kiện thuận lợi
nhằm thu hút đầu tư nước ngoài từ các TNC đang lớn mạnh trong thời gian
tới.
2.2.2 Các TNC với hoạt động phát triển và chuyển giao công nghệ
Theo Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11 ngày 29/11/2006,
công nghệ tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm; Chuyển giao
công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc
toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận
công nghệ.
Hình thức mua bán công nghệ thường được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng chuyển giao đã được thỏa thuận phù hợp với những quy định của pháp
luật. Bên bán có nghĩa vụ chuyển giao các kiến thức, cung cấp máy móc, thiết
22
bị, dịch vụ đào tạo kèm theo kiến thức công nghệ cho bên bán. Bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán và tiếp thu công nghệ đó theo thỏa thuận đã
ghi trong hợp đồng chuyển giao
Đối với các TNC, công nghệ đóng vai trò quyết định đối với sự sống
còn của các công ty, là yếu tố giữ vị trí hàng đầu. Công nghệ là yếu tố quyết
định năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường và giữ thế độc quyền. Do đó,
trong quá trình thực hiện đầu tư ra nước ngoài, các TNC thường có những
phương thức và những kênh riêng để thực hiện hoạt động chuyển giao công
nghệ của mình.
Nhìn chung, đối với các nước phát triển, các TNC thường chuyển giao
theo phương thức bán đứt, có kèm theo các điều kiện cho các công ty này mở
cửa thị trường các nước phát triển khác và các điều kiện phục vụ mục đích
chính trị, an ninh. Còn đối với các nước đang phát triển, công nghệ được
chuyển sang thường lạc hậu hơn tại nước đầu tư nhằm mục đích chuyển dịch
cơ cấu nội tại, tránh cạnh tranh và tận dụng được nguồn nhân lực ở các nước
đang phát triển.
Cụ thể, các TNC phát triển và chuyển giao công nghệ một cách có
hiệu quả nhất nhằm duy trì vị trí độc quyền trên thị trường, mở rộng phạm vi
ảnh hưởng và khả năng lũng đoạn thị trường. Hoạt động phát triển công
nghệ của các TNC thường được thực hiện theo 3 hình thức cơ bản là phát
triển công nghệ trong từng chi nhánh của các TNC, phát triển công nghệ
trong các TNC có liên hệ với các công ty bản địa và tác động của các TNC
đến bộ phận phát triển công nghệ của các công ty có liên quan theo cơ chế
lan truyền.
Về phương thức chuyển giao công nghệ có thể chia cụ thể như sau:
Thứ nhất: Các công nghệ hiện đại nhất
Đối tượng chuyển giao công nghệ này thường là các chi nhánh trong
nội bộ hệ thống các TNC tại các nước phát triển. Các chi nhánh này có đủ
điều kiện về trình độ công nghệ, cơ sở vật chất và nhân sự để tiếp thu và khai
thác có hiệu quả công nghệ hiện đại. Hơn nữa, công nghệ hiện đại được kiểm
soát chặt chẽ, tránh được nguy cơ rò rỉ, tìm kiếm lợi thế độc quyền trên thị
trường thế giới.
Các công nghệ hiện đại nhất mà các TNC phát triển, chuyển giao trong
nội bộ chủ yếu là các hạng mục công nghệ và cơ cấu sản phẩm công nghệ rất
đa dạng như phát minh và sáng chế đảm bảo sự khác biệt cơ bản so với các
sản phẩm có cùng kỹ thuật và công dụng trước đó, công nghệ marketing nhằm
23
nâng cao giá trị gia tăng ngoại sinh cho doanh nghiệp trong khối khách hàng,
các hoạt động định giá hay tổ chức mạng lưới, phân phối, quảng bá, công
nghệ quản lý bao gồm các hoạt động hoạch định chiến lược kinh doanh và tổ
chức thực hiện, điều hành doanh nghiệp,… là yếu tố tạo nên giá trị cốt lõi của
các TNC
Thứ hai: Công nghệ hạng hai
Những công nghệ hạng hai không còn mới, không còn đem lại lợi thế
cạnh tranh cho các TNC thường được chuyển giao cho các công ty liên
doanh hoặc các công ty nằm ngoài hệ thống các TNC tại các nước đang phát
triển. Lý do mà các TNC chuyển giao công nghệ hạng hai này cho các nước
đang phát triển không chỉ bắt nguồn từ chiến lược của các TNC trong việc
khai thác lợi ích của công nghệ mà còn vì các công nghệ đó phù hợp với khả
năng tài chính và trình độ của các nước này.
Hơn nữa, các TNC duy trì chính sách chuyển giao cầm chừng nhằm
duy trì sự phụ thuộc của đối tác và giữa quyền kiểm soát đối với công nghệ
bằng cách chỉ chuyển giao từng phần một để khống chế nước chủ nhà. Ví
dụ, các TNC Nhật Bản thường chuyển giao những công nghệ sử dụng nhiều
lao động và nguyên liệu sang các nước mà Nhật Bản đầu tư.
Do đó, việc chuyển giao công nghệ trong môi trường toàn cầu hóa
đem lại lợi ích trước mắt rõ ràng đối với các nước đang phát triển trong việc
rút ngắn khoảng cách về công nghệ. Song, các nước đang phát triển cần tiếp
nhận có chọn lọc để môi trường sinh thái không bị ảnh hưởng, phù hợp
nguồn nhân lực và không trở thành bãi rác công nghệ.
2.3 Vai trò của các TNC đối với phát triển nguồn nhân lực và phân
công thị trường lao động
2.3.1 Vai trò của các TNC với phát triển nguồn nhân lực
Tận dụng đặc trưng của toàn cầu hóa kinh tế thế giới, các TNC mở rộng
tìm kiếm nguồn nhân lực phù hợp mục đích hoạt động của công ty trên toàn
cầu. Tác động phát triển nguồn nhân lực được thực hiện theo hai cách: trực
tiếp qua các dự án đầu tư và gián tiếp thông qua các liên kết kinh tế, tạo ra cơ
hội, động lực cho sự phát triển.
Phát triển nguồn nhân lực mà các TNC hướng tới là hoạt động trợ giúp
tài chính cho các chương trình nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp
các thiết bị khoa học cho việc đào tạo. Chủ yếu tập trung vào sức khỏe nguồn
nhân lực, giáo dục đào tạo và năng lực quản lý.
24
Với các chi nhánh rộng khắp trên toàn cầu, các TNC đóng vai trò đặc
biệt trong ngành dịch vụ xã hội hỗ trợ trực tiếp sức khỏe, mức sống của người
lao động, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm,…Thêm vào đó, các TNC
có những hoạt động đào tạo nâng cao hiểu biết pháp luật, rèn luyện kỹ năng,
nâng cao chuyên môn góp phần tạo nên đội ngũ lao động trí thức ngoài phạm
vi quốc gia nước đầu tư. Các TNC thông qua các khoá học chính quy, không
chính quy, đào tạo dài hạn, ngắn hạn và thông qua việc làm thực tiễn đào tạo
kiến thức, kỹ năng cho người lao động, dặc biệt là cán bộ quản lý được đặt lên
vị trí hàng đầu, nhất là cán bộ quản lý ở cấp chiến lược bỏi vì khi các dự án
đầu tư được thực thi thì những người tiếp quản vận hành máy móc phần lớn là
người nước chủ nhà Các TNC có vai trò trong nâng cao năng lực quản lý
thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ, góp phần vào đào tạo, nâng cao
kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng quản lý đến trình độ nhất định,
đáp ứng yêu cầu của công việc. Vì, khi đưa kỹ thuật công nghệ mới vào thì họ
phải tiến hành bồi dưỡng đào tạo kiến thừc chuyên môn cho người lao động
nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra. Trong liên doanh với nước chủ nhà, các TNC
không thể đảm đương được tất cả các chức vụ quản lý, mà phải bố trí cả
người địa phương. Do vậy họ tất yếu phải tiến hành bồi dưỡng, đào tạo kỹ
năng quản lý cho người địa phườg thông qua các khoá đào tạo. đồng thời
trong quá trình làm việc trực tiếp, các nhà quản lý địa phương sẽ tích luỹ dần
kiến thức, kinh nghiệm và dần trưởng thành, nắm các trọng trách quản lý cao
hơn trong liên doanh.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của các TNC luôn gắn liền với
chiến lược phát triển chung của công ty.
2.3.2 Vai trò của các TNC đối với phân công thị trường lao động
Theo Giáo trình Quản trị nhân lực phân công lao động là phân công
thành các phần việc khác nhau theo số lượng và tỉ lệ nhất định phù hợp với
đặc điểm kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó bố trí công nhân
cho từng công việc phù hợp với khả năng và sở trường của họ.
Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung sản xuất và cung cấp
một số sản phẩm và dịch vụ cho một quốc gia nhất định dựa trên ưu thế của
quốc gia mình như về trình độ công nghệ, khoa học, xã hội, điều kiện tự nhiên
để đáp ứng nhu cầu của quốc gia thông qua trao đổi quốc tế. Phân công lao
động quốc tế đã phá vỡ sự biệt lập, khép kín của nền kinh tế dân tộc, mở ra
một môi trường rộng đáp ứng số lượng lớn người lao động ở nhiều trình độ
khác nhau.
25