Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Kỹ thuật cân bằng tải mạng (NLB - Network Load Balancing) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.55 KB, 15 trang )

Kỹ thuật cân bằng tải mạng (NLB - Network Load Balancing)

NLB mở rộng hiệu năng của các server ứng dụng, chẳng
hạn như Web server, nhờ phân phối các yêu cầu của client
cho các server trong nhóm (cluster). Các server (hay còn
gọi là host) đều nhận gói IP đến, nhưng gói chỉ được xử lý
bởi một server nhất định.

Các host trong nhóm sẽ đồng thời đáp ứng các yêu cầu
khác nhau của các client, cho dù một client có thể đưa ra
nhiều yêu cầu. Ví dụ, một trình duyệt Web cần rất nhiều
hình ảnh trên một trang Web được lưu trữ tại nhiều host
khác nhau trong một nhóm server. Với kỹ thuật cân bằng
tải, quá trình xử lý và thời gian đáp ứng client sẽ nhanh
hơn nhiều.




Mỗi host trong nhóm có thể định ra mức tải mà nó sẽ xử
lý hoặc tải có thể phân phối một cách đồng đều giữa các
host. Nhờ sử dụng việc phân phối tải này, mỗi server sẽ
lựa chọn và xử lý một phần tải của host. Tải do các client
gửi đến được phân phối sao cho mỗi server nhận được số
lượng các yêu cầu theo đúng phần tải đã định của nó.

Sự cân bằng tải này có thể điều chỉnh động khi các host
tham gia vào hoặc rời khỏi nhóm. Đối với các ứng dụng
như Web server, có rất nhiều client và thời gian mà các
yêu cầu của client tồn tại tương đối ngắn, khả năng của kỹ
thuật này nhằm phân phối tải thông qua ánh xạ thống kê


sẽ giúp cân bằng một cách hiệu quả các tải và cung cấp
khả năng đáp ứng nhanh khi nhóm server có thay đổi.

Các server trong nhóm cân bằng tải phát đi một bản tin
đặc biệt thông báo trạng thái hoạt động của nó (gọi là
heartbeat message) tới các host khác trong nhóm đồng
thời nghe bản tin này từ các khác host khác. Nếu một
server trong nhóm gặp trục trặc, các host khác sẽ điều
chỉnh và tái phân phối lại tải để duy trì liên tục các dịch vụ
cho các client.

Trong phần lớn các trường hợp, phần mềm client thường
tự động kết nối lại và người sử dụng chỉ cảm thấy trễ một
vài giây khi nhận được đáp ứng trả lời.


Kiến trúc hệ thống cân bằng tải

Để tối đa hoá thông lượng và độ khả dụng, công nghệ cân
bằng tải sử dụng kiến trúc phần mềm phân tán hoàn toàn,
trình điều khiển cân bằng tải được cài đặt và chạy song
song trên tất cả các host trong nhóm. Trình điều khiển
này sắp xếp tất cả các host trong nhóm vào một mạng
con để phát hiện đồng thời lưu lượng mạng đến địa chỉ IP
chính của nhóm (và các địa chỉ bổ sung của các host ở
nhiều vị trí khác nhau).

Trên mỗi host, trình điều khiển hoạt động như một bộ lọc
giữa trình điều khiển card mạng và chồng giao thức
TCP/IP, cho phép một phần lưu lượng mạng đến được

nhận bởi host đó. Nhờ đó, các yêu cầu của client sẽ được
phân vùng và cân bằng tải giữa các host trong nhóm.

Hệ thống cân bằng tải chạy như một trình điều khiển
mạng (về mặt logic) nằm dưới các giao thức lớp ứng dụng
như HTTP hay FTP. Hình sau cho thấy việc triển khai hệ
thống cân bằng tải như một trình điều khiển trung gian
trong chồng giao thức mạng của Windows2000 tại mỗi
host trong nhóm.

Kiến trúc này tối đa hoá dung lượng nhờ việc sử dụng
mạng quảng bá để phân phối lưu lượng mạng đến tất cả
các host trong nhóm và loại bỏ sự cần thiết phải định
tuyến các gói đến từng host riêng lẻ.

Do thời gian lọc các gói không mong muốn diễn ra nhanh
hơn thời gian định tuyến các gói (định tuyến bao gồm các
quá trình nhận gói, kiểm tra, đóng gói lại và gửi đi), kiến
trúc này cung cấp thông lượng cao hơn các giải pháp dựa
trên bộ điều phối. Khi tốc độ của mạng và server tăng lên,
thông lượng cũng tăng theo tỉ lệ thuận, do đó loại bỏ được
bất cứ sự lệ thuộc nào vào việc định tuyến dựa trên các
phần cứng đặc biệt.

Trên thực tế, bộ cân bằng tải có thể đạt thông lượng
250Mbit/s trong các mạng Gigabit. Một ưu điểm cơ bản
khác của kiến trúc phân tán hoàn toàn là độ khả dụng
được tăng cường với (N-1) cách khắc phục lỗi trong một
nhóm có N host. Các giải pháp dựa trên bộ điều phối tạo
ra một điểm lỗi kế thừa mà chỉ có thể được khắc phục

bằng cách sử dụng một bộ điều phối dự phòng và do đó
chỉ cung cấp một cách khắc phục lỗi duy nhất.

Kiến trúc cân bằng tải cũng tận dụng được những ưu điểm
về kiến trúc các thiết bị chuyển mạch (switch) và/hoặc các
bộ tập trung (hub) của mạng con trong việc đồng thời
phân phối lưu lượng mạng đến tất cả cac host trong
nhóm.

Tuy nhiên, phương pháp này làm tăng "tải trọng" trên các
chuyển mạch do chiếm thêm băng thông cổng. Đây không
phải là vấn đề trong phần lớn các ứng dụng như dịch vụ
Web hay streaming media, do tỉ lệ lưu lượng đến chỉ
chiếm một phần rất nhỏ trong tổng lưu lượng mạng.

Tuy nhiên, nếu các kết nối mạng phía client đến thiết bị
chuyển mạch có tốc độ nhanh hơn nhiều các kết nối phía
server, lưu lượng có thể chiếm một tỉ lệ lớn quá mức cho
phép của băng thông cổng phía server. Vấn đề tương tự
sẽ gia tăng nếu nhiều nhóm kết nối trên cùng một thiết bị
chuyển mạch và các biện pháp thiết lập các mạng LAN ảo
cho từng nhóm không được thực hiện.

Trong quá trình nhận gói, việc triển khai của NLB là sự kết
hợp giữa việc phân phối các gói tới tầng TCP/IP và nhận
các gói khác qua trình điều khiển card mạng. Việc này
giúp tăng tốc độ xử lý chung và giảm trễ do TCP/IP có thể
xử lý gói trong khi trình điều khiển NDIS (Network Driver
Interface Specification) nhận gói tiếp theo. Trong quá
trình gửi gói, NLB cũng tăng cường thông lượng, giảm độ

trễ và phụ phí (overhead) nhờ tăng số lượng gói mà
TCP/IP có thể gửi trong một kết nối.

Để có được những cải thiện về hiệu năng này, NLB thiết
lập và quản lý một tập hợp các bộ đệm gói và các ký hiệu
(descriptor) được sử dụng để phối hợp các hoạt động của
TCP/IP và trình điều khiển NDIS.

Phân phối lưu lượng trong nhóm

NLB sử dụng hai lớp broadcast hoặc multicast để phân
phối đồng thời lưu lượng mạng đến tất cả các host trong
nhóm. Trong chế độ hoạt động mặc định là unicast, NLB
sẽ gán địa chỉ trạm làm việc (địa chỉ MAC) cho card mạng
để card mạng có thể hoạt động (card này gọi là card
nhóm ? cluster adapter), và tất cả các host trong nhóm
được gán cùng một địa chỉ MAC.

Các gói đến do đó được nhận bởi tất cả các host trong
nhóm và chuyển gói tới trình điều khiển cân bằng tải để
lọc. Để đảm bảo tính duy nhất, địa chỉ MAC được dẫn xuất
từ địa chỉ IP chính của nhóm. Ví dụ, với địa chỉ IP chính
của nhóm là 1.2.3.4, địa chỉ MAC unicast được đặt là 02-
BF-1-2-3-4.

Trình điều khiển cân bằng tải sẽ tự động sửa địa chỉ MAC
của card nhóm bằng cách thiết lập một thực thể đăng ký
và tái nạp trình điều khiển card nhóm. Hệ điều hành
không cần phải khởi động lại. Nếu các host trong cluster
được gắn vào một thiết bị chuyển mạch (swicth) chứ

không phải một bộ tập trung (hub), việc sử dụng chung
một địa chỉ MAC sẽ gây ra xung đột do các chuyển mạch
lớp 2 chỉ có thể hoạt động khi các địa chỉ MAC nguồn trên
tất cả các cổng của thiết bị chuyển mạch là duy nhất.

Để tránh điều này, NLB sửa địa chỉ MAC nguồn cho các gói
đầu ra là duy nhất, địa chỉ MAC của nhóm là 02-BF-1-2-3-
4 được chuyển thành 02-h-1-2-3-4, trong đó h là mức ưu
tiên của host trong nhóm. Kỹ thuật này ngăn không cho
thiết bị chuyển mạch tìm ra địa chỉ MAC thực sự của nhóm
và kết quả là các gói đến nhóm được phân phối tới tất cả
các cổng của thiết bị chuyển mạch.

Nếu các host trong nhóm được kết nối trực tiếp vào một
hub, mặt nạ địa chỉ MAC nguồn của NLB trong chế độ
unicast có thể được vô hiệu hoá để tránh gây ra hiện
tượng tràn cho các thiết bị chuyển mạch ở đường lên
(upstream). Điều này có thể thực hiện bằng cách thiết lập
tham số đăng ký NLB là MaskSourceMAC=0. Việc sử dụng
hệ thống chuyển mạch đường lên ba mức cũng có thể hạn
chế tràn cho các thiết bị chuyển mạch.



Chế độ unicast của NLB có thể làm vô hiệu hoá quá trình
trao đổi thông tin giữa các host trong nhóm có sử dụng
card nhóm. Khi các gói của một host được gửi đi với địa
chỉ MAC đích giống địa chỉ MAC nguồn, các gói này sẽ bị
quay vòng (loop-back) giữa các tầng giao thức mạng bên
trong hệ thống phía gửi và không bao giờ ra đến đường

truyền. Hạn chế này có thể tránh được bằng cách thêm
một card mạng thứ hai cho mỗi host. Trong cấu hình này,
NLB sử dụng một card mạng trên mạng con nhận các yêu
cầu của client và một card mạng khác thường được đặt
tách biệt trên mạng con cục bộ để trao đổi thông tin giữa
các host trong nhóm và với các server cơ sở dữ liệu cũng
như các file server gốc. NLB chỉ sử dụng card nhóm để
truyền các bản tin "heartbeat" và lưu lượng điều khiển từ
xa.

Chú ý rằng, trao đổi thông tin giữa các host trong nhóm
và các host ngoài nhóm không bao giờ bị ảnh hưởng bởi
chế độ unicast của NLB. Lưu lượng mạng đến một địa chỉ
IP dành riêng cho host (trong card nhóm) được nhận bởi
tất cả các host trong nhóm do chúng sử dụng chung một
địa chỉ MAC. Do NLB không bao giờ cân bằng tải lưu lượng
đối với các địa chỉ IP dành riêng, NLB sẽ lập tức phân phối
lưu lượng này đến TCP/IP trên host đã định. Các host khác
trong nhóm coi lưu lượng này là lưu lượng đã được cân
bằng tải và sẽ loại bỏ lưu lượng này. Chú ý, nếu lưu lượng
mạng đến quá lớn đối với các địa chỉ IP dành riêng có thể
ảnh hưởng đến hiệu năng khi hệ thống NLB hoạt động
trong chế độ unicast (tuỳ theo sự cần thiết đối với TCP/IP
trong việc loại bỏ các gói không mong muốn).

NLB cung cấp chế độ thứ hai để phân phối lưu lượng mạng
đến các host trong nhóm, chế độ multicast. Chế độ này
gán địa chỉ multicast 2 lớp cho card nhóm thay vì thay đổi
địa chỉ trạm làm việc của card. Ví dụ, địa chỉ MAC
multicast sẽ được gán là 03-BF-1-2-3-4 tương ứng với địa

chỉ IP chính là 1.2.3.4. Do mỗi host trong nhóm có một
địa chỉ trạm làm việc duy nhất, chế độ này không cần một
bộ card mạng thứ hai để trao đổi thông tin giữa các host
trong nhóm và nó cũng không có bất cứ ảnh hưởng nào
đến hiệu năng của toàn hệ thống do việc sử dụng các địa
chỉ IP dành riêng.

Chế độ unicast của NLB gây ra tràn trên switch do sự
phân phối đồng thời lưu lượng mạng trên tất cả các cổng.
Tuy nhiên, chế độ multicast của NLB đưa ra cơ hội hạn chế
tràn switch để người quản trị hệ thống có thể cấu hình
một mạng LAN ảo trên switch cho các cổng tương ứng với
các host. Có thể làm được điều này bằng cách lập trình
cho switch hoặc sử dụng giao thức IGMP hoặc giao thức
GARP, GMRP.

NLB cần triển khai chức năng ARP để đảm bảo rằng địa chỉ
IP chính của nhóm và các địa chỉ IP ảo khác có thể phân
giải sang địa chỉ MAC multicast của nhóm. (Địa chỉ IP
dành riêng sẽ tiếp tục phân giải sang địa chỉ trạm làm việc
của card nhóm).

Thuật toán cân bằng tải

NLB sử dụng thuật toán lọc phân tán hoàn toàn để ánh xạ
các client đến các host trong nhóm. Thuật toán này cho
phép các host trong nhóm đưa ra các quyết định cân bằng
tải một cách độc lập và nhanh chóng cho từng gói đến. Nó
được tối ưu hoá để cung cấp khả năng cân bằng tải một
cách thống kê đối với một số lượng lớn các yêu cầu nhỏ do

vô số client tạo ra, điển hình là đối với các Web server.

Nếu số client và/hoặc các kết nối client tạo ra các tải quá
chênh lệch nhau trên server, thuật toán cân bàng tải sẽ ít
hiệu quả. Tuy nhiên, tính đơn giản và tốc độ của thuật
toán cho phép cung cấp hiệu nǎng rất cao bao gồm cả
thông lượng cao và thời gian đáp ứng ngắn trong một dải
rộng các ứng dụng client/server thông dụng.



NLB xử lý các yêu cầu của client bằng cách dẫn đường cho
một tỉ lệ phần trăm đã chọn những yêu cầu mới cho từng
host trong nhóm. Thuật toán không đáp ứng những thay
đổi về tải trên mỗi host (chẳng hạn như tải CPU hay vấn
đề sử dụng bộ nhớ). Tuy nhiên, quá trình ánh xạ sẽ được
thay đổi khi quan hệ thành viên trong nhóm thay đổi và tỉ
lệ phần trăm tải phân bố sẽ được tái cân bằng.

Khi xem xét một gói đến, tất cả các host thực hiện đồng
thời việc ánh xạ thống kê để xác định nhanh chóng host
nào sẽ xử lý gói đó. Quá trình ánh xạ sử dụng một hàm
ngẫu nhiên để tính mức ưu tiên của host dựa trên địa chỉ
IP và cổng đến của client cùng các thông tin trạng thái
khác để tối ưu hoá việc cân bằng tải. Host tương ứng sẽ
chuyển gói đó từ các tầng dưới lên tầng TCP/IP còn các
host khác sẽ loại bỏ gói này. Quá trình ánh xạ không thay
đổi trừ phi quan hệ giữa các host trong nhóm thay đổi, để
đảm bảo rằng địa chỉ IP và cổng đến của client cho trước
sẽ luôn được ánh xạ đến cùng một host trong nhóm.


Tuy nhiên, host cụ thể trong nhóm mà địa chỉ IP và cổng
đến của client ánh xạ tới không thể được xác định trước
do hàm ngẫu nhiên có tính đến quan hệ thành viên trong
nhóm hiện tại và quá khứ để tối thiểu hoá khả năng ánh
xạ lại.

Nhìn chung, chất lượng cân bằng tải được xác định một
cách thống kê bởi số lượng client tạo ra yêu cầu. Như kết
cấu tăng giảm về số lượng client theo thống kê, sự đều
đặn về chất lượng của thuật toán cân bằng tải sẽ thay đổi
nhẹ.

Để hoạt động cân bằng tải có độ chính xác cao trên mỗi
host trong nhóm, một phần tài nguyên hệ thống sẽ được
sử dụng để đo và phản ứng trước những thay đổi của tải.
Sự trả giá về hiệu năng này phải được cân nhắc so với lợi
ích của việc tối đa hoá khả năng sử dụng các tài nguyên
trong nhóm (về cơ bản là CPU và bộ nhớ).

Trong bất cứ trường hợp nào, việc sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên server phải được duy trì để có thể phục
vụ cho các tải client khác trong trường hợp xảy ra lỗi.

Khi một host mới tham gia vào nhóm, nó sẽ kích hoạt quá
trình hội tụ và một quan hệ thành viên mới trong nhóm sẽ
được tính toán. Khi quá trình hội tụ hoàn thành, một phần
tối thiểu client sẽ được ánh xạ tới host mới. NLB dò các
kết nối TCP trên mỗi host và sau khi kết nối TCP hiện tại
của chúng hoàn thành, kết nối tiếp theo từ các client bị

ảnh hưởng sẽ được xử lý bởi host mới.

Do đó, các host nên được bổ sung vào nhóm tại những
thời điểm tải tăng quá mạnh nhằm tối thiểu hoá hiện
tượng ngắt quãng các phiên. Để tránh vấn đề này, trạng
thái phiên phải được quản lý bởi ứng dụng server sao cho
nó có thể được tái cấu trúc hay được trả lại từ bất kỳ một
host nào trong nhóm. Ví dụ, trạng thái phiên có thể được
đẩy đến server cơ sở dữ liệu và lưu trong các cookies của
client.

Quá trình hội tụ

Các host trong nhóm trao đổi định kỳ các bản tin
"heartbeat" multicast hoặc broadcast với nhau. Điều này
cho phép các host có thể giám sát trạng thái của nhóm.
Khi trạng thái của nhóm thay đổi (chẳng hạn như khi có
host gặp trục trặc, rời khỏi hoặc tham gia vào nhóm), NLB
kích hoạt một chu trình gọi là hội tụ trong đó các host trao
đổi bản tin "heartbeat" để định ra một trạng thái mới, bền
vững cho nhóm. Khi tất cả các đạt được sự "nhất trí" trạng
thái mới của chúng sẽ được thiết lập và những thay đổi
này sẽ được lưu vào nhật ký sự kiện.

Trong quá trình hội tụ, các host tiếp tục xử lý lưu lượng
mạng đến như mọi khi ngoại trừ lưu lượng đến host bị lỗi
không nhận được dịch vụ. Quá trình hội tụ kết thúc khi tất
cả các host trong nhóm có được một quan hệ thành viên
ổn định trong vòng một vài chu kỳ heartbeat.


Khi hoàn thành quá trình hội tụ, lưu lượng đến host bị lỗi
sẽ được tái phân phối cho các host còn lại. Nếu một host
được thêm vào nhóm, quá trình hội tụ cho phép host này
nhận được phần tải của nó trong lưu lượng đã được cân
bằng.

Việc mở rộng nhóm không ảnh hưởng đến các hoạt động
của nhóm và theo một cách hoàn toàn trong suốt đối với
tất cả các Internet client cũng như trước các chương trình
phần mềm server. Tuy nhiên, nó có thể ảnh hưởng đến
các phiên client vì các client có thể phải tái ánh xạ tới các
host khác trong nhóm.



Trong chế độ unicast, mỗi host sẽ phát quảng bá
(broadcast) bản tin "heartbeat" theo chu kỳ. Còn trong
chế độ multicast, nó sẽ phát các bản tin này ở chế độ
multicast. Mỗi bản tin "heartbeat" chiếm một khung
Ethernet và được gắn thêm địa chỉ IP chính của nhóm
nhằm cho phép nhiều nhóm có thể cùng tồn tại trên cùng
một mạng con. Bản tin "heartbeat" của NLB của Microsoft
được gán một giá trị 0x886F. Chu kỳ gửi các bản tin này
mặc định là 01 giây. Giá trị này có thể thay đổi.

Trong quá trình hội tụ, chu kỳ này được giảm xuống chỉ
còn một nửa để đẩy nhanh việc hoàn tất quá trình này.
Thậm chí, đối với các cluster lớn, băng thông cần thiết để
truyền các bản tin "heartbeat" rất thấp (24kBytes/s cho
một cluster 16 đường). Để có thể khởi tạo quá trình hội

tụ, theo mặc định cần 05 bản tin heartbeat không được
nhận. Giá trị này có thể thay đổi.

Điều khiển từ xa

Cơ chế điều khiển từ xa của NLB sử dụng giao thức UDP
và được gán cổng dịch vụ #2504. Các gói dữ liệu điều
khiển từ xa được gửi tới địa chỉ IP chính của nhóm. Do
trình điều khiển trên mỗi host trong nhóm xử lý các gói
này, chúng cần được định tuyến tới mạng con của nhóm
(thay vì tới một mạng con gốc mà nhóm đó gắn vào). Khi
các lệnh điều khiển từ xa được đưa ra trong nhóm, chúng
sẽ được phát quảng bá trên mạng con cục bộ.

Điều này đảm bảo tất cả các host trong nhóm đều có thể
nhận được chúng ngay cả khi nhóm chạy trong chế độ
unicast.

Hiệu năng cân bằng tải

Vai trò của NLB tác động đến hiệu năng của hệ thống có
thể được đánh giá dựa trên bốn tiêu chí chính sau:

- CPU overhead trên các host của nhóm - Phần trăm CPU
cần thiết để phân tích và lọc các gói của mạng (càng thấp
càng tốt).

Tất cả các giải pháp cân bằng tải đều cần sử dụng một
phần tài nguyên của hệ thống để xem xét gói đến và đưa
ra quyết định cân bằng tải và do đó ít nhiều ảnh hưởng

đến hiệu năng của mạng.

Giải pháp cân bằng tải dựa trên bộ điều phối cần kiểm tra,
hiệu chỉnh và truyền lại gói tới các host trong nhóm
(thường phải sửa đổi lại địa chỉ IP để tái định tuyến gói từ
địa chỉ IP ảo tới địa chỉ IP của từng host cụ thể). Đối với
NLB, nó phân phối đồng thời các gói đến tới tất cả các
host trong nhóm và áp dụng một thuật toán lọc để loại bỏ
các gói không mong muốn

Quá trình lọc gây ảnh hưởng ít hơn so với quá trình tái
định tuyến và kết quả là thời gian đáp ứng nhanh hơn với
thông lượng toàn hệ thống cao hơn.

- Thông lượng và thời gian đáp ứng yêu cầu

NLB nâng cao hiệu năng hệ thống bằng cách tăng thông
lượng và tối thiểu hoá thời gian đáp ứng tới các yêu cầu
của client. Khi năng lực của các host trong nhóm được
khai thác tối đa, nó sẽ không thể cung cấp thêm thông
lượng và thời gian đáp ứng tăng đột biến tuỳ theo độ trễ
hàng đợi các yêu cầu của client. Bổ sung thêm host sẽ cho
phép tăng thông lượng và giảm thời gian đáp ứng.

Nếu nhu cầu của khách hàng tiếp tục tăng, các host sẽ
được thêm vào cho đến khi mạng con bão hoà. Và nếu tải
tiếp tục tăng, cần sử dụng nhiều nhóm NLB và việc phân
phối lưu lượng giữa các host được thực hiện bằng kỹ thuật
Round Robin DNS.


Trên thực tế, phương pháp này được sử dụng cho Web site
của Microsoft www.microsoft.com, hiện thường xuyên có 5
nhóm NLB, mỗi nhóm có 6 host và các host chạy ở mức
60% năng lực tối đa.



- Băng thông sử dụng của Switch (Switch occupancy): Tỉ
lệ băng thông của switch được sử dụng bởi quá trình làm
tràn các yêu cầu của client.

Kiến trúc lọc gói của NLB dựa trên mạng con broadcast để
phân phối các yêu cầu của client tới tất cả các host cùng
lúc. Trong các nhóm nhỏ, có thể sử dụng hub để kết nối
các host. Với các nhóm lớn hơn, switch sẽ là sự lựa chọn.
Và như mặc định, NLB sẽ tạo ra hiện tượng "tràn" switch
để có thể phân phối các yêu cầu của client tới tất cả các
host cùng lúc.

Cần chắc chắn rằng hiện tượng "tràn" switch không được
vượt quá năng lực của switch, đặc biệt khi switch được
chia sẻ giữa nhóm và các máy tính ngoài nhóm. Bình
thường, băng thông sử dụng cho lưu lượng yêu cầu của
client chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng lượng băng thông
cần thiết cho quá trình truyền thông giữa server và client.

Tuy nhiên quá trình "tràn" switch sẽ trở thành vấn đề
trong những ứng dụng có tỉ lệ phần trăm đáng kể lưu
lượng mạng được dẫn tới nhóm (chẳng hạn như quá trình
upload file trong các ứng dụng FTP) hay khi nhiều nhóm

sử dụng chung một switch. Trong những trường hợp này,
chạy NLB trong chế độ multicast và thiết lập mạng LAN ảo
để hạn chế tràn switch là biện pháp khắc phục rất hiệu
quả khiếm khuyết này.

Ngoài ra, tính khả mở của NLB quyết định khả năng cải
thiện hiệu năng của hệ thống khi các host được thêm vào
nhóm.

Kết luận

Server đang là nền tảng phân phối các ứng dụng quan
trọng, thường xuyên và rộng khắp như Web, Streaming
media, VPN. Như một phần tích hợp của Windows2000
Advanced Server và Datacenter Server, NLB cung cấp một
giải pháp lý tưởng, kinh tế để tăng cường tính khả mở và
khả dụng cho các ứng dụng trên cả môi trường Internet
và intranet.

Tuy nhiên, ngoài những ứng dụng tích hợp trong
Windows2000, NLB còn có thể tích hợp trong các hệ điều
hành mạng và các ứng dụng chạy trên server khác một
cách hiệu quả.

×